“Tổng biên tập (các báo,
trong cả nước, tất nhiên) là người của Bộ
Thông tin và Truyền thông sau này cắm ở từng tờ báo”.
Tân Bộ trưởng Thông tin
& Truyền thông.
Trích lại, từ thư Nguyên Ngọc, talawas
*
Lời bàn Mao Tôn Cương: Chưa
bao giờ đám nhà báo VC bị lật tẩy, và, hơi bị được làm nhục, như thế
này!
Bởi vì, đây là sự thực, ai cũng biết, nhưng chưa bao giờ đuợc nói ra,
huỵch tẹt, như thế.
Từ đó, là giấc mơ 'con người hoàn toàn', của VC: Mỗi người dân trong cả
nước, và sau này, nếu có thể, ở cả hải ngoại, trước mắt, những khúc
ruột ngàn dặm đã từng trở về, đều được cắm, cấy, một con "chip" (1) của
Bộ
Thông tin và Truyền thông!
(1) Con "chip" này, dân mê Kim Dung đều rất rành, có tên là, lá bùa
"Sinh Tử Phù".
Gây sốc chẳng kém gì lời tuyên bố của Ngài Tân Bộ trưởng Thông tin
& Truyền thông Mít:
Bao nhiêu tên tuổi lớn đều bị cho ra rìa, trừ một mống!
Đối
Sầu Miên
A Burn-out Case [Một trường hợp lụi tàn]
by Graham Greene
Ấn bản năm 2004, nhà xb Vintage, nhân kỷ niệm 100 năm Graham
Greene, có bài giới thiệu, và lời đề tặng, đọc rất thú vị.
Thú vị hơn nữa, liền mới đây, tờ
Điểm
Sách Luân Đôn, số đề ngày 2 Tháng Tám 2007, có bài viết,
Graham Greene at the
Leproserie,
của Michel Lechat, người được Greene mượn đỡ bộ vó, đưa vô cuốn tiểu
thuyết, kèm lời đề tặng ở trang đầu. Y chang cái thư ở đầu
cuốn
Một người Mỹ trầm lặng.
Nhưng tuyệt hơn nhiều, nhất là câu này:
Ông, cũng như bất cứ ai, sẽ hiểu được tới cỡ nào, tôi thất bại, trong
toan tính của mình. Một vị bác sĩ thì cũng đâu có được miễn nhiễm, bởi
nỗi chán chường kéo dài, mình thì vô tích sự, chẳng làm được một việc
gì nên thân, cơn u sầu,
le cafard,
lẵng nhẵng theo nhà văn, như một thứ đỉa đói.
*
Cũng là những giây phút
nhiệm mầu.
*
Tháng Tám, tháng sinh nhật Gấu.
Sẽ đi một đường về trại cùi. Về cuốn tiểu thuyết, đúng hơn. Và về câu
trứ danh của Greene, qua
nhân vật của ông, Dr. Colin, mà nguyên mẫu ngoài đời, là vị
bác sĩ Lechat nói trên:
"A patient can always detect whether he is loved or whether it is only
his leprosy which is loved. I don't want leprosy loved. I want it
eliminated".
"Một bệnh nhân luôn luôn ngửi ra, liền tù tì, hoặc anh ta được yêu,
hoặc
cái bệnh cùi của anh ta, được yêu. Tôi đếch khoái cái thú đau thương,
yêu bệnh cùi. Tôi khoái nó bị trừ khử vĩnh viễn".
*
Câu trên, áp dụng cho cái bệnh toàn trị, bất trị gì gì đó, thì thật là
tuyệt vời!
Cũng một thứ cùi hủi, của thế kỷ.
Thế kỷ Gulag.
Khi Adorno nói, sau
Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man, ông muốn nói, theo như tôi
hiểu, hai điều:
Một là: Không thể làm thơ sau Auschwitz.
Hai là: Nếu sau Auschwitz vẫn có thơ, thì phải có Auschwitz trong cái
gọi là thơ đó.
Elfriede Jelinek
Nhật Ký
Phê
Thành quả của Cái Ác, qua sức
mạnh và trí tưởng tượng của những Đại Ác Nhân của Shakespeare cùng lắm
thì cũng chỉ đếm được trên chục xác chết. Bởi vì đám khốn kiếp này
không có ý thức hệ, như là một "nghĩa cả" để mà phục vụ... Nhờ có "ý
thức hệ", thế kỷ 20 đã có được cái số phận khốn nạn của nó: kinh qua
Cái Ác ở mức độ hàng triệu triệu tử thi."
Solzhenitsyn
["The imagination and inner strength of Shakespeare’s vilains stopped
short at a dozen cadavers. Because they had no idology... Thanks to
"ideology" the 20th century was fated to experience evil calculated on
a scale of millions."].
*
Koestler, trong
The Heel of Achilles,
[Gót chân Achilles], ngay chương đầu,
The Urge to Self-destruction, Đòi hỏi tự
làm thịt mình, cho rằng, con số những trường hợp làm thịt đồng
loại, vì lý do cá nhân, không nhiều, so với tự làm thịt mình, tức hy
sinh, vì nghĩa cả, ngay
từ khi có cái gọi là giống người [
homo
sapiens]. Ông viết:
Giống người, khốn khổ, không phải bởi một sự quá liều luợng, của sự
hung hăng đòi hỏi, mày có biết tao là ai không, mà là sự thái quá, của
lòng ham muốn, dâng hiến thân mình cho nghĩa cả.
Đường ra trận mùa lào
cũng đẹp nắm!
[that the trouble with our species is not an over-dose of
self-asserting
aggression,
but an excess of self-transcending
devotion].
Nói rõ hơn, bất cứ một ông Yankee mũi tẹt nào cũng đều muốn trích máu
tay, viết huyết thư, dâng Đảng, tình nguyện vào chiến trường Miền Nam,
để hy sinh thân mình cho nghĩa cả.
Chỉ tới khi, họ thấy, họ bị phản bội, nghĩa cả kia chỉ là một khải
huyền dối trá, thì lập tức, cái lòng ham muốn hy sinh bản thân mất theo
luôn, và lúc đó, họ nhận ra, không có gì quí hơn, là chính họ, chính
cuộc sống của họ.
*
Hội chứng hậu chiến tranh Việt Nam, hay hiện tượng Chúa Sẩy Thai, khủng
khiếp vô cùng, đối với Việt
Nam, chứ không phải đối với Mẽo.
Mẽo cút rồi, thế là yên thân Mẽo.
Chỉ tội đám Mít. Thắng trận giặc Mẽo rồi, làm sao thắng trận giặc Mít
đây:
Làm sao tiêu diệt đám bọ thèm đô la Mẽo?
Hai Trầu & NNT
Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều và cũng được giới thiệu nhiều. Tôi thì chỉ
đọc đây đó vài bài, không có cơ hội đọc nhiều. Nên xin có vài ba ý kiến
về cách viết của Nguyễn Ngọc Tư với cái nhìn của một người từng có
những năm tháng làm ruộng và nuôi vịt chạy đồng.
Hai Trầu
In every novel it is the form - the style in which it is written and
the order in which it is told - which determines the richness or
poverty, the depth or triviality, of the story. But in novelists like
Faulkner, the form is something so visible, so present in the narration
that it appears at times to be a protagonist, and acts like another
flesh and
blood character, or else it appears as a fact,
like the passions, crimes or upheavals; of its story.
Trong bất cứ tiểu thuyết, chính hình dáng - qua đó, văn phong được viết
ra, và trật tự được kể lại - quyết định sự giầu có hay nghèo nàn,
sự sâu thẳm, hay nông choèn choẹt, của câu chuyện. Nhưng với những tiểu
thuyết gia như Faulkner, hình dạng cuốn tiểu thuyết, là một điều gì
thực sự, hiển nhiên, "rành rành con mắt còn ngờ chiêm bao" [xâu con mắt
luồn kim tìm chiêm bao, câu thơ thần sầu của NLV làm tặng NNT khủng
khiếp như thế đó!], chảy theo cùng dòng kể, nhiều lúc, nó, từ mộng biến
thành thực, thành một nhân vật, xử sự, hành động, như nhân vật bằng
xương bằng thịt khác, nhiều lúc, nó xuất hiện như một sự kiện, như
những đam mê, những tội ác, những lớp lang, những biến động, của câu
chuyện của nó.
Llosa:
The
Sanctuary of Evil
*
Đâu phải chỉ chuyện nuôi vịt chạy đồng?
Nhưng quả đúng là chuyện nuôi vịt chạy đồng, nếu chúng ta đọc những
dòng trên của
Llosa viết về
Giáo đường của
Faulkner.
*
Nói rõ hơn, "hình dáng" của
Cánh
Đồng Bất Tận, chính là cánh đồng bất tận, và đàn vịt của nó.
Nói rộng ra, văn NNT, "hình dáng" của nó, là Miền Nam.
Không [chỉ] đặc sản, mà còn là, thiên tài của nơi chốn.
*
Gide, viết về Dostoevsky: Tác phẩm lớn có phần đóng góp của Quỉ.
Với NNT, ngoài sự đóng góp của ông thần đất, còn có sự đóng góp của con
Quỉ Hậu Chiến.
Và đây cũng là điều Llosa nhận ra, khi đọc
Giáo đường của Faulkner. [Một miền
đất thiên đường biến thành] một miền đất của cái ác, miền của những
điêu tàn và ghê rợn, vượt quá mọi hy vọng, hết thuốc chữa:
Nothing is described, but from that unexpressed savagery a poisonous
atmosphere seeps out and spreads to contaminate
Memphis and other places in the
novel, turning them into a land of evil, regions of ruin and horror,
beyond all hope.
Llosa:
The
Sanctuary of Evil
*
Có thể, có người ngạc nhiên, NNT thì "liên can" gì tới Faulkner? Bà nhà
quê, miệt vườn này, làm sao đọc Phuốc Nơ?
Tuy nhiên, đây là sự thực: Không thể có văn chương, nếu không có so
sánh. Trong khi so sánh đó, bạn làm sáng ra, cả hai, chứ không phải chỉ
một.
Vả chăng, Faulkner thực sự mà nói, cũng là một tay ít học, theo nghĩa,
không thuộc giới khoa bảng!
Xâu con
mắt luồn kim tìm chiêm bao
Trang NNT
Đọc NNT
Gấu,
nhà văn
Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như
Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập
tành viết lách. Nhưng sự vỡ
mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu.
Trong bài viết
The Mandarin, ông
không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre,
Buồn Nôn. La Nausée. (1)
Gấu tin rằng, sau này, hậu thế vưỡn không thể bỏ qua
La Nausée, và, tất nhiên, một số
câu văn thật hách xì xằng của Sartre.
Thí dụ như câu sau đây, của
Sartre, mà chẳng tiên tri sự ra đời, của dân tộc đi thuyền,
the boat people, hay sao?
"La vie humaine commence
de l'autre côté du désespoir"
["Cuộc sống của con người
bắt đầu ở bờ bên kia của sự tuyệt vọng"].
Gấu đọc câu trên, do Bernard Kouchner, chủ tịch
Hội Y sĩ không biên giới, trích
dẫn, trong cuốn viết về tị nạn,
Sự
bất hạnh của những người
khác, Le Malheur des Autres.
Cái tít này, chắc cũng từ một câu
nói nổi tiếng của Sartre,
Địa ngục là
những kẻ khác, mà
ra.
(1) Thú vị nhất, là, ngay từ năm 1973, Gấu đã nhận ra điều này,
(2), khi
viết về TTT, trong bài
Bếp Lửa trong
văn chương, nhân số Văn đặc biệt về ông:
Phải chăng
Bếp Lửa cũng gặp
một 'tao ngộ" ly
kỳ như cuốn
La Nausée của
Sartre? Sartre, suốt đời đam mê, theo đuổi cách mạng, đến khi có dịp
'làm cách mạng" ông lại để lỡ: Cuộc cách mạng văn chương ở Pháp, với sự
ra đời của trào lưu tiểu thuyết mới, bắt đầu từ
La Nausée, từ những
điều Sartre phát hiện, nhưng lại bỏ qua!
Bếp
Lửa trong văn chương 1
Bếp Lửa
trong văn chương 2
(2)
Nhận lại những thứ thuộc về mình
mà ngơ ngác nửa đời người. NNT:
Đi một vòng đời, tạp văn.
Nguồn
*
Cái tình cảnh xui khiến Gấu "dám" cầm cây viết, và ti toe viết, y chang
anh chàng Roquentin, ở ngay đầu cuốn
La
Nausée, [đoạn khép lại những trang không ghi ngày tháng, và sau
đó, Nhật Ký bắt đầu]. Lúc đó là 10.30 tối. Anh chàng đang trong
cơn "khủng hoảng hiện sinh", và, thế rồi, ông ta đây rồi, anh chàng
nghe tiếng chân ông Rouen bước lên cầu thang, cảm thấy an tâm, và tự
hỏi, cớ
làm sao mà lại sợ hãi một thế giới đều đặn như thế? Anh chàng cảm thấy
khỏi bịnh, và bắt đầu viết
La Nausée.
[Le voilà.
Eh bien, quand je l'ai
entendu monter l'escalier, ca m'a donné un petit
coup au coeur, tant c'était rassurant: qu'y-a-t-il à craindre d'un
monde si régulier? Je crois que je suis guéri.]
*
Đây là một, trong một vài câu, mở ra "cõi văn chương" của Gấu.
Qu' y a- t- il
à craindre
d'
un monde si régulier? Je crois que
je suis guéri.
[Có gì mà sợ một thế giới bình thường như vậy? Tôi nghĩ là tôi đã khỏi
bệnh].
Câu này nằm ngay ở một trong những trang đầu, "những trang không ngày
tháng", mở ra nhật ký Roquentin, hay cuốn Buồn Nôn, của Sartre.
Nói đúng hơn, nó mở ra truyện ngắn đầu tay của Gấu:
Những Con Dã Tràng
*****
Về cuốn
Buồn Nôn, Gấu có vài
kỷ niệm.
Một lần, ông anh rể của Gấu, Hiếu
Chân, tức Nguyễn Hoạt - còn là thầy kèm Pháp văn tại gia cho Gấu, thời
gian học Đệ Tứ trường Thành Công, ở Hoà Hưng. Giáo sư Pháp văn của Gấu
là Chu Tử. Ông còn là hiệu trưởng - hỏi thằng em:
-Mày có cuốn Buồn Nôn, đưa tao xem thử coi.
Đó là thời gian Sài Gòn đang lên cơn sốt hiện sinh. Ông anh thấy thằng
em coi bộ lậm, bèn kiểm tra!
Đọc chưa hết mấy trang không ngày tháng, ông quẳng Buồn Nôn lại cho
thằng em, phán:
-Thằng này viết, tao chẳng hiểu gì cả!
Kỷ niệm thứ nhì, với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, trong một lần ngồi quán
Cái Chùa, Gấu đã kể ra rồi, trong bài viết "Sartre, Huỳnh Phan Anh, và
Gấu".
Ông nhà thơ trợn mắt hỏi thằng em đang tập tễnh, đua
đòi "viết văn":
-Cậu 'hiểu' nó hả?
Thằng em thu hết can đảm, nói:
-Em nghĩ là em hiểu!
Ông anh nhà thơ thở dài, ra ý hồ nghi, nhưng cũng có tí tò mò, biết đâu
còn có tí "thán phục":
-Thế thì cậu hơn tớ rồi!
*
Nhưng những kỷ niệm tuyệt vời nhất, đều thấp
thoáng
một bông hồng.
Bông Hồng Đen.
Bạn cứ thử tưởng tượng, Gấu, ngồi trong một quán cà phê
túi của Sài
Gòn, nơi Chợ Đũi, đọc Sartre, và, vừa đọc xong câu, "'Vào mỗi
thời đại, con người nhận ra mình, khi đối mặt tha nhân, tình
yêu, và cái chết" [A chaque époque, l'homme se choisit en face
d'autrui, de l'amour, et de la mort], ngẩng đầu lên, nhìn thấy cả ba
nhập thành một, và là Bông
Hồng Đen, xuất hiện
trước mắt.
Cái còn lại, là cả một trời Sài Gòn hạnh phúc.
Những đứa con hoang của Sartre