Nhật Ký
|
Mấy ngày qua, Tin Văn
gặp sự cố,
không thể update. Cẩn bạch.
Đối
Sầu Miên
Cuộc gặp gỡ của Gấu với Woolf, cũng tình cờ, cũng "nhiệm mầu", nhưng
chưa ghê gớm như của Garcia Marquez. Ông đọc, chỉ một câu, của Woolf,
trong Mrs Dalloway, mà
nhìn ra,
trọn cả tiến trình phân huỷ của Macondo, và định mệnh sau cùng của nó ["I saw in a flash the
whole process of decomposition of Macondo and
its final destiny"].
*
Lần đầu, là tại một tiệm sách ở Sài Gòn, một ngày đẹp trời lang thang
giữa những tiệm sách ở đường Bonnard, (1), tình cờ cầm lên cuốn Bà Dalloway, vào thời điểm mà cả thành phố và
lớp trẻ của nó đã, đang, hoặc sẽ đợi cái ngày con quỉ chiến tranh gọi
đến tên mình, và trong khi chờ đợi như thế, đọc Sartre, Camus, hoặc
trực tiếp, hoặc gián tiếp, cuốn tiểu thuyết của Woolf thật quá lạc
lõng, nhưng chỉ tới khi bạn nhập vào một ngày trong đời người đẹp, nhập
vào cái giọng thầm thì, hay dùng đúng thuật ngữ của những nhà phê bình,
giọng độc thoại nội tâm, dòng ý thức... là bạn biết ngay một điều, nó
đây rồi, đây là đúng thứ "y" cần, nếu muốn viết khác đi, muốn thay đổi
hẳn cái dòng văn học Việt Nam...
Mấy ngày sau, khoe với nhà thơ đàn anh, về mấy ngày đánh vật với cuốn
sách, ông gật gù, mắt lim dim như muốn chia sẻ cái sướng với thằng em,
và còn dặn thêm: cậu hãy nghe "tớ", phải đọc đi đọc lại, vài lần, nhiều
lần...
Bonnard, hai "n", Gấu viết trật, đã sửa lại, theo bản đồ Sài Gòn
xưa, Việt Nam
Xưa
Khi Adorno nói, sau
Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man, ông muốn nói, theo như tôi
hiểu, hai điều:
Một là: Không thể làm thơ sau Auschwitz.
Hai là: Nếu sau Auschwitz vẫn có thơ, thì phải có Auschwitz trong cái
gọi là thơ đó.
Elfriede Jelinek
Nhật Ký
Trang NGUYỄN
LƯƠNG VỴ
*
Trân trọng giới thiệu
HÒA
ÂM ÂM ÂM ÂM
Thi tập thứ ba
Nguyễn Lương Vỵ
Thư Ấn
Quán xuất bản, tháng 7.2007
302 trang
Liên lạc email
Hay gửi $US. 25 (bằng
check ghi tên Vy Nguyen) tới:
VY NGUYEN
12621 Wynant Dr.
Garden Grove
– CA 92841 USA
Phương Ý
Thơ NLV
*
Thi
Ca sẽ giúp “sau trước tỏ nguồn cơn”. Đến bây giờ ở trong nước và
ngoài
nước (...), tôi chỉ nhờ thơ Vỵ giúp tôi tin ở những cuộc “viễn mộng” xa
xôi... Tôi phải cảm ơn Vỵ nhiều lắm. Hãy cho tôi đọc nhiều thơ nữa đi,
đọc suốt đời càng thích. Vì “chữ” của Vỵ đâu phải chỉ là “chữ”
không
thôi, nó chính là Tính Linh của chúng ta, dù chỉ là loại tính linh đầy
những máu.
Nguyễn Tôn Nhan
*
Nếu
Nguyễn Lương Vỵ chưa được ai gắn cho danh hiệu Lạt Ma chỉ vì anh đã độc
quyền hai chữ ...Lạt Quỷ!
Tính Linh ở chỗ đó, đó!
Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ 1
Đọc thơ NLV 2
Nhịp hai tay thơ
Nhịp ba chân thơ
Note: Gấu cứ "hẹn với lòng mình", sẽ "buông dao đồ tể", để chỉ lèm bèm
về thơ, vậy mà..
*
Việt Báo giới thiệu Nguyễn Lương Vỵ
Vĩnh Biệt Lửa Thiêng
Tán nhảm
về bài thơ của NLV.
Thơ
bay như ráng đỏ sang sông:
Câu này ví cảnh HC sang sông, "bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ
thơ," theo VC.
Bãi
chiều tuổi dại cháy mênh mông
Mang theo tiếng
dội ùm hư
không:
"Cũng theo hư không mà đi",
như một câu nhạc vàng, nhạc sến.
"Không
cầu gợi chút niềm thân mật"
Tớ vĩnh biệt Lửa
Thiêng, chứ không phải vĩnh biệt Huy Cận.
Nhà thơ, từ bữa ráng đỏ qua sông, thì
đâu còn là thi sĩ nữa.
Tolstaya, vĩnh biệt Brodsky, mất năm
1996:
Chỉ cần ông sống
thêm bốn năm nữa thôi, thế kỷ chúng ta sẽ có được một kết thúc thật là
tuyệt
vời. Bây giờ ông mất, căn nhà Nga mới thực sự trống rỗng.
Theo ý đó, Vĩnh
Biệt Lửa Thiêng là
một
bài thơ muộn. (1)
*
Bi
thương hồn Việt huyết gào ngàn
Sắc chàm ưu hận
thấm qua
trang…
Đây là nói về cuộc chiến. Sắc chàm ưu hận thấm
qua
trang...
là số phận đau thương của cả một miền đất, như là hậu quả của cái vụ
ráng đỏ
qua sông?
Chân
giả lộn đường huyết cũng khô
Đành thôi nhang
khói nhắn
huyền hồ
“Lòng quê rờn rợn
sầu con
nước
Không khói hoàng
hôn cũng
nhớ nhà”
Hai câu đầu, có vẻ như là kết cục bi
thương của cuộc chiến.
Nhưng hai câu sau, lại là cái số phận của thi sĩ, khi ở hải ngoại?
*
(1) Có những bài thơ viết
muộn
Vì không thể viết
sớm hơn
Ngặt nỗi thương
thầm gió
ruộng
Vẫn còn vuốt mắt
sương
thôn
NLV
Những vòng
đồng ký ức
Phê
Bữa trước Gấu này có phán... đại, mượn lời một ông bạn văn, cũng Bắc Kỳ
di cư, cuộc chiến Việt Nam không phải cuộc nội chiến Nam Bắc, mà là
giữa đủ thứ, đủ loại Yankees mũi tẹt với nhau. Nào là Yankee "di dân"
từ đời thưở nào, có thể trước cả thời Trịnh Nguyễn phân tranh, tới
những hậu duệ mãi sau này. Đủ thứ, hầm bà làng, Bùi Chu, Phát Diệm, Hố
Nai, Ấn Quang, Việt Nam Quốc Tự, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Duy
Dân, Đệ Tam, Đệ Tứ... toàn Yankee mũi tẹt!
Một độc giả thắc mắc, chém giết lẫn nhau như thế, vì lý do gì?
Gấu này ngớ người ra.
May sao, đọc Arthur Koestler, cuốn The
Heel of Achilles, mới ngộ ra là, sở dĩ đánh giết lẫn nhau, là vì
tranh giành nghĩa cả, great cause: Đánh cho Mẽo cút Ngụy nhào, và sau
đó, giải phóng [ăn cướp, từ đám cút đám nhào đó] Miền Nam.
Koestler còn đi xa hơn, khi chứng mình, đây là một trong những tính
chất làm nên con người, từ thoạt kỳ thủy, chứ không như Solzhenitsyn
tin tưởng, rằng chỉ có từ thế kỷ 20.
*
Thế kỷ 20 có thể coi là đỉnh cao của Cái Ác, nhập thân vào ý thức hệ,
theo nghĩa mà Solzhenytsin đã chỉ ra: Thành quả của Cái Ác, qua sức
mạnh và trí tưởng tượng của những Đại Ác Nhân của Shakespeare cùng lắm
thì cũng chỉ đếm được trên chục xác chết. Bởi vì đám khốn kiếp này
không có ý thức hệ, như là một "nghĩa cả" để mà phục vụ... Nhờ có "ý
thức hệ", thế kỷ 20 đã có được cái số phận khốn nạn của nó: kinh qua
Cái Ác ở mức độ hàng triệu triệu tử thi."
["The imagination and inner strength of Shakespeare’s vilains stopped
short at a dozen cadavers. Because they had no idology... Thanks to
"ideology" the 20th century was fated to experience evil calculated on
a scale of millions."].
Hai Trầu & NNT
Gấu này sở dĩ cứ nấn ná không
dám viết về Nguyễn Ngọc Tư, một phần là
vậy.
Nếu viết,
là phải làm sao tách văn của bà ra khỏi cái đám rác rưởi đó.
Bởi vì coi Nguyễn Ngọc Tư là 'đặc sản', rồi khen văn
của bà, bằng cách choàng cho bà vòng hoa, ông VC nằm vùng VH đã từng
choàng cho kỳ nữ KC, thì đúng là quá khốn nạn! NQT
Xâu con
mắt luồn kim tìm chiêm bao
Trang NNT
Đọc NNT
Giáo đường làm Faulkner nổi
tiếng, famous, và tai tiếng,
infamous. Một
đại tác phẩm về sự “thờ phụng sự độc địa, tàn ác” [the cult of
cruelty], trong
cõi văn Mẽo.
Đây là một câu chuyện lùa gái quê vô thế giới ngầm thành
phố Memphis,
Mississipi. Một câu chuyện u ám, làm phiền toái. Cô gái Temple Drake
này còn mang theo, như của hồi môn, một cái gì của riêng cô, về sự mất
nết, vô thế giới hư ruỗng đó.
Trong khi với nhiều độc giả, đây là một cú sốc đánh vào cảm
tính, bây giờ, hầu như tất cả, cùng lúc, còn nhận ra, có một cái chi
rất ư là
chi ly, tinh tế, của Eliot, của Freud, ở trong đó. Ngoài ra, còn chất
thần thoại,
mầu sắc miệt vườn [đặc sản quê ta], và ngay cả thứ tiểu thuyết đen,
cứng,
giống như mầm đá, nấu hoài không chịu mềm, của Mẽo, cũng tìm thấy chúng
ở
trong đó.
Được xb năm 1831, Giáo đường của
Faulkner có thể được coi như
một nghiên cứu, tìm tòi, ác liệt nhất, về "bản chất của cái ác."
Và tất nhiên, đây là một tác phẩm quan trọng bậc nhất của ông.
[Lời giới thiệu ở bìa sau của Giáo
đường, Vintage Books]
Bạn đọc Việt Nam
có thể coi, đây là lời giới thiệu Cánh
Đồng Bất Tận của NNT, cũng được!
*
Giáo đường là
một
thí dụ về phương pháp của Freud, được đảo ngược, turned backward, đầy
ác mộng dâm đãng, thực sự, những biểu tượng xã hội.
Đẩy lên một mức cao hơn nữa, thì đây là những gì chứa chất ở trong đầu
của tác giả, về hình ảnh Miền Nam, như là một cuộc hãm hiếp, và một
cuộc hư ruỗng, thối rữa [It is somehow connected in the author's mind
with what he regards as the rape and corruption of the South.]
Malcolm Cowley: Giới thiệu Faulkner, bản gọn nhẹ, The Portable Faulkner
Chẳng có một nhân vật nào của Faulkner, cho dù hiền lương hay không
hiền lương, có được một linh hồn.
Gide đọc Faulkner, Malcolm Cowley trích dẫn.
*
Muộn rồi, nhưng có còn dịp nào nữa để hát “người
ta đã có đôi rồi, chiếu chăn đâu ấm bằng người tình chung”?
Tôi ngồi liếm đôi môi rát, mai mình sẽ chảy máu cam. Nhưng trong cái
tiệc đãi bạn tối này, có người chảy máu trong lòng nữa kia.
NNT: Đãi bạn
*
"Thương thôi thì được cái gì. Chị
không hợp với cảnh
nhà này, thầy Thành nói vậy...."
Tôi hỏi, thầy Thành nào, chị cười,
thầy mới về dạy trường xã
mình nè, thầy hay lại nhà chơi, chưa vợ nên hay biểu chị làm mai, tưởng
chuyện
chi khó, con gái xứ này giỏi giang thiếu gì. Có lần, thầy thấy chị ngồi
lau ống
khói đèn thờ, thầy bảo, xứ này không hợp với chị, thầy nói câu nào nghĩ
lại
cũng trúng. Em gặp thầy một lần coi, thầy Thành nói chuyện hay lắm, thì
người
ta từ thành phố xuống mà. Nghe kể chuyện trên đó rồi, chị thấy sống ở
đây chán
thiệt, chán thí mồ đi.
NNT: Một
Mối Tình
*
Thầy Thành này, tuy thua xa Stupen, nhưng cũng cùng thứ trôi sông lạc
chợ. Quentin Compson, một hậu duệ của Stupen đã coi ông như là một thứ
"rác rưởi, không nguồn gốc", "trash, originless" - như Faulkner đã từng
viết cho tôi trong một bức thư. Malcolm Cowley, người biên tập The
Portable Faulkner]
*
Trong đời Gấu, đã từng quen một ông thầy Thành như
vậy. Một Stupen, với "giấc mơ" ["design", chữ của Malcolm Cowley], xây
dựng một "giang san" cho mình, một thứ "Stupen's hundred", sau khi bị
Miền Bắc ruồng bỏ.
TTT gọi đám này là lũ con tư sinh của Miền Bắc.
*
Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư
sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề
của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá
lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả
sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của
Pushkin."]
Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng
trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm
bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên
tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới
ấy.."
Trong
đất trời
*
Văn Việt Nam, "dòng chính", chỉ là "văn nói", chưa bao giờ đạt tới cõi
"văn viết", với những câu văn dài lê thê,
như chẳng biết làm sao chấm dứt.... Walter Benjamin đã từng ca ngợi
Karl Kraus, Susan Sontag
trích dẫn, dưới đây, trong một bài tưởng niệm tuyệt vời nhà văn Đức gốc
Do Thái này: Sinh dưới bảng hiệu
Saturn [Under the Sign of Saturn]:
"If style is the power to move freely in the length and breath of
linguistic thinking without falling into banality, it is attained
chiefly by the cardiac strength of great thoughts, which drives the
blood of language through the capillaries of syntax into the remotest
limbs."
NNT chắc chắn chẳng bao giờ đọc Faulkner, lại càng chẳng biết, những
Benjamin, Sontag, nhưng, một mình một xuồng, len lỏi giữa trời nước
mênh mông, tới nhánh sông, nhánh lạch xa xôi tuyệt mù.... văn của bà,
từ đó, bắt đầu, từ đó, chấm dứt.
Chúng ta cứ thử đọc câu này, coi có đúng như Benjamin diễn tả:
Mưa vô mùa, nghĩa là hết
một đợt dài lưu diễn, tôi về quê, má tôi chặt
lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun
bánh; tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu,
tội nghiệp tụi nó, nhà không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì ăn
đâu..."; tôi giành: "Chừng nào bánh chín, để con đem qua bển cho; Má,
má mè, anh Hai có tính bước thêm bước nữa chưa, hả má."; Má tôi cười:
"Chưa, má biểu nó hoài, mà, cái con này, lần nào về cũng hỏi có chuyện
đó....". Mình à? Mình sao? Lần nào cũng hỏi chuyện đó à? Ụa, hỏi hồi
nào sao mình không hay vậy ta?
Một
Mối Tình
*
"Câu nói của Vũ Hạnh về kịch miền Nam:
“Sự giản dị,
thoải mái và hồn nhiên của kịch miền Nam đều hướng về đạo nghĩa” (khi
ông phê
bình Kim Cương), cũng có thể áp dụng cho văn xuôi miền Nam. Nguyễn Ngọc
Tư rất
Nam như thế đó."
THD: Đặc sản miền nam.
Đọc đến khúc, "hướng về đạo nghĩa", Gấu bỗng lại đau,"nỗi đau ngựa Hồ":
Từ thuở mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.
*
Lần về Hà Nội, đọc hai câu thơ dưới đây, Gấu toát hết mồ hôi.
Hai câu thơ, đúng là được "trao cho Gấu", cái thằng mắt lác bỏ đất Bắc,
hơn nửa thế kỷ mới bò về.
*
Về để làm gì? Ngựa Hồ hí gió Bắc hả? Chim Việt Cành Nam?
Không phải.
buồn tập tễnh,
về ăn giỗ mình.
PHT
Notes on Susan Sontag
("My greatest dream was to
grow up and come to New York and write for Partisan Review and
be read by 5,000 people.") Her trip to Hanoi in 1968. The mini-skirted
babe in the frumpy Upper West Side crowd and her years as the only
woman on the panel. The front-page news in 1982 when, after years of
supporting various Marxist revolutions, she declared that communism was
"fascism with a human face."
Giấc mộng lớn lao nhất của tôi là lớn lên, nhập vào thành phố New York,
viết cho tờ Partisan Review và
có năm ngàn người đọc mình.
Sau khi hăm hở cổ võ cho những cuộc cách mạng Mác xít, là cuộc vỡ mộng
lớn lao nhất: Chủ nghĩa Cộng sản là "chủ nghĩa Phát xít với bộ mặt của
con người."
|
|