|
Auden thought of poetry as dual: poetry as song, poetry
as truth. It's perhaps this that, in his poem Their Lonely Betters',
written in 1950, made him sceptical of birds who sing without feeling
and with no regard for truth.
Auden coi thơ là song ẩm: Thơ như bài hát,
thơ như sự thực.
Vì thế ông không khoái tiếng
chim hót: Cảm xúc, chân lý cái con
mẹ gì ở trong đó?
Their Lonely Betters
As I listened from a beach-chair in the shade
To all the noises that my garden made,
It seemed to me only proper that words
Should be withheld from vegetables and birds.
A robin with no Christian name ran through
The Robin-Anthem which was all it knew,
And rustling flowers for some third party waited
To.say which pairs, if any, should get mated.
Not one of them was capable of lying,
There was not one which knew that it was dying
Or could have with a rhythm or a rhyme
Assumed responsibility for time.
Let them leave language to their lonely betters
Who count some days and long for certain letters;
We, too, make noises when we laugh or weep:
Words are for those with promises to keep.
W.H. Auden
A Passion of Poets
By Joseph Brodsky
Oct 1983
I
When a writer resorts to a language other than his mother
tongue, he does so either out of necessity, like Conrad, or because
of burning ambition, like Nabokov, or for the sake of greater estrangement,
like Beckett. Belonging to a different league, in the summer of 1977,
in New York, after living in this country for five years, I purchased
in a small typewriter shop on Sixth Avenue a portable "Lettera 22"
and set out to write (essays, translations, occasionally a poem) in
English for a reason that had very little to do with the above. My
sole purpose then, as it is now, was to find myself in closer proximity
to the man whom I considered the greatest mind of the twentieth century:
Wystan Auden.
https://www.enotes.com/topics/less-than-one
Khi Brodsky bị lưu đày nội xứ vì cái tội
ăn bám xã hội, ông nhận được 1 tuyển tập thơ, của
ai đó, gửi tặng, trong có bài thơ của Auden,“In Memory
of W.B. Yeats”. Bài thơ làm ông ngộ ra, như Remnick
viết.
Trong bài viết "Để làm hài lòng 1
cái bóng", được trích đoạn với cái tít
"Một đam mê thi sĩ", ông kể, về cái chuyện ông
mua 1 cái máy đánh chữ, tập viết bằng tiếng Anh,
chỉ để thân cận với nhà thơ Auden, "cái đầu vĩ đại
nhất của thế kỷ 20", khác với một Conrad, do cần thiết, hay Nabokov,
do háo danh, hay Beckett, do thèm ghẻ lạnh.
Tôi
hết còn tin vào nơi chốn ấy
Sau cùng ông bị kết án năm năm, lưu đầy nội
xứ. Ông làm việc tại một trang trại ở Norinskaya, vùng
đất sũng nước gần Bạch Hải. Chỉ có Akhmatova, người đã từng
trải qua những nỗi thống khổ nhiều hơn thế nữa, đã từng mất bao
nhiêu thân quyến, bao nhiêu bạn bè trong cái
lò xay thịt người là những năm tháng dưới sự thống
trị của Lênin và Stalin, chỉ có bà mới có
thể nở một nụ cười kèm theo lời nhận xét cay đắng: "Hãy
tưởng tượng bản tự thuật mà họ đang sáng tạo cho thằng em tóc
hung của chúng ta? Chính anh ta đã mướn tụi nó
làm đấy!"
Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng
tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã
vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm
việc trong một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới.
Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái",
ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân
tộc, tình máu mủ. Ông không nói giỡn.
Buổi chiều ông có thời giờ ngồi làm những bài
thơ "xấu xa", và tự cho mình bị quyến rũ bởi "chủ nghĩa
hình thức trưởng giả" từ những thần tượng của ông. Hai đoạn
thơ sau đây của Auden đã làm ông "ngộ" ra:
Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,
Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet.
Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp,
Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.
Auden
Ông bị xúc động không hẳn bởi cách
mà Auden truyền đi sự khôn ngoan - làm bật nó
ra như trong dân ca - nhưng bởi ngay chính sự khôn
ngoan, ý nghĩa này: Ngôn ngữ là trên
hết, xa xưa lưu tồn dai dẳng hơn tất cả mọi điều khác, ngay cả
thời gian cũng phải cúi mình trước nó. Brodsky coi
đây là đề tài cơ bản, trấn ngự của thi ca của ông,
và là nguyên lý trung tâm của thơ xuôi
và sự giảng dạy của ông. Trong cõi lưu đầy như thế
đó, ông không thể tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn
đóng, áo choàng, ông bước lên bục cao nơi
Hàn lâm viện Thụy-điển nhận giải Nobel văn chương, nói
về tính độc đáo của văn chương không như một trò
giải trí, một dụng cụ, mà là sự trang trọng, bề thế
xoáy vào tinh thần đạo đức của nhân loại. Nếu tác
phẩm của ông là một thông điệp đơn giản, đó là
điều ông học từ đoạn thơ của Auden: "Sự chán chường, mỉa
mai, dửng dưng mà văn chương bày tỏ trước nhà nước,
tự bản chất phải hiểu như là phản ứng của cái thường hằng
- cái vô cùng - chống lại cái nhất thời, sự hữu
hạn. Một cách ngắn gọn, một khi mà nhà nước còn
tự cho phép can dự vào những công việc của văn chương,
khi đó văn chương có quyền can thiệp vào những vấn
đề của nhà nước. Một hệ thống chính trị, như bất cứ hệ thống
nào nói chung, do định nghĩa, đều là một hình
thức của thời quá khứ muốn áp đặt chính nó
lên hiện tại, và nhiều khi luôn cả tương lai..."
Trong số báo trên TV đã giới thiệu bài
viết của Gordimer. Kiếm mãi không thấy, bèn post lại.
(1)
WOLE SOYINIKA
THE LITERARY LION
By Nadine Gordimer
JULY 2007
Albert Camus wrote, "One either serves the whole of man or one
does not serve him at all. And if man needs bread and justice, and if
what has to be done must be done to serve this need, he also needs pure
beauty which is the bread of his heart," and so Camus called for "courage
in one's life and talent in one's work." Wole Soyinka. This great Nigerian
writer has in his writings and in the conduct of his life served the whole
of humankind. He endured imprisonment in his dedication to the fight for
bread and justice, and his works attain the pure beauty of imaginative
power that fulfills that other hungry need, of the spirit. He has "courage
in his life and talent in his work." In Soyinka's fearless searching of
human values, which are the deep integument of even our most lyrical poetry,
prose, and whatever modes of written-word-created expression we devise,
he never takes the easy way, never shirks the lifetime commitment to write
as well as he can. In every new work he zestfully masters the challenge that
without writing as well as we can, without using the infinite and unique
possibilities of the written word, we shall not deserve the great responsibility
of our talent, the manifold sensibilities of the lives of our people which
cannot be captured in flipped images and can't be heard in the hullabaloo
of mobile-phone chatter. Bread, justice, and the bread of the heart-which
is the beauty of literature, the written word-Wole Soyinka fulfills all these.
(1): Kiếm thấy rồi:
http://www.tanvien.net/Day_TV/35.html
"One
either serves the whole of man or one does not serve him at all.
And if man needs bread and justice, and if what has to be done must
be done to serve this need, he also needs pure beauty which is the bread
of his heart," and so Camus called for "courage in one's life and talent
in one's work."
Hoặc là mi phục vụ, trọn con người, hoặc là
mi vờ nó, cái gọi là trọn con người.
Và nếu con người cần bánh mì, và
công lý, và nếu hai cái cần này
của nó được thoả mãn, thì nó còn
cần cái đẹp tinh khiết, là bánh mì của trái
tim của nó, và thế là Camus bèn la lớn, "bớ người ta", hãy "can đảm
trong cuộc đời và tài năng trong cuộc viết".
Cái gọi là can đảm của đàn ông
Mít, bị cuộc chiến Mít làm thịt sạch.
Đéo có tí can đảm, là đéo
viết được.
Tinh anh Ngụy, chết vì mảnh bằng, là vì
vậy.
Nhắc tới Camus, bèn giới thiệu cuốn mới mua
Six
Poets Hardy to Larkin
W H. Auden
1907-1973
Wystan
Hugh Auden was born in York, brought up in Birmingham, where his father
was a physician, and educated at Gresham's School, Holt, and Christ Church,
Oxford. His student contemporaries included poets Cecil Day Lewis, Louis
MacNeice and Stephen Spender. After graduating in 1929, he spent several
months in Berlin, often in the company of Christopher Isherwood, his future
collaborator. His first book, Poems, was published in 1930 by T. S. Eliot
at Faber and Faber and he later became associated with Rupert Doone's Group
Theatre, for which he wrote several plays, sometimes in collaboration with
Isherwood. In January 1939 the two of them left England for the United
States, where Auden became a citizen in 1946. His later works include The
Age of Anxiety, Nones, The Shield of Achilles and Homage to Clio, and he
also wrote texts for works by Benjamin Britten and (with Chester Kallman)
the libretto for Stravinsky's opera The Rake's Progress. Elected Professor
of Poetry at Oxford in 1956, he died in Vienna in 1973.
Nobody
in the thirties was quite sure what war would be like, whether there
would be gas, for instance, or aerial bombardment. There's a stock and
rather a silly question: 'Why was there no poetry written in the Second
World War?' One answer is that there was, but it was written in the ten
years before the war started.
Auden was a landscape poet, though of a rather particular kind. The
son of a doctor, he was born in York in 1907 but brought up in Solihull
in the heart of the industrial Midlands. Not the landscape of conventional
poetic inspiration but, for Auden, magical:
from Letter to Lord Byron
But let me
say before it has to go,
It's the most lovely country that I know;
Clearer than Scafell Pike, my heart has stamped on
The view from Birmingham to Wolverhampton.
Long, long ago, when I was only four,
Going towards my grandmother, the line
Passed through a coal-field. From the corridor
I watched it pass with envy, thought 'How fine!
Oh how I wish that situation mine.'
Tramlines and slagheaps, pieces of machinery,
That was, and still is, my ideal scenery.
At Oxford, he was already writing and
publishing poetry. To his contemporaries, he was a magnetic figure, partly
because he seemed to have all the answers, a characteristic that his
later self came to deplore, though he remained a bit of an intellectual
bully all his life. As a man, he was insecure and unhappy and doesn't
seem to have fallen in love until he went to America in 1939, but this didn't
stop him prescribing for the love affairs of his friends. The Danish philosopher
Kierkegaard says that there are two ways: one is to suffer; the other is
to become a professor of the fact that another suffers. Auden was to play
both roles in His time; but when he was an undergraduate, he was undoubtedly
a professor.
Who's Who
A shilling
life will give you all the facts:
How Father beat him, how he ran away,
What were the struggles of his youth, what acts
Made him the greatest figure of his day:
Of how he fought, fished, hunted, worked all night,
Though giddy, climbed new mountains; named a sea:
Some of the last researchers even write
Love made him weep his pints like you and me.
With all his honours on, he sighed for one
Who, say astonished critics, lived at home;
Did little jobs about the house with skill
And nothing else; could whistle; would sit still
Or potter round the garden; answered some
Of his-long marvellous letters but kept none.
Auden taught at various prep schools in the early thirties, and one
of the criticisms that contemporaries made of his poetry was that his view
of the world was dictated by his unhappy experiences at school. The best
reason I have for opposing Fascism', he said, 'is that at school I lived
in a Fascist state.' Not a statement that would commend itself to someone
actually having to live in a Fascist state, and the kind of remark that
made him blush once he got away from England in 19.39. 'All the verse I
wrote,' Auden said later,
all the positions I took in the thirties didn't save a single Jew.
These writings, these attitudes only help oneself They merely make people
who think like one admire and like one, which is rather embarrassing.
Which is true, but which says nothing about the poetry, and embarrassing
though the older Auden found his younger self, the poetry of that younger
self survives the embarrassment.
The turning point in Auden's life came, or is
supposed to have come, when he and Isherwood went to the Umted States
at the start of 1939 and stayed there, both eventually becoming American
citizens. Silly people at the time took this to be cowardice, which it
wasn't, and even people who admired him thought Auden's poetry was never
as good afterwards. But this wasn't true either.
Why Auden left England has been much discussed.
Auden liked feeling at home, but he didn't like feeling at home where
he felt at home. England was too cosy. He would never grow up there, he
thought. He would always be the enfant terrible,
the prisoner of his public and court poet to the Left. At least this
is how Auden came to see it.
But it wasn't quite like that either. All that
had happened was that he had gone to America in 1939, seemingly with no
plans to stay, and, for the first time in his life, he had fallen in love
- with Chester Kallman, with whom he was to live happily and unhappily
for the rest of his life. It just happened that change in private places
went with change in public places, love and war coinciding: Auden really
was just an early 'GI bride'. Somebody who cared more about what people thought
would have come back when war started, but Auden - and it was one of the
winning characteristics in a personality that was not always attractive -
didn't care tuppence what people thought.
As it transpired, going to America turned out
to be a deliverance, the kind of escape an established writer often craves,
a way of eluding his public, of not having to go on writing in the same
way, of not having to imitate himself 'By the time you have perfected any
style of writing', said George Orwell, 'you have always outgrown it.' 'You
spend twenty-five years learning to be yourself,' said Auden, 'and then you
find you must now start learning not to be yourself - and it took him a
while. This next poem Auden called a 'hangover from home'. He wrote it in
America, but one of the reasons he left England, he said, was to stop writing
poetry like this.
I n America,
Auden's poetry began to take on a different tone. His 'old grand manner',
as he described it, proceeded from 'a resonant heart'. With the war and the
Cold War that followed:
from We Too Had Known Golden
Hours
All words like
Peace and Love,
All sane affirmative speech,
Had been soiled, profaned, debased
To a horrid mechanical screech.
Hardy never said much
about writing or the difficulties of it, or the moral difficulties of
it. Kafka said that a writer was doing the devil's work, writing a wholly
inadequate response to the brutishness of the world, and Hardy increasingly
felt this. It's not that it's an immoral activity or an amoral one; it's
just that the act of creation is something to which the ordinary standards
of human behavior do not apply. Hardy never liked to be touched. He always
walked in the road to avoid brushing against people, and servants were
told never to help him on with his coat and just to drop the shawl around
his shoulders and not tuck him in. The pen had been his weapon in his struggle
for life - and it had been a struggle.
The
next poem is a dialogue with the moon.
Hardy chẳng hề lầu bầu về viết, hay những khó khăn về viết,
hay khó khăn đạo đức của nó. Kafka phán nhà
văn làm, việc của quỉ, viết trọn một phúc đáp không
thoả đáng về tính thú vật của thế giới, và Hardy
càng ngày càng cảm thấy đúng như thế. Nó
không phải là 1 hành động đạo đức, hay không đạo
đức, mà cái hành động sáng tạo có 1
điều gì mà lũ chó, hay phường mắt trắng dã, không
hiểu được, hay, không áp dụng được.
Hardy đếch khoái ai đụng vô ông ta. Cây
viết là vũ khí của ông ta, trong cuộc chiến đấu với
đời – và quả có cuộc chiến đấu đó thực.
Bài thơ sau đây là 1 cuộc lèm bèm
với trăng.
I Looked Up from My Writing
I looked up
from my writing,
And gave a start to see,
As if rapt in my inditing,
The moon's full gaze on me.
Her meditative misty head
Was spectral in its air,
And I involuntarily said,
'What are you doing there?'
'Oh, I've been scanning pond and hole
And waterway hereabout
For the body of one with a sunken soul
Who has put his life-light out.
'Did you hear his frenzied tattle?
It was sorrow for his son
Who is slain in brutish battle,
Though he has injured none.
'And now I am curious to look
Into the blinkered mind
Of one who wants to write a book
In a world of such a kind.'
Her temper overwrought me,
And I edged to shun her view,
For I felt assured she thought me
One who should drown him too.
Cuốn này,
do Anthony biên tập và viết Tựa, cũng có 1
bản dịch bài Golem.
Post ở đây, vả sẽ có bản tiếng Việt liền
sau.
THE GOLEM
THE PLOT
To
make his horror complete, Caesar, pursued to the base of a statue
by the relentless daggers of his friends, discovers among the faces
'and blades the face of Marcus Junius Brutus, his favorite, his son perhaps,
and he ceases to defend himself to exclaim: "You too, my son!" Shakespeare
and Quevedo echo the pathetic cry. Fate takes pleasure in repetitions,
variants, symmetries.
Nineteen centuries later, in the south of Buenos Aires
province, a gaucho is assaulted by other gauchos, and, as he falls,
recognizes a godson and with gentle reproach and gradual surprise
exclaims (these words must be heard, not read): "But che!" He
is killed and never knows he dies so that a scene may be re-enacted.
-Translated by ELAINE KERRIGAN
Để cho nỗi kinh hoàng ghê rợn, được trọn vẹn,
Sáu Dân, bị rượt đuổi bởi những đấng bạn quí
Bắc Kít, đấng nào cũng lăm lăm 1 cây dao găm,
nhận ra rằng, trong số đó, có cả đứa con nuôi của
mình, đứa mà ông quí nhất, là Tà
Lọt, Ô Sin, ông bèn ngưng chống cự, và la
lên, "Con đó ư, Bố, Sáu Dân nè!"
[Cả con nữa ư, Osin!]
Shakespeare và Quevedo lập lại tiếng kêu
thống thiết.
Số mệnh - Cái Ác Bắc Kít thì
cũng được - khám phá ra cái thú vui sa
đích của nó, trong lập lại, ứng tác, đối xứng
Note: Bài viết ngắn của Borges, cũng là 1
sự lập lại. Đoạn sau, đúng như trên, là câu
chuyện Tà Lọt & Sáu Dân: 19 thế kỷ qua đi,
tại thành phố Xề Gòn.... Những từ này, phải nghe
bằng tiếng Nam Kít, không đọc được...
THE GIFTS
Let
no one debase with pity or reprove
This declaration of God's mastery
Who with magnificent irony
Gave me at once books and the night.
Of this city of books he made two
Lightless eyes the owners, eyes that can
Read only in the library of dreams
Those senseless paragraphs that surrender
The dawns to their desire. In vain the day
Lavishes on them its infinite books,
Arduous as those arduous manuscripts
That were destroyed in Alexandria.
Of hunger and thirst (a Greek story has it)
A king dies amid fountains and gardens;
I drudge aimlessly about the limits
Of this enormous library of my blindness.
Encyclopedias, atlases, the East
And the West, centuries, dynasties,
Symbols, cosmos, and cosmogonies
Entice from the walls, but uselessly.
Within my darkness I slowly explore
The hollow half light with hesitant cane,
I who always imagined Paradise
To be a sort of library.
Something, which certainly is not named
By the word chance, governs these things;
Some other already received on other faded
Afternoons the many books and the dark.
Wandering through the heavy galleries,
I often feel with sacred vague horror
That I am that other, the dead one, who will
Have walked here too and on these very days.
Which of us is writing this poem
With plural I and a single darkness?
What difference the word that names me
If the curse is undivided and single?
Groussac or Borges, I look at this dear
World which collapses and goes out
In a pale indefinite ash
That resembles both the dream and oblivion.
-Translated by IRVING FELDMAN
THE MOON
History
tells us that in such time past
when so many real, imaginary
and doubtful things took place,
one m~n conceived the unwieldy
Plan of ciphering the universe
in one book and, infinitely rash,
built his high and mighty manuscript,
shaping and declaiming the final line.
But when about to praise his luck,
he lifted up his eyes, and saw
a burnished disk upon the air; startled,
he realized he'd left out the moon.
Though contrived, this little story
might well exemplify the mischief
that involves us all who take on
the job of turning real life into words.
Always the essential thing gets lost. That's
one rule holds true of every inspiration.
Nor will this resume of my long
association with the moon escape it.
I don't know when I saw it first-
if in the sky prior to the doctrine
of the Greek, or in the evening darkening over
the patio with the fig tree and the well.
As they say, this unpredictable life
can be, among other things, quite beautiful.
That's how it was the evening we looked
at you, she and I--oh, shared moon!
Better than real nighttime moons, I can
recall the moons of poetry: the bewitched
dragon moon that thrills one in the ballad,
and, of course, Quevedo's bloody moon.
Then there was that other blood-red moon
John wrote of in his book of dreadful
prodigies and terrifying jubilees;
still other moons are clearer, silvery.
Pythagoras (according to one tradition)
used blood to write upon a mirror,
and men read it by reflection
in that other mirror called the moon.
There's an iron forest where a huge wolf
lives whose strange fate is
to knock the moon down and murder it
when the last dawn reddens the sea.
(This is well known in the prophetic North;
also, that on that day the ship made out
of all the fingernails of the dead will spread
a poison on the world's wide-open seas.)
When in Geneva or in Zurich once, luck
had it I too should become a poet,
it imposed on me, as on the rest, the secret
duty to define the moon.
By dint of scrupulous study,
I rang all the modest changes
under the lively apprehension that Lugones
might have used my amber or my sand.
As for exotic marble, smoke, cold snow-
these were for moons that lit up verses
never destined, in truth, to attain
the difficult distinction of typography.
I thought the poet such a man
as red Adam was in Paradise-
he gave everything its true,
precise, still unknown name.
Ariosto taught me that living in
the doubtful moon are all dreams,
the unattainable, lost time, all possibles
or impossibles (they're pretty much the same).
Apollodorus showed me the magic
shadow of triform Diana;
Hugo disclosed its golden sickle;
an Irishman his tragic moon of black.
So, while I was poking in this mine
of moons out of mythologies,
along it came, around the corner:
the celestial moon of every day.
Among the words, I know there's only
one for remembering or imagining it.
For me the secret is to use the word
humbly. And the word is-moon.
Now I don't dare stain its immaculate
appearance with one vain image.
I see it as indecipherable, daily
and apart from all my writing.
I know the moon, or the word moon,
is a: character created for
the complex inditing of the rare
thing we all are, multiple and unique.
It's one of the symbols which fate
or chance gave man so that
one day in a glorious blaze, or agony,
he'd learn to write his own true name.
-Translated by EDWIN HONIG
Trăng
( Đặng Lệ Khánh)
TRĂNG
Em bước ra vườn, trăng chảy tràn trên vai
Vườn rất im không một tiếng thở dài
Chỉ có con dế quen cất giọng chào đêm
tới
Và nước trong hồ gờn gợn cá gọi mời
Em ngước nhìn trời, trăng thật sáng, thật trong
Lành lạnh khuya dâng, mình ôm mình
vào lòng
Trăng cứ lăn hoài làm sao trăng còn nhớ
Những câu thề theo trăng rồi tan vào hư không
Em nói với trăng dù biết trăng rất xa
Những lời dịu êm em dành cho người ta
Chỉ có con dế quen và em và đêm
biết
Trăng nhẹ nhàng theo em vào giấc ngủ thêu
hoa
Năm rồi năm đi qua trăng vẫn còn lăn hoài
Trời vẫn rất trong và đêm vẫn miệt mài
Con dế quen thôi không còn cất tiếng
Em ôm vai mình dỗ tròn cơn mộng dài
Thế giới quay cuồng, đất và trời chuyển rung
Có rất nhiều tiếng cười, và tiếng khóc
chập chùng
Em vẫn nằm co người đếm trừu chờ giấc ngủ
Níu một vầng trăng đã lạnh tuổi thu đông
Đặng Lệ Khánh
The Charles Eliot Norton Lectures
1967-1968
Trong
bài viết Ẩn Dụ, trong cuốn This Craft of Verse,
Borges có nhắc tới 1 câu thơ, "phản bác" trăng -
đây cũng là ý nghĩa bài thơ Tặng Phẩm, theo
GCC, vì trao cho cả thư viện sách, cùng lúc
trao cho món quà, mù - mà ông
nghĩ là của Plato:
Tớ mong tớ là đêm để có thể ngắm em của
tớ ngủ, với cả ngàn
con mắt!
I wish I were the night so that I might watch your sleep with
a thousand eyes
Hardy never said
much about writing or the difficulties of it, or the moral difficulties
of it. Kafka said that a writer was doing the devil's work, writing a wholly
inadequate response to the brutishness of the world, and Hardy increasingly
felt this. It's not that it's an immoral activity or an amoral one; it's
just that the act of creation is something to which the ordinary standards
of human behavior do not apply. Hardy never liked to be touched. He always
walked in the road to avoid brushing against people, and servants were
told never to help him on with his coat and just to drop the shawl around
his shoulders and not tuck him in. The pen had been his weapon in his struggle
for life - and it had been a struggle.
The
next poem is a dialogue with the moon.
Hardy chẳng hề lầu bầu về viết, hay những khó khăn về viết,
hay khó khăn đạo đức của nó. Kafka phán nhà
văn làm, việc của quỉ, viết trọn một phúc đáp không
thoả đáng về tính thú vật của thế giới, và
Hardy càng ngày càng cảm thấy đúng như thế.
Không
phải đạo đức, hay không đạo đức, hành động sáng tạo có
1 điều gì, lũ chó, hay phường mắt trắng dã, không
hiểu được, hay, không áp dụng được.
Hardy đếch khoái ai đụng vô ông ta. Cây
viết là vũ khí của ông ta, trong cuộc chiến đấu với
đời – và quả có cuộc chiến đấu đó thực.
Bài thơ sau đây là 1 cuộc lèm bèm
với trăng.
I Looked Up from My Writing
I looked
up from my writing,
And gave a start to see,
As if rapt in my inditing,
The moon's full gaze on me.
Her meditative misty head
Was spectral in its air,
And I involuntarily said,
'What are you doing there?'
'Oh, I've been scanning pond and hole
And waterway hereabout
For the body of one with a sunken soul
Who has put his life-light out.
'Did you hear his frenzied tattle?
It was sorrow for his son
Who is slain in brutish battle,
Though he has injured none.
'And now I am curious to look
Into the blinkered mind
Of one who wants to write a book
In a world of such a kind.'
Her temper overwrought me,
And I edged to shun her view,
For I felt assured she thought me
One who should drown him too.
Tớ nhìn lên từ trang
viết của mình
Tớ nhìn lên từ trang viết
Và rất ư hài lòng vì cái viết của mình
Và
bèn ngắm trăng
Và trăng bèn dành trọn cái nhìn,
đáp lại tớ
Cái đầu mù sương mù suy tư của nàng
Thì mới ma mị làm sao trong cái "air" của nó
Và tớ bèn vô tình phán,
Em đang làm
gì ở trên ấy?
Ôi, ta đang soi ao, và hố
Và sông hồ đâu đây
Để kiếm tìm một cái xác
Của một kẻ, với linh
hồn đắm chìm
Đã trút cạn ánh sáng cuộc đời của nó
Mi có nghe hắn lèm bèm khùng điên?
Về nỗi đau buồn đứa con trai
Chết trong 1 trận đánh tàn bạo
Dù thằng con chẳng gây thương tích cho ai
Và bây giờ ta tò mò muốn nhìn vào
cái đầu mù của mi
Kẻ muốn viết 1 cuốn sách
Trong 1 thế giới khốn kiếp như thế đó!
Tính khí của nàng làm tôi mệt nhoài
Và tôi tránh cái nhìn của nàng
Bởi là vì tôi cảm thấy
Nàng nghĩ
Tôi cũng là
1 trong số những người đẩy anh ta tự trầm
Auden
thought of poetry as dual: poetry as song, poetry as truth. It's
perhaps this that, in his poem Their Lonely Betters', written in 1950,
made him sceptical of birds who sing without feeling and with no regard
for truth.
Auden nghĩ thơ thì lưỡng, kép, có
đôi: thơ như bài hát, bài ca;thơ như sự
thực.
Có lẽ vì thế, mà trong bài
thơ dưới đây, cho thấy, ông hoài nghi chim chóc,
chúng hát, mà không có "feeling"
cái con mẹ gì, và cũng đếch thèm để ý
đến sự thực!
Their Lonely Betters
As I listened from a beach-chair in the shade
To all the noises that my garden made,
I t seemed to me only proper that words
Should be withheld from vegetables and birds.
A robin with no Christian name ran through
The Robin-Anthem which was all it knew,
And rustling flowers for some third party waited
To.say which pairs, if any, should get mated.
Not one of them was capable of lying,
There was not one which knew that it was dying
Or could have with a rhythm or a rhyme
Assumed responsibility for time.
Let them leave language to their lonely betters
Who count some days and long for certain letters;
We, too, make noises when we laugh or weep:
Words are for those with promises to keep.
Auden died in Vienna in 1973, when he was only sixty-six,
but it would be hard to say his work was not finished. His output
had been prodigious, and he went on working right until the end in
a routine that was every bit as rigid as that of Housman, whom he so
briskly diagnosed when he was a young man (,Deliberately he chose the
dry-as-dust, / Kept tears like dirty postcards in a drawer'). But you're
no more likely to find consistency in a writer than you would in a normal
human being. Besides, as Auden himself said: 'At thirty I tried to vex
my elders. Past sixty it's the young whom I hope to bother.' I would
be hard put to say what a great poet is, but part of it, in Auden's case,
is the obscurity with which I started. If his life has to be divided into
two parts, there are great poems in both. Perhaps he was too clever for
the English. Bossy
and not entirely likeable, when he died his death occasioned
less regret than that of Larkin or Betjeman, though he was the greater
poet. This would not have concerned him as he was not vain: criticism
seldom bothered him nor did he covet praise or money. And though he
would have quite liked the Nobel Prize, all he demanded at the finish
was punctuality. I'll end with the final part of the poem Auden wrote
in
memory of another poet, W. B. Yeats, who died in January
1939. The last two lines are inscribed on Auden's memorial in Westminster
Abbey.
Hai dòng thơ chót bài thơ tưởng niệm
Yeats được khắc trên mộ bia của Auden.
In the prison of his days
Teach the free man how to praise.
Bài
thơ thần sầu này mở ra cõi thơ của Brodsky, như David Remnick viết:
Hai đoạn thơ sau đây của
Auden đã làm ông "ngộ" ra:
Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,
Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet.
Thời gian vốn không khoan
dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp,
Thờ phụng ngôn ngữ và
tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí
trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.
Auden
Ông bị xúc động
không hẳn bởi cách mà Auden truyền đi sự khôn
ngoan - làm bật nó ra như trong dân ca - nhưng
bởi ngay chính sự khôn ngoan, ý nghĩa này:
Ngôn ngữ là trên hết, xa xưa lưu tồn dai dẳng hơn
tất cả mọi điều khác, ngay cả thời gian cũng phải cúi mình
trước nó. Brodsky coi đây là đề tài cơ bản,
trấn ngự của thi ca của ông, và là nguyên lý
trung tâm của thơ xuôi và sự giảng dạy của ông.
Trong cõi lưu đầy như thế đó, ông không thể
tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn đóng, áo choàng,
ông bước lên bục cao nơi Hàn lâm viện Thụy-điển
nhận giải Nobel văn chương, nói về tính độc đáo
của văn chương không như một trò giải trí, một dụng
cụ, mà là sự trang trọng, bề thế xoáy vào
tinh thần đạo đức của nhân loại. Nếu tác phẩm của ông
là một thông điệp đơn giản, đó là điều ông
học từ đoạn thơ của Auden: "Sự chán chường, mỉa mai, dửng dưng mà
văn chương bày tỏ trước nhà nước, tự bản chất phải hiểu
như là phản ứng của cái thường hằng - cái vô
cùng - chống lại cái nhất thời, sự hữu hạn. Một cách
ngắn gọn, một khi mà nhà nước còn tự cho phép
can dự vào những công việc của văn chương, khi đó văn
chương có quyền can thiệp vào những vấn đề của nhà
nước. Một hệ thống chính trị, như bất cứ hệ thống nào nói
chung, do định nghĩa, đều là một hình thức của thời quá
khứ muốn áp đặt chính nó lên hiện tại, và
nhiều khi luôn cả tương lai..."
from In Memory of W B. Yeats
(d. Jan. /939)
Earth,
receive an honoured guest:
William Yeats is laid to rest.
Let the Irish vessel lie
Emptied of its poetry.
Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,
Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honours at their feet.
Time that with this strange excuse
Pardoned Kipling and his views,
And will pardon Paul Claudel,
Pardons him for writing well.
In the nightmare of the dark
All the dogs of Europe bark,
And the living nations wait,
Each sequestered in its hate;
Intellectual disgrace
Stares from every human face,
And the seas of pity lie
Locked and frozen in each eye.
Follow, poet, follow right
To the bottom of the night,
With your unconstraining voice
Still persuade us to rejoice;
With the farming of a verse
Make a vineyard of the curse,
Sing of human unsuccess
In a rapture of distress;
In the deserts of the heart
Let the healing fountain start,
In the prison of his days
Teach the free man how to praise.
http://tanvien.net/Dayly_Poems/Auden.html
Tưởng niệm Yeats
I
Nhà thơ biến mất vào cái chết mùa
đông
Những con suối đóng băng, những phi trường gần như
bỏ hoang
Và tuyết huỷ hoại những pho tượng công cộng
Thời tiết chìm vào trong miệng của ngày
chết
Ôi, tất cả những công cụ thì đều đồng
ý
Ngày nhà thơ mất đi là một ngày
lạnh giá, âm u.
Thật xa sự bịnh hoạn của ông
Những con chó sói băng qua những khu rừng
xanh rờn
Con sông nơi quê mùa chẳng bị cám
dỗ bởi những bến cảng sang trọng
Bằng những giọng tiếc thương
Cái chết của thi sĩ được tách ra khỏi những
bài thơ của ông.
Nhưng với ông, thì đây là buổi
chiều cuối cùng, như chính ông
Một buổi chiều với những nữ y tá và những
tiếng xầm xì;
Những địa phận trong cơ thể ông nổi loạn
Những quảng trường trong tâm trí ông
thì trống rỗng
Sự im lặng xâm lăng vùng ngoại vi
Dòng cảm nghĩ của ông thất bại: ông
trở thành những người hâm mộ ông
Bây giờ thì ông phân tán
ra giữa hàng trăm đô thị
Với trọn một mớ cảm xúc khác thường;
Tìm hạnh phúc của ông ở trong một cảnh
rừng khác
Bị trừng phạt bởi một luật lệ ngoại về lương tâm.
Nhưng trong cái quan trọng và tiếng ồn của
ngày mai
Khi đám brokers gầm rú như những con thú
ở sàn Chứng Khoán,
Và những người nghèo đau khổ như đã
từng quen với đau khổ,
Và mỗi kẻ, trong thâm tâm của chính
kẻ đó, thì hầu như đều tin tưởng ở sự tự do của nhà
thơ;
Và chừng vài ngàn người sẽ nghĩ về
ngày này
Như 1 kẻ nghĩ về một ngày khi một kẻ nào
đó làm một điều không giống ai, khác
lệ thường
Ôi, bao nhiêu công cụ thì đều
đồng ý
Ngày nhà thơ ra đi thì là một
ngày âm u, giá lạnh
II
Bạn thì cũng cà chớn như chúng tớ:
Tài năng thiên bẩm của bạn sẽ sống sót điều đó,
sau cùng;
Nào cao đường minh kính của những mụ giầu
có, sự hóa lão của cơ thể.
Chính bạn; Ái Nhĩ Lan khùng đâm
bạn vào thơ
Bây giờ thì Ái Nhĩ Lan có cơn
khùng của nó, và thời tiết của ẻn thì
vưỡn thế
Bởi là vì thơ đếch làm cho cái
chó gì xẩy ra: nó sống sót
Ở trong thung lũng của điều nó nói, khi những
tên thừa hành sẽ chẳng bao giờ muốn lục lọi; nó
xuôi về nam,
Từ những trang trại riêng lẻ và những đau
buồn bận rộn
Những thành phố nguyên sơ mà chúng
ta tin tưởng, và chết ở trong đó; nó sống sót,
Như một cách ở đời, một cái miệng.
III
Đất, nhận một vị khách thật là bảnh
William Yeats bèn nằm yên nghỉ
Hãy để cho những con tầu Ái nhĩ lan nằm nghỉ
Cạn sạch thơ của nó
[Irish vessel, dòng kinh nguyệt Ái nhĩ lan,
theo nghĩa của Trăng Huyết của Minh Ngọc]
Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp,
Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí
trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.
Thời gian với nó là lời bào chữa lạ
kỳ
Tha thứ cho Kipling và những quan điểm của ông
ta
Và sẽ tha thứ cho… Gấu Cà Chớn
Tha thứ cho nó, vì nó viết bảnh quá!
Trong ác mộng của bóng tối
Tất cả lũ chó Âu Châu sủa
Và những quốc gia đang sống, đợi,
Mỗi quốc gia bị cầm tù bởi sự thù hận của
nó;
Nỗi ô nhục tinh thần
Lộ ra từ mỗi khuôn mặt
Và cả 1 biển thương hại nằm,
Bị khoá cứng, đông lạnh
Ở trong mỗi con mắt
Hãy đi thẳng, bạn thơ ơi,
Tới tận cùng của đêm đen
Với giọng thơ không kìm kẹp của bạn
Vẫn năn nỉ chúng ta cùng tham dự cuộc chơi
Với cả 1 trại thơ
Làm 1 thứ rượu vang của trù eỏ
Hát sự không thành công của con
người
Trong niềm hoan lạc chán chường
Trong sa mạc của con tim
Hãy để cho con suối chữa thương bắt đầu
Trong nhà tù của những ngày của anh
ta
Hãy dạy con người tự do làm thế nào
ca tụng.
Six
Poets Hardy to Larkin
W H. Auden
1907-1973
Wystan
Hugh Auden was born in York, brought up in Birmingham, where his father was
a physician, and educated at Gresham's School, Holt, and Christ Church, Oxford.
His student contemporaries included poets Cecil Day Lewis, Louis MacNeice
and Stephen Spender. After graduating in 1929, he spent several months in
Berlin, often in the company of Christopher Isherwood, his future collaborator.
His first book, Poems, was published in 1930 by T. S. Eliot at Faber and
Faber and he later became associated with Rupert Doone's Group Theatre, for
which he wrote several plays, sometimes in collaboration with Isherwood.
In January 1939 the two of them left England for the United States, where
Auden became a citizen in 1946. His later works include The Age of Anxiety,
Nones, The Shield of Achilles and Homage to Clio, and he also wrote texts
for works by Benjamin Britten and (with Chester Kallman) the libretto for
Stravinsky's opera The Rake's Progress. Elected Professor of Poetry at Oxford
in 1956, he died in Vienna in 1973.
Nobody
in the thirties was quite sure what war would be like, whether there would
be gas, for instance, or aerial bombardment. There's a stock and rather a
silly question: 'Why was there no poetry written in the Second World War?'
One answer is that there was, but it was written in the ten years before
the war started.
Auden was a landscape poet, though of a rather particular kind. The son
of a doctor, he was born in York in 1907 but brought up in Solihull in the
heart of the industrial Midlands. Not the landscape of conventional poetic
inspiration but, for Auden, magical:
from Letter to Lord Byron
But let me say
before it has to go,
It's the most lovely country that I know;
Clearer than Scafell Pike, my heart has stamped on
The view from Birmingham to Wolverhampton.
Long, long ago, when I was only four,
Going towards my grandmother, the line
Passed through a coal-field. From the corridor
I watched it pass with envy, thought 'How fine!
Oh how I wish that situation mine.'
Tramlines and slagheaps, pieces of machinery,
That was, and still is, my ideal scenery.
At Oxford, he was already writing and
publishing poetry. To his contemporaries, he was a magnetic figure, partly
because he seemed to have all the answers, a characteristic that his later
self came to deplore, though he remained a bit of an intellectual bully all
his life. As a man, he was insecure and unhappy and doesn't seem to have
fallen in love until he went to America in 1939, but this didn't stop him
prescribing for the love affairs of his friends. The Danish philosopher Kierkegaard
says that there are two ways: one is to suffer; the other is to become a
professor of the fact that another suffers. Auden was to play both roles
in His time; but when he was an undergraduate, he was undoubtedly a professor.
Who's Who
A shilling life
will give you all the facts:
How Father beat him, how he ran away,
What were the struggles of his youth, what acts
Made him the greatest figure of his day:
Of how he fought, fished, hunted, worked all night,
Though giddy, climbed new mountains; named a sea:
Some of the last researchers even write
Love made him weep his pints like you and me.
With all his honours on, he sighed for one
Who, say astonished critics, lived at home;
Did little jobs about the house with skill
And nothing else; could whistle; would sit still
Or potter round the garden; answered some
Of his-long marvellous letters but kept none.
Auden taught at various prep schools in the early thirties, and one of
the criticisms that contemporaries made of his poetry was that his view of
the world was dictated by his unhappy experiences at school. The best reason
I have for opposing Fascism', he said, 'is that at school I lived in a Fascist
state.' Not a statement that would commend itself to someone actually having
to live in a Fascist state, and the kind of remark that made him blush once
he got away from England in 19.39. 'All the verse I wrote,' Auden said later,
all the positions I took in the thirties didn't save a single Jew. These
writings, these attitudes only help oneself They merely make people who think
like one admire and like one, which is rather embarrassing.
Which is true, but which says nothing about the poetry, and embarrassing
though the older Auden found his younger self, the poetry of that younger
self survives the embarrassment.
The turning point in Auden's life came, or is supposed
to have come, when he and Isherwood went to the Umted States at the start
of 1939 and stayed there, both eventually becoming American citizens. Silly
people at the time took this to be cowardice, which it wasn't, and even people
who admired him thought Auden's poetry was never as good afterwards. But
this wasn't true either.
Why Auden left England has been much discussed. Auden
liked feeling at home, but he didn't like feeling at home where he felt at
home. England was too cosy. He would never grow up there, he thought. He
would always be the enfant terrible,
the prisoner of his public and court poet to the Left. At least this is
how Auden came to see it.
But it wasn't quite like that either. All that had
happened was that he had gone to America in 1939, seemingly with no plans
to stay, and, for the first time in his life, he had fallen in love - with
Chester Kallman, with whom he was to live happily and unhappily for the
rest of his life. It just happened that change in private places went with
change in public places, love and war coinciding: Auden really was just an
early 'GI bride'. Somebody who cared more about what people thought would
have come back when war started, but Auden - and it was one of the winning
characteristics in a personality that was not always attractive - didn't
care tuppence what people thought.
As it transpired, going to America turned out to be
a deliverance, the kind of escape an established writer often craves, a way
of eluding his public, of not having to go on writing in the same way, of
not having to imitate himself 'By the time you have perfected any style of
writing', said George Orwell, 'you have always outgrown it.' 'You spend twenty-five
years learning to be yourself,' said Auden, 'and then you find you must
now start learning not to be yourself - and it took him a while. This next
poem Auden called a 'hangover from home'. He wrote it in America, but one
of the reasons he left England, he said, was to stop writing poetry like
this.
|
|