|
Thơ
Mỗi
Ngày
Baudelaire in Brussels
Frederick
Seidel
Issue
219, Winter 2016
Some people say sex is like riding a rainbow.
Maybe theirs is.
I say I fall on a grenade each time.
My rainbow-on-a-runway took off practically
Straight up from the infirmary
To reach the thermosphere,
And blew up above Brussels, Paris, etc.—
And here’s the nurse. Nurse!
I had a stroke.
I had another stroke.
I can’t lift my prepuce head from the bed.
Someone said my poison poems
Are flowers someone brought into the room,
Flowers that leave behind a sonic boom.
Baudelaire ở Brussels
Có người phán sex, [cưỡi em], thì cũng giống
như cưỡi 1 cái cầu vồng!
Có thể của họ thì như thế
Với tôi, thì là, tình yêu như
trái phá
Con tim mù lòa
Nghĩa là,
Tớ vấp phải 1 trái lựu đạn
Tớ thấy mình bay một phát
Từ bịnh viện
Lên tới bầu khí quyển thermosphere
Và nổ 1 phát
Đâu đó bên trên Brussels, Paris etc.
-
Và đây là y tá. Y tá!
Tớ bị cú stroke
Cú nữa
Tớ không làm sao nhấc cái đầu bao qui đầu khỏi giường
Có người nói những bài thơ thuốc độc của
tớ
Là hoa ai đó mang vô phòng
Những đóa hoa bỏ lại đằng sau 1 cú “bùm”
1 phát!
POEMS FEBRUARY 6, 2017 ISSUE
THE INFINITE
The infinite yawns and keeps
yawning.
Is it sleepy?
Does it miss Pythagoras?
The sails on Columbus's three ships?
Does the sound of the surf remind it of itself?
Does it ever sit over a glass of wine
and philosophize?
Does it peek into mirrors at night?
Does it have a suitcase full of souvenirs
stashed away
somewhere?
Does it like to lie in a hammock with the wind
whispering
sweet nothings in its ear?
Does it enter empty churches andlight a single
candle on the
altar?
Doe it see us as a couple of fireflies
playing hide-and-seek
in a graveyard?
Doe it find us good to eat?
Note: Bài thơ mới nhất của Charles Simic.
Hết credit, GCC phải dùng 1 cái
PC khác, mới đọc được.
Và bèn chôm liền!
Bất Tận
Bất Tận ngáp suốt
Buồn ngủ ư?
Hay nhớ Pythagoras?
Những chuyến vượt biển của ba con thuyền của Columbus?
Tiếng sóng làm nó nhớ, chính
nó?
Nó đã từng ngồi nhâm nhi một ly
rượu vang
Và triết lý vụn?
Đêm đêm, nó liếc xéo, gương?
Nó có cái cà táp
đầy những kỷ niệm
Dzím đâu đó?
Nó có bao giờ thèm ngả lưng 1
phát
Trên võng
Nghe tiếng gió thầm thì những hư vô
ngọt ngào?
Nó đã từng vô 1 ngôi nhà
thờ vắng hoe
Và đốt 1 cây đèn cày nơi
bàn thờ?
Nó có nhìn chúng ta chơi
trò hú tìm nơi nghĩa địa
Với mấy con đom đóm?
Nó có thèm, đợp, chúng
ta?
Note: Bất Tận?
Đang đọc Borges, sách Tựa, bèn chơi luôn
Paris. Nov, 99, lần qua Tây
gặp HPA, tá túc nơi Kiệt Tấn, chùa Khánh
Anh...
Trong bài viết về Lá Cỏ, Borges phán:
Whitman là số nhiều rồi, nhưng như thế chưa đủ,
ông ta quyết định, tớ là vô cùng tận.
Tuyệt!
Whitman était déjà pluriel; l'auteur
décida qu'il serait infini. Il fit du héros de "Feuilles d'herbe" une trinité
; il lui adjoignit un troisième personnage, le lecteur, le
changeant et successif lecteur. Celui-ci ne cesse de s'identifier
au protagoniste de l'oeuvre; lire Macbeth c'est d'une certaine facon
être Macbeth; un livre de Victor Hugo s'intitule Victor Hugo par
un témoin de sa vie; Walt Whitman fut, semble-t-il, le premier
à utiliser jusqu'au bout, jusqu'au bout interminable et complexe,
cette identification momentanée…..
Tớ
sẽ nói một điều dị giáo, lăng mạ, không giống ai....
: Tớ tin là Flaubert quan trọng hơn nhiều so với Kafka.
ML, Mai 2013
The
New Yorker Briefly Noted, Dec 12, 2016
Tôi nghĩ, bằng toàn
bộ cuộc đời mình, Tạ Chí Đại Trường cho thấy chính
xác điều ngược lại. Điều ngược lại này nói
một cách tường minh là: người ta không làm
được gì nếu có đầy đủ mọi thứ gì tưởng
chừng như là cần phải có. Những năm dài không
có sách để đọc lại là cơ hội cho Tạ Chí
Đại Trường thoát khỏi vòng (sự
"thoát khỏi vòng" này cũng đặc biệt rõ
ở Tư Mã Thiên, ta sẽ sớm nói đến).
Note: Ý lạ. Lạ nữa, là, cái tay viết tiểu sử Flaubert, cho biết, cuộc đời Thầy,
the Master, cũng y chang như thế.
Tớ tin rằng, cái gọi
là hạnh phúc chỉ có ở xứ Bắc Kít,
trong mấy cái ao tù đọng, đóng váng.
Ao thì
lấy đâu ra bão tố?
Cả 1 cuốn
tiểu sử của Bậc Thầy Flaubert - nhớ, hình như Borges phán,
tôi sợ rằng Flaubert còn bảnh hơn Kafka - là dựa vào câu
phán, cùng là cuộc đời nhàm chán
của F: chàng ngồi lỳ 1 đống, viết 1 ngày 14 tiếng!
Hãy
để cho chúng tớ ghiền mực, thay vì xì ke,
bởi vì nhân loại làm gì có
"riệu" tiên, của những vị thần?
Note: Bài trên số ML dẫn trên, giới thiệu
băng "vidéothèque de Babel": 7 tiếng đồng hồ về Borges.
Người phán nhiều câu thật mê. Tôi mới yêu
Buenios Aires làm sao, J'aime tellement B.A., có lẽ đần
độn nhất, une des plus laides, nhạt nhòa nhất, des plus blêmes,
trên thế giới, đến nỗi, nhiều khi tôi hoài nhớ nó,
ngay trong khi đang ở nó:
Tuyệt!
Đúng là tâm trạng của Trịnh Công
Sơn, khi viết về Saigon, sau 30 Tháng Tư:
Em ra đi nơi này vẫn thế.
Đi 1 phát, là mất em!
Borges chẳng đã từng viết về những kẻ sở hữu đủ thứ
bản đồ, trái cầu, atlas... thế giới, mà không bao
giò dám đi quá đầu ngõ!
Đi mãi xa mà vẫn quanh quẩn đâu đây!
Kỷ niệm 100 năm,
sinh nhật Jorge Luis Borges (August 26, 1899- August 26, 1999)
"Borges và Tôi "
Hiếm nhà văn được như Borges: ông đi vào
truyền thuyết, ngay từ...
Hiếm
nhà văn được như Borges: ông đi vào truyền thuyết,
ngay từ khi còn sống, không
như một nhà văn nổi tiếng, mà là một huyền tượng.
Trong chuyện Tàu có trường hợp tương tự: Để trốn tránh
cơn giận dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó,
Wang Fo rời cuộc đời, bước vào bức tranh ông vẽ. Trường
hợp Borges rắc rối hơn: Sau khi trở thành huyền tượng, ông
tiếp tục sống thêm nhiều năm, làm phiền cho chính
ông trước tiên, như thể có hai, Borges, và
"Borges", và ông đành phải chấp nhận sự nhập nhằng,
đôi khi cũng cố gắng trần tình: Không phải tôi
đâu, mọi chuyện là do gã kia, Borges. Tôi, tôi
đang đi trên đường phố Buenos Aires, nhẩn nha nhìn phố xá.
Tôi nhận được tin tức của Borges, qua bưu điện, nghe đâu
ông ta được đề nghị một chân nào đó, hay là
được đưa vào một cuốn tiểu sử... tôi thích những chiếc
đồng hồ bằng cát, thích nhâm nhi ly cà-phê,
thơ xuôi Stevenson, ông ta cũng chia sẻ những sở thích
tương tự... Của đáng tội, nếu nghĩ rằng giao tình giữa
tôi và ông ta tồi tệ, tôi sống và mặc
kệ chuyện đời, miễn sao Borges tha hồ thêu dệt văn chương của 'ông
ta', vậy là đủ cho tôi rồi (Borges và Tôi).
Còn nữa: bởi vì số mệnh muốn ông không
nhìn thấy gì, vào lúc 45 tuổi, người ta
bèn gọi ông là Homer, hoặc Milton, những huyền tượng
về thi sĩ mù.
Đọc Borges, mỗi độc giả tìm ra
một câu chuyện khác nhau. Maurice Blanchot, như ở trên,
đã nghĩ, mình tìm ra cái vô cùng
của văn chương. John Barth lại coi đây là sự kiệt cạn (épuisement)
của nó. Nabokov coi mê cung của Borges là cõi
nhân gian bé tí, bé nhất nếu so với mê cung
của Kafka, rồi tới mê cung của Alain Robbe-Grillet. Mê cung
của Kafka vẫn còn có người, dù là "như một con
chó". Mê cung của Robbe-Grillet chỉ còn đồ vật.
Như một
huyền tượng, ngay trong đời thường, trong những ngày cuối đời:
Khi Borges chọn Genève để chết, ông bảo Maria hãy
kiếm một căn nhà tại khu phố cổ của thành phố, nơi ông
đã sống trong thời gian xẩy ra Đệ nhất thế chiến, với cha mẹ và
người chị (hoặc em). Mặc dù mù, ông vẫn nhớ, và
"nhìn ra" nơi chốn cũ, và bà vợ đã tìm
được con phố, căn nhà ngày xưa. Borges già gặp lại
Borges trẻ, và cùng chết ở một nơi cả hai đã từng
sống.
V/v Golem.
Borges Golem
Note:
Trong 1 bài viết hồi còn giữ mục Tạp Ghi cho tờ
Văn Học, Gấu có đi 1 bài về Borges, từ 1 cái
nguồn tiếng Tẩy, và có dịch từ Golem, là Phôi
Thai.
Nhảm!
Golem là tên 1 con vật tưởng tượng, và
nó có nghĩa - "Golem" was the name given the
man created out of a combination of letters; the word literally means"
an amorphous or lifeless substance." - và là tên 1 bài
thơ của Borges.
Để tạ lỗi , lần này,
đi 1 bài trong Những Con Vật Tưởng Tượng, trong có
con “Golem”, và 1 bài thơ của Borges, có tên
là Golem.
http://www.tanvien.net/tgtp/tgtp11_borges_toi.html
Phôi
thai
Ở Crayle, người Hy-lạp - liệu anh ta có lầm
không? -
Khi nói chữ là mẹ của sự vật:
Trong những con chữ hồng có mùi
thơm của hoa hồng,
Và dòng Nil luồn lách qua những
con chữ của từ Nil.
Vậy thì có một Cái Tên
khủng khiếp, từ đó yếu tính
của Thượng Đế được mã hóa - và
đó là một từ của con người,
Bảng mẫu tự đánh vần, bàn tay ghi
lại;
Kẻ nói lên có Sức Mạnh-Toàn
Năng.
Những ngôi sao biết Cái
Tên này. Adam cũng vậy,
Ở Khu Vườn; nhưng liền đó, anh ngỡ ngàng
và hoang mang:
Tội lỗi đục gỉ anh ta, những người thần bí
giáo bảo vậy;
Mọi dấu vết đến đây là ngưng. Như thế
đấy.
Jorge Luis Borges Thi Phẩm (1925-1965).
(Theo bản tiếng Pháp của Nestor Ibarra, Gallimard).
(1)
(1)
LE GOLEM
Dans Cratyle, le Grec - et se trornperait-il ? _
Dit que le mot est l'archétype de la chose:
Dans les lettres de rose embaume la fleur rose,
Et le Nil entre en crue aux lettres du mot Nil.
Un Nom terrible existe donc, par quoi l'essence
De Dieu même est chiffrée - et c'est un
mot humain,
Qu'épelle l'alphabet, que peut tracer la main;
Celui qui le prononce a la Toute-Puissance.
Les étoiles savaient ce Nom. Adam aussi,
Au Jardin; mais bientôt il s'étrange et se
brouille :
Le péché, disent les cabalistes, le rouille
;
Toute trace s'en perd à la fin. C'est ainsi.
Mais la candeur de l'homme et sa soif de merveilles
Et son art sont sans fond. Un jour, le peuple élu
Tenta de retrouver le vocable absolu ;
Toute la juiverie y consumait ses veilles.
C'est ici que Juda Léon va survenir,
Vive et verte mémoire, et non point ombre vague
A peine insinuée au vague devenir :
II est resté, Juda Léon, rabbin de Prague.
Juda Leon saura ce que Dieu sait. Brulé
De génie, il ajoute, il retranche, il permute
Les lettres - et l'emporte en fin de haute lutte.
II a trouvé Ie Nom. Et ce Nom est la Clé,
Est l'Echo, le Palais, et l'Hôte, et les Fenêtres.
Un pantin faconné d'une grossière main.
Par le Nom recoit vie: il connaitra demain
Les arcanes du Temps, de l'Espace et des Lettres.
Levant sur l'univers des regards somnolents,
L'hominien percut des formes confondues
A des couleurs, et dans une rumeur perdues ;
Novice, il s'essayait à des gestes tremblants.
II se sentit bien tôt prisonnier, comme un homme,
D'un sonore filet: l'Après et l'Aujourd'hui,
Et la Droite et la Gauche et le Plus et le Comme,
Le Maintenant, le Cependant, le Moi, le Lui.
Mais comment désigner la rude créature?
Le cabaliste-Dieu la sumomma Golem.
(Tout ce que je rapporte est constant, et figure
En quelque endroit du docte ouvrage de Scholem.)
Voici mon pied. ton pied ... Patient
pédagogue,
Le rabbin au Golem apprenait l'univers.
II se passa trois ans avant que le pervers
Sut balayer tant bien que mal la synagogue.
Fallait-il mieux écrire ou mieux articuler
Le Nom? Quelque bévue avait été commise
:
Haute sorcellerie à la fin compromise,
Le candidat humain n'apprit pas à parler.
Parcourant le reduit et sa brume morose? .
Ses yeux allaient cherchant ceux du magicien ; .
Et c'était un regard moins d'homme que de chien;
Si les choses voyaient, moins de chien que de chose.
Je ne sais quoi de lourd, d'abrupt chez le Golem
Faisait fuir sur ses pas le chat de la voisine.
(II n'est pas question de ce chat dans Scholem ;
Cependant, a travers les ans, je le devine.)
Filial, Ie Golem mimait l'officiant,
Et tel son dieu vers Dieu levait ses paumes graves;
Parfois d'orientaux salamalecs concaves
Longuement l'abimaient, stupide et souriant.
Le rabbin contemplait son oeuvre avec tendresse,
Mais non sans quelque horreur. Je fus bien avisé,
Pensait-il, d'engendrer ce garcon malaisé
Et de quitter l'Abstention, seule sagesse !
Fallait-il ajouter un symbole nouveau
A la succession intarissable et vaine ?
Une autre cause, un autre effet, une autre peine
Devaient-ils aggraver l'eternel echeveau ?
A l'heure où passe un doute à travers l'ombre
vague
Sur le pénible enfant son regard s'arrêtait.
Saurons-nous quelque jour ce que Dieu ressentait
Lorsque ses yeux tombaient sur son rabbin de Prague?
1958.
Trong những con chữ hồng
có mùi thơm của hoa hồng
Ta mơ tưởng 1 thế giới, ở đó, con người có
thể chết vì 1 cái dẩu phảy, Cioran phán
Gấu, chết vì một từ!
Vẫn chuyện chết vì cái
dấu phảy
Lạ, hiếm, phong trần, tã:
Vớ được tại tiệm sách cũ
THE GOLEM,
p. 111
Joshua Trachtenberg, in Jewish Magic and Superstition, writes that
the German Hasidim used "the word golem (literally, shapeless or lifeless
matter) to designate a homunculus created by the magical invocation of names,
and the entire cycle of golem legends may be traced back to their
interest."
Line 20. Though Judah Low, the seventeenth-century
Jewish rabbi from Prague, is credited with making the Golem, according to
Trachtenberg the "legends of the golem were transferred ... to R. Judah
Low b. Bezalel, without any historical basis." It turns out that John Hollander,
the poem's translator, is a descendant of Rabbi Low (or Loew); after making
his translation, Hollander was inspired to write his own Golem poem, "Letter
to Borges: A Propos of the Golem," which admirably complements the translation.
Hollander's poem is printed in his book The Night Mirror.
39. Gershom Scholem is the distinguished Jewish scholar
and author of Major Trends in Jewish Mysticism.
Borges' interest in the legend of the Golem dates from
an early acquaintance with Gustav Meyrink's Der Golem, the first prose
work in German Borges ever read. See Borges' article on "The Golem" in The
Book of Imaginary Beings, pp. 112-14.
Borges was named Director of the Argentine National Library after the
fall of Peron in 1955.
Line 37. Paul Groussac (1848-1929) had been a former
director of the Biblioteca Nacional and was also a historian and critic
whose prose style Borges has greatly admired. A short eulogy, written after
Groussac's death, is collected in Borges' Discusión
After writing the poem, Borges discovered that Jose Marmol, the nineteenth-century
poet and novelist who directed the National Library until his death in 1871,
had also gone blind.
PHOSPHOR READING BY HIS OWN LIGHT
It is difficult to read. The
page is dark.
Yet he knows what it is that he expects.
The page is blank or a frame without a glass
Or a glass that is empty when he looks.
The greenness of night lies on the page and goes
Down deeply in the empty glass ...
Look, realist, not knowing what you expect.
The green falls on you as you look,
Falls on and makes and gives" even a speech.
And you think that that is what you expect,
That elemental parent, the green night,
Teaching a fusky alphabet.
Wallace Stevens: The Collected Poems
Lân tinh đọc bằng ánh sáng
của chính nó
Đọc, căng thiệt
Trang sách tối thui
Tuy nhiên nó biết, điều hắn muốn biết
Trang sách trống trơn, hay chỉ là một
cái khung không có cái ly
Hay cái ly trống, cạn, chẳng có gì
hết, khi nó nhìn
Cái màu xanh của đêm nằm trên
trang sách và chúi mãi vào cái
ly trống trơn,
Chúi sâu mãi vào cái
ly trống trơn....
Nhìn, tên “hiện thực”, không biết,
điều mi mong đợi
Cái màu xanh rớt lên mi, khi mi
nhìn
"Rớt", rớt xuống mãi, "làm", và
"cho", ngay cả một câu nói.
Và mi nghĩ, đó là điều mi mong
đợi
Cái phần cha mẹ cơ bản, cái ánh
sáng màu xanh
Dạy bài học mẫu tự lưỡng tính.
The Golem
Imaginary Beings
Book
The Golem
There
can be nothing accidental in a book dictated by a divine intelligence,
not even the number of its words or the order of their letters; this
was the belief of the kabbalists, who in their zeal to penetrate God's
arcana devoted themselves to counting, combining, and permuting the
letters of Holy Writ. In the thirteenth century, Dante declared that
every passage of the Bible had a fourfold meaning: the literal, the
allegorical, the moral, and the anagogical. John Scotus Erigena had already
affirmed that the meanings of the Scripture, more consistent with the
idea of divinity, were infinite, like the colors of the peacock's tail.
The kabbalists would have approved of
that verdict: one of the secrets they sought within the divine text
was how to create living beings. It was said of demons that they could
shape large, solid creatures like the camel, but not finely wrought,
delicate ones, and Rabbi Eliezer denied them the ability to produce anything
smaller than a grain of barley. "Golem" was the name given the man created
out of a combination of letters; the word literally means" an amorphous
or lifeless substance." In the Talmud (Sanhedrin, 65b), we read:
If
the righteous desired it, they could be creators, for it is written
that ... [by means of the Sefer Yetsirah, Book of Creation *], Rabbah
created a man, and sent him to Rab Zera. Rab Zera spoke to him, but received
no answer. Therefore he said unto him: "Thou art a creature of the magicians.
Return to thy dust."
R. Hanina and R. Oshaia spent every Sabbath
eve in studying the "Laws of Creation," by means of which they created
a third-grown calf, (a) and ate it. (b)
We owe the fame of the Golem in the West to the Austrian
novelist Gustav Meyrink, who wrote the following words in the fifth
chapter of his dreamlike work Der Golem:
The
original story harks back, so they say, to the seventeenth century.
With the help of an ancient formula, a rabbi is said to have put together
an automatic man and used it to help ring the bells in the Synagogue
and for all kinds of other menial work. But he hadn't made it into a
proper man; it was more like a kind of animated vegetable, really. What
life it had, too, so the story runs, only derived from a magic prescription
placed behind his teeth each day, that drew down to itself what was known
as "the free sidereal strength of the universe." And as, one evening,
before evening prayers, the rabbi forgot to take the prescription out of
the Golem's mouth, the figure fell into a frenzy, and went raging through
the streets like a roaring lion, seeking whom it might devour. At last
the rabbi was able to secure it, and he then destroyed the formula. The
figure fell to pieces. The only record left of it was the miniature clay
figure that was shown to the people within the old Synagogue.
Eleazar of Worms has preserved the formula
for making a Golem. The details of the enterprise require twenty-three
columns in folio and demand that the maker know" the alphabets of the
two hundred twenty-one gates" that must be repeated over each of the
Golem's organs. On its forehead one must tattoo the word "EMET" which
means "truth." In order to destroy the creature, one would efface the
first letter, leaving the word "MET," which means "death."
* "By means of mystic combinations of the Divine Name [Talmudic
note].
(a) I.e., a calf that has reached one-third of its full growth;
others interpret: (i) in its third year;
(b) Similarly, Schopenhauer writes: "On page 325 of the first
volume of his Zauberbibliothek Horst summarizes in the following way
the doctrine of the English visionary Jane Leade: 'Whosoever possesses
magical power may, at his will, rule and renew the mineral, plant, and
animal kingdoms; thus, if a few wizards came to an agreement, all Creation
might return to its paradisal state.'" (On the Will in Nature, VII)
Imaginary
Beings Book
The Sphinx
The Sphinx found
on Egyptian monuments (called "Androsphinx"
by Herodotus, to distinguish it from
the Greek creature) is a recumbent lion with the
head of a man; it is believed to represent the authority
of the pharaoh, and it guarded the tombs and temples
of that land. Other Sphinxes, on the avenues of
Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred
to Amon. Bearded and crowned Sphinxes are found on monuments
in Assyria, and it is a common image on Persian jewelry.
Pliny includes Sphinxes in his catalog of Ethiopian
animals, but the only description he offers is that
it has "brown hair and two mammae on the breast."
The Greek Sphinx has the head and breasts
of a woman, the wings of a bird, and the
body and legs of a lion. Others give it the body
of a dog and the tail of a serpent. Legend recounts that
it devastated the countryside of Thebes by demanding
that travelers on the roads solve riddles that it
put to them (it had a human voice); it devoured those
who could not answer. This was the famous question it
put to Oedipus, son of Jocasta: "What has four feet, two
feet, or three feet, and the more feet it has, the weaker
it is?" (1)
Oedipus answered that it was man, who crawls
on four legs as a child, walks upon two
legs as a man, and leans upon a stick in old age.
The Sphinx, its riddle solved, leapt to its death
from a mountaintop.
In 1849 Thomas De Quincey suggested a second
interpretation, which might complement
the traditional one. The answer to the riddle,
according to De Quincey, is less man in general
than Oedipus himself, a helpless orphan in his
morning, alone in the fullness of his manhood, and
leaning upon Antigone in his blind and hopeless old
age.
(1)
This is apparently
the oldest version of the riddle. The
years have added the metaphor of the life of
man as a single day, so that we now know the following
version of it: "What animal walks on four legs in the
morning, two legs at midday, and three in the evening?
Oedipus and the Enigma
Four-footed
at dawn, in the daytime tall,
and wandering three-legged down the hollow
reaches of evening: thus did the sphinx,
the eternal one, regard his restless fellow,
mankind; and at evening came a man
who, terror-struck, discovered as in a mirror
his own decline set forth in the monstrous image,
his destiny, and felt a chill of terror.
We are Oedipus and everlastingly
we are the long tripartite beast; we are
all that we were and will be, nothing less.
It would destroy us to look steadily
at our full being. Mercifully God grants us
the ticking of the clock, forgetfulness.
-A.S.T.
J.L. Borges [Penguin ed]
OEDIPUS AND THE RIDDLE
At dawn four-footed,
at midday erect,
And wandering on three legs in the deserted
Spaces of afternoon, thus the eternal
Sphinx had envisioned her changing brother
Man, and with afternoon there came a person
Deciphering, appalled at the monstrous other
Presence in the mirror, the reflection
Of his decay and of his destiny.
We are Oedipus; in some eternal way
We are the long and threefold beast as well-
All that we will be, all that we have been.
It would annihilate us all to see
The huge shape of our being; mercifully
God offers us issue and oblivion.
[John Hollander]
Thomas Di Giovanni ed
Nhân Sư và Thai Đố
Rạng đông
bốn chân, giữa trưa thẳng đứng
Ba chân,
lang thang, nơi không gian hổng vào lúc xế trưa
Đó là viễn ảnh của Nhân Sư về người anh em con
người của Nàng
Vào lúc hoàng hôn, chàng khám
phá ra, như trước tấm gương
Sự tàn tạ và số mệnh của mình
Chúng ta là Ơ Đíp, theo 1 cách miên
viễn hằng hằng
Chúng ta là con thú, dài dài, ba
nếp gấp, chứ còn ai nữa ở đây?
Tất cả là như thế, và sẽ là như thế, ngoài
ra là hư vô
Nó sẽ huỷ diệt chúng ta khi nhìn suốt 1 cõi
của mình
May mắn thay
Chúa bèn ban chúng ta
Tiếng tích tắc của cái đồng hồ
Và
Quên lãng
The Lamed Wufniks
On the earth
there are, and have always been, thirty-six just men whose mission is
to justify the world to God. These are the Lamed Wufniks. These men do
not know each other, and they are very poor. If a man comes to realize
that he is a Lamed Wufnik, he immediately dies and another man, perhaps
in some other corner of the earth, takes his place. These men are, without
suspecting it, the secret pillars of the universe. If not for them, God
would annihilate the human race. They are our saviors, though they do not
know it. This mystical belief of the Jewish people has been explained by
Max Brod. Its distant roots may be found in Genesis 18, where God says
that He will not destroy the city of Sodom if ten just men can be
found within it.
The Arabs have an analogous figure, the Qutb, or "saint."
Note: Ấn bản mới có tí khác ấn bản cũ, GCC được
coi là "Thánh"!
The Lamed Wufniks
There
are on earth, and always were, thirty-six righteous men whose mission
is to justify the world before God. They are the Lamed Wufniks. They
do not know each other and are very poor. If a man comes to the knowledge
that he is a Lamed Wufnik, he immediately dies and somebody else, perhaps
in another part of the world, takes his place. Lamed Wufniks are, without
knowing it, the secret pillars of the universe. Were it not for them,
God would annihilate the whole of mankind. Unawares, they are our saviors.
This mystical belief of the Jews can be found in the works of Max Brod.
Its remote origin may be the eighteenth chapter of Genesis, where we
read this verse: "And the Lord said, If I find in Sodom fifty righteous
within the city, then I will spare all the place for their sakes."
The Moslems have an analogous personage in the Kutb.
Người Què Gánh Tội
Trên thế giới, có, và luôn
luôn có, 36 người què, còn được gọi là
36 vì công chính, mà sứ mệnh của họ, là,
biện minh thế giới, trước Thượng Đế.
Họ
là những tên què gánh tội, Lamed Wufniks.
Họ
không biết nhau, và rất ư là nghèo khổ.
Nếu
có 1 tên biết rằng mình là tên què
gánh tội, là bèn lập tức, ngỏm củ tỏi.
Và
một người khác, có lẽ ở đâu đó trên
thế giới, thế chỗ anh ta.
Không
có 36 tên cà chớn này, là liền lập
tức, Thượng Đế xóa sổ thế giới.
Cuốn này, mới mua, có
minh họa, cuốn cũ, Cô Út làm từ thiện!
THE GOLEM
If
every name is (as the Greek maintains
In the Cratylus) the archetype of its thing,
Among the letters of ring, resides the ring,
And in the word Nile all the Nile remains.
Then, made up of vowels and consonants,
Encoding God's essence, should exist some Name
Whose exact syllables and letters frame
Within them, terribly, Omnipotence.
Adam and all the stars had known it, placed
There in the Garden. The corrosive rust
Of sin (cabalists say) has long effaced
The Name that generations since have lost.
Human innocency and human guile
Are boundless: it is known that a day came
When the Chosen People pursued the Name
Over the wakeful ghetto's midnight oil.
Unlike the way of those who, as in fog,
Beam a dim shadow in dim history,
Green and alive remains the memory
Of Judah, the Hohe Rabbi Low of Prague.
Yearning to know that which the Deity
Knows, the Rabbi turned to permutations
Of letters in complicated variations,
And finally pronounced the Name which is the Key,
The Entry Gate, the Echo, Host, and Mansion,
Over a dummy at which, with sluggish hand,
He labored hard that it might understand
Secrets of Time, Space, Being, and Extension.
The simulacrum raised its heavy, lowered
Eyelids and perceived colors and forms;
It understood not; lost in loud alarms,
It started to take groping paces forward.
And like ourselves, it gradually became
Locked in the sonorous meshes of the net
Of After, Before, Tomorrow, Meanwhile, Yet,
Right, Left, You, Me, and Different and Same.
(The cabalist from whom the creature took
Its inspiration called the weird thing Golem-
But all these matters are discussed by Scholem
In a most learned passage in his book.)
The rabbi revealed to it the universe
(This is my foot; that's yours; this is a log)
And after years of training, the perverse
Pupil managed to sweep the synagogue.
Perhaps there was a faulty text, or breach
In the articulation of the Name;
The magic was the highest-all the same,
The apprentice person never mastered speech.
Less a man's than a dog's, less a dog's, well,
Even than a thing's, the creature's eyes
Would always turn to follow the rabbi's
Steps through the dubious shadows of his cell.
Something eerie, gross, about the Golem,
For, at his very coming, the rabbi's cat
Would vanish. (The cat cannot be found in Scholem;
Across the years, I divine it, for all that.)
Toward God it would extend those filial palms,
Aping the devotions of its God,
Or bend itself, the stupid, grinning clod,
In hollow, Orientalized salaams.
The rabbi gazed on it with tender eyes
And terror. How (he asked) could it be done
That I engender this distressing son?
Inaction is wisdom. I left off being wise.
To an infinite series why was it for me
To add another integer? To the vain
Hank that is spun out in Eternity
Another cause or effect, another pain?
At the anguished hour when the light gets vague
Upon his Golem his eyes would come to rest.
Who can tell us the feelings in His breast
As God gazed on His rabbi there in Prague?
[John Hollander]
THE GOLEM
If, as the Greek maintains in the Cratylus,
a name is the archetype of a thing,
the rose is in the letters that spell rose
and the Nile entire resounds in its name's ring.
So, composed of consonants and vowels,
there must exist one awe-inspiring word
that God inheres in-that, when spoken, holds
Almightiness in syllables unslurred.
Adam knew it in the Garden, so did the stars.
The rusty work of sin, so the cabbalists say,
obliterated it completely;
no generation has found it to this day.
The cunning and naivete of men
are limitless. We know there came a time
when God's people, searching for the Name,
toiled in the ghetto, matching rhyme to rhyme.
One memory stands out, unlike the rest-
dim shapes always fading from time's dim log.
Still fresh and green the memory persists
of Judah Le6n, a rabbi once in Prague.
Thirsty to know things only known to God,
Judah León shuffled letters endlessly,
trying them out in subtle combinations
till at last he uttered the Name that is the Key,
the Gate, the Echo, the Landlord, and the Mansion,
over a dummy which, with fingers wanting grace,
he fashioned, thinking to teach it the arcana
of Words and Letters and of Time and Space.
The simulacrum lifted its drowsy lids
and, much bewildered, took in color and shape
in a floating world of sounds. Following this,
it hesitantly took a timid step.
Little by little it found itself, like us,
caught in the reverberating weft
of After, Before, Yesterday, Meanwhile, Now,
You, Me, Those, the Others, Right and Left.
That cabbalist who played at being God
gave his spacey offspring the nickname Golem.
(In a learned passage of his volume,
these truths have been conveyed to us by Scholem.)
To it the rabbi would explain the universe-
"This is my foot, this yours, this is a clog"-
year in, year out, until the spiteful thing
rewarded him by sweeping the synagogue.
Perhaps the sacred name had been misspelled
or in its uttering been jumbled or too weak.
The potent sorcery never took effect:
man's apprentice never learned to speak.
Its eyes, less human than doglike in their look,
and even less a dog's than eyes of a thing,
would follow every move the rabbi made
about a confinement always gloomy and dim.
Something coarse and abnormal was in the Golem,
for the rabbi's cat, as soon as it moved about,
would run off and hide. (There's no cat in Scholem
but across the gulf of time I make one out.)
Lifting up to its God its filial hands,
it aped its master's devotions-even the least-
or, with a stupid smile, would bend far over
in concave salaams the way men do in the East.
The rabbi watched it fondly and not a little
alarmed as he wondered: "How could I bring
such a sorry creature into this world
and give up my leisure, surely the wisest thing?
What made me supplement the endless series
of symbols with one more? Why add in vain
to the knotty skein always unraveling
another cause and effect, with not one gain?"
In his hour of anguish and uncertain light,
upon his Golem his eyes would come to rest.
Who is to say what God must have been feeling,
Looking down and seeing His rabbi so distressed?
-A.S.T.
[Penguin ed]
J.L.
Borges
Note:
Trong 1 bài viết hồi còn giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn
Học, Gấu có đi 1 bài về Borges, từ 1 cái nguồn
tiếng Tẩy, và có dịch từ Golem, là Phôi Thai.
Nhảm!
Golem là tên 1 con vật tưởng tượng, và nó
có nghĩa - "Golem"
was the name given the man created out of a combination of letters; the
word literally means" an amorphous or lifeless substance." - và là tên 1 bài
thơ của Borges.
Để tạ lỗi , lần này, đi 1 bài trong Những Con Vật Tưởng
Tượng, trong có con “Golem”, và 1 bài thơ của
Borges, có tên là Golem.
http://www.tanvien.net/tgtp/tgtp11_borges_toi.html
Phôi
thai
Ở Crayle, người Hy-lạp - liệu anh ta có lầm không?
-
Khi nói chữ là mẹ của sự vật:
Trong những con chữ hồng có mùi thơm
của hoa hồng,
Và dòng Nil luồn lách qua những con chữ
của từ Nil.
Vậy thì có một Cái Tên khủng khiếp,
từ đó yếu tính
của Thượng Đế được mã hóa - và đó
là một từ của con người,
Bảng mẫu tự đánh vần, bàn tay ghi lại;
Kẻ nói lên có Sức Mạnh-Toàn Năng.
Những ngôi sao biết Cái Tên
này. Adam cũng vậy,
Ở Khu Vườn; nhưng liền đó, anh ngỡ ngàng và
hoang mang:
Tội lỗi đục gỉ anh ta, những người thần bí giáo
bảo vậy;
Mọi dấu vết đến đây là ngưng. Như thế đấy.
Jorge Luis Borges Thi Phẩm (1925-1965).
(Theo bản tiếng Pháp của Nestor Ibarra, Gallimard).
(1)
(1)
LE GOLEM
Dans Cratyle, le Grec - et se trornperait-il ? _
Dit que le mot est l'archétype de la chose:
Dans les lettres de rose embaume la fleur rose,
Et le Nil entre en crue aux lettres du mot Nil.
Un Nom terrible existe donc, par quoi l'essence
De Dieu même est chiffrée - et c'est un
mot humain,
Qu'épelle l'alphabet, que peut tracer la main;
Celui qui le prononce a la Toute-Puissance.
Les étoiles savaient ce Nom. Adam aussi,
Au Jardin; mais bientôt il s'étrange et se brouille
:
Le péché, disent les cabalistes, le rouille ;
Toute trace s'en perd à la fin. C'est ainsi.
Mais la candeur de l'homme et sa soif de merveilles
Et son art sont sans fond. Un jour, le peuple élu
Tenta de retrouver le vocable absolu ;
Toute la juiverie y consumait ses veilles.
C'est ici que Juda Léon va survenir,
Vive et verte mémoire, et non point ombre vague
A peine insinuée au vague devenir :
II est resté, Juda Léon, rabbin de Prague.
Juda Leon saura ce que Dieu sait. Brulé
De génie, il ajoute, il retranche, il permute
Les lettres - et l'emporte en fin de haute lutte.
II a trouvé Ie Nom. Et ce Nom est la Clé,
Est l'Echo, le Palais, et l'Hôte, et les Fenêtres.
Un pantin faconné d'une grossière main.
Par le Nom recoit vie: il connaitra demain
Les arcanes du Temps, de l'Espace et des Lettres.
Levant sur l'univers des regards somnolents,
L'hominien percut des formes confondues
A des couleurs, et dans une rumeur perdues ;
Novice, il s'essayait à des gestes tremblants.
II se sentit bien tôt prisonnier, comme un homme,
D'un sonore filet: l'Après et l'Aujourd'hui,
Et la Droite et la Gauche et le Plus et le Comme,
Le Maintenant, le Cependant, le Moi, le Lui.
Mais comment désigner la rude créature?
Le cabaliste-Dieu la sumomma Golem.
(Tout ce que je rapporte est constant, et figure
En quelque endroit du docte ouvrage de Scholem.)
Voici mon pied. ton pied ... Patient pédagogue,
Le rabbin au Golem apprenait l'univers.
II se passa trois ans avant que le pervers
Sut balayer tant bien que mal la synagogue.
Fallait-il mieux écrire ou mieux articuler
Le Nom? Quelque bévue avait été commise :
Haute sorcellerie à la fin compromise,
Le candidat humain n'apprit pas à parler.
Parcourant le reduit et sa brume morose? .
Ses yeux allaient cherchant ceux du magicien ; .
Et c'était un regard moins d'homme que de chien;
Si les choses voyaient, moins de chien que de chose.
Je ne sais quoi de lourd, d'abrupt chez le Golem
Faisait fuir sur ses pas le chat de la voisine.
(II n'est pas question de ce chat dans Scholem ;
Cependant, a travers les ans, je le devine.)
Filial, Ie Golem mimait l'officiant,
Et tel son dieu vers Dieu levait ses paumes graves;
Parfois d'orientaux salamalecs concaves
Longuement l'abimaient, stupide et souriant.
Le rabbin contemplait son oeuvre avec tendresse,
Mais non sans quelque horreur. Je fus bien avisé,
Pensait-il, d'engendrer ce garcon malaisé
Et de quitter l'Abstention, seule sagesse !
Fallait-il ajouter un symbole nouveau
A la succession intarissable et vaine ?
Une autre cause, un autre effet, une autre peine
Devaient-ils aggraver l'eternel echeveau ?
A l'heure où passe un doute à travers l'ombre vague
Sur le pénible enfant son regard s'arrêtait.
Saurons-nous quelque jour ce que Dieu ressentait
Lorsque ses yeux tombaient sur son rabbin de Prague?
1958.
Trong những con chữ hồng có mùi thơm của hoa hồng
Ta mơ tưởng 1 thế giới, ở đó, con người có thể chết
vì 1 cái dẩu phảy, Cioran phán
Gấu, chết vì một từ!
Vẫn chuyện chết vì cái
dấu phảy
Câu
tiếng Anh, ở đầu cuốn thơ, có 1 từ sai. Gấu cứ nghĩ, sách
Tây, làm sao sai, mà sai thật, và được 1 vị độc
giả chỉ cho thấy.
Nhân đây, xin tạ lỗi.
NQT
Câu của Borges, cũng được Norman Thomas Di Giovanni trích
dẫn làm đề từ cho cuốn do ông biên tập và dịch
thuật:
I do not set up to be a poet. Only an all-round literary man: a man
who talks, not one who sings. . . . Excuse this little apology for my
muse; but I don't like to come before people who have a note of song, and
let it be supposed I do not know the difference.
The Works of Robert Louis Stevenson, Vailima Edition,
XXII, 42 (London, 1923)
"Nói cho cùng,
tất cả chúng ta đều cố gắng là thi sĩ. mặc dù những
thất bại, tôi vẫn tiếp tục muốn là một thi sĩ."
Borges mở đầu buổi nói chuyện, cho một số sinh viên
tại đại học Columbia, vào mùa xuân năm 1971. Ông
lúc này đã mù, và phải nhờ đến người
bạn, và cũng là người chuyên dịch ông.
I do not set up
to be a poet. Only an all-round literary man: a man who talks, not one
who sings ... Excuse this apology .. but I don't like to come before people
who have a note of song, and let if be supposed I do not know the
difference.
The letters of Robert Louis Stevenson, II, 77
(Londres, 1899).
Tôi không
muốn làm nhà thơ.
Mà chỉ muốn làm một anh văn nghệ làng nhàng.
Một thằng nói, chứ không hát.
Xin lỗi vì đã trần tình như vậy, vì tôi
không muốn chường mặt ra trước 1 tay biết rành về hát, mà lại làm ra vẻ không
nhận ra sự khác biệt
L. S. Stevenson
Comparer avec cette
réponse de Borges à Madeleine Chapsal (L'Express, 21 février 1963) qui
lui demandait s'il se considérait comme un prosateur ou comme un
poète: « Comme un poète, naturellement! Comme un poète
maladroit, mais comme un poète. »
Và trả lời
Madeleine Chapsal (L'Express,
21 février 1963)
Là một nhà
thơ chứ, lẽ dĩ nhiên!
Một nhà thơ vụng,
nhưng một nhà thơ.
Cuốn này,
do Anthony biên tập và viết Tựa, cũng có 1 bản dịch
bài Golem.
Post ở đây, vả sẽ có bản tiếng Việt liền sau.
THE GOLEM
If (as the Greek asserts in the Cratylus)
The name is archetype to the thing,
The rose is in the letters of "rose"
And the length of the Nile in "Nile."
Thus, compounded of consonants and vowels,
There must be a terrible Name, which essence
Ciphers as God and Omnipotence
Preserves in consummate letters and syllables.
Adam, and the stars, knew it
In the Garden. The iron rust of sin
(Say the cabalists) has effaced it
And the generations have lost the word.
The artifices and candor of man
Are endless. We know that there came a day
On which the People of God sought the Name
In the vigils of the ghetto:
The memory is still green and vivid-
Not in the manner of other memories like
Vague shadows insinuated in a vague history-
Of Judah Lion, rabbi of Prague.
Burning to know what God knew,
Judah Leon gave himself up to permutations
Of letters and complex variations:
And at length pronounced the Name which is the Key,
The Portal, the Echo, the Host, the Palace,
Over a doll which, with torpid hands,
He wrought to teach the arcana
Of Letters, Time, and Space.
The simulacrum raised its heavy
Lids and saw forms and colors
It did not understand, lost in a din,
And attempted fearsome movements.
Gradually it saw itself (even as we)
Imprisoned in that sonorous net
Of Before, After, Yesterday, While, Now,
Left, Right, I, Thou, Those, Others.
(The cabalist who officiated as divinity
Called his farfetched creature "Golem":
These truths are related by Scholem
In a learned passage of his volume.)
The rabbi explained the universe to him
(This is my foot; this is yours; this, the rope)
And, after many years, taught the aberration
To sweep the synagogue, as best he might.
There must have been some error in graphics
Or in articulating the Sacred Name:
For despite the most bizarre wizardry
The apprentice man never learned to talk.
Its eyes-less a man's than a dog's,
And even less a dog's than a thing's-
Would follow the rabbi through the equivocal
Twilight of the dim unworldly retreat.
There was something too untoward in the Golem
For at his approach the rabbi's cat
Would hide. (This cat does not appear in Scholem
But I intuit it across all these years.)
Raising its filial hands to God
It copied the devotions of its god
Or, stupefied and smirking, it would bend
Into the concave salaams of the Orient.
The rabbi gazed fondly on his creature
And with some terror. How (he asked himself)
Could I have engendered this grievous son,
And left off inaction, which is wisdom?
Why did I decide to add to the infinite
Series one more symbol? Why, to 'the vain
Skein which unwinds in eternity
Did I add another cause, effect, and woe?
At the hour of anguish and vague light
He would rest his eyes on his Golem.
Who can tell us what God felt,
As He gazed on His rabbi in Prague?
-Translated by ANTHONY KERRIGAN
|
|