*
Ghi
1 2 3 4 5 6
7 8



















4. "Darkness at Noon" by Arthur Koestler (Macmillan, 1941)


The words "Russia" and "Soviet Union" do not appear in this petrifying story of life in Stalin's Russia during the Moscow show trials, but every reader of the day knew exactly what Koestler was writing about and whom the totalitarian leader known merely as "Number One" was modeled on. "Darkness at Noon" recounts the fate of Rubashov, an old revolutionary who is charged with treason and thrown in prison, where he is brainwashed and tortured; he ultimately confesses to imaginary crimes against the state. Koestler was himself a disillusioned Communist, and "Darkness at Noon" was greeted with rage by Western intellectuals such as Jean-Paul Sartre, who pegged the book for what it was: a searing indictment of life in a totalitarian society.

Trên, là nhận định của Báo Phố Tường, về Đêm giữa Ngọ. Đọc, Gấu hỡi ơi! Quả là mấy anh có tiền đếch biết tí gì về văn chương, về Đêm giữa Ngọ, về Koestler, về...
Làm gì có chuyện Rubashov bị tẩy não, và tra tấn! Chứng tỏ, anh Phố Tường này đếch có đọc Đêm giữa Ngọ.
Rubashov là tổ sư, là...  “VC của VC”, mà lại có chuyện tẩy não? Ông ta tha cho mấy thằng đàn em, không tẩy não chúng mày là may cho chúng mày đấy!
Truyện mở ra với cảnh, đang đêm mật vụ tới bắt R. Ông đang chờ tụi nó. Thú vị nhất, là ông còn sai một đứa, đưa tao cái áo đại quân, lãnh tụ coi nào! Ông cũng có nghĩ đến chuyện bị tra tấn, làm sao không, và tự hỏi, không hiểu mình có quỵ không. Thế là khi tụi nó tống ông vô xà lim, ông bèn hút thuốc lá, và dí cái mẩu thuốc đỏ rực vào lòng bàn tay, đúng lúc đó, ngửng lên, nhìn thấy con mắt cú vọ của tên lính gác, qua lỗ hổng trên cửa phòng giam, hắn cười gằn, đóng sập lỗ hổng lại, và bỏ đi
Gấu đọc từ hồi mới lớn, và không làm sao quên nổi xen đó, và nhiều lần đi tù VC, đã tự hỏi chính mình, giả như mình bị tụi nó dí thuốc lá thì sao, thì sao....?
V/v Sartre. Không chỉ Sartre, mà tất cả đám tả phái ở Paris khi đó, hì hục, lui cui, dị mọ đi từng nhà sách, lượm hết Đêm giữa Ngọ đem đốt bỏ. Koestler có kể lại trong Kẻ lạ ở quảng trường.
V/v tra tấn. Milosz, trong cuốn sách ABC của ông, dưới "đầu vào" [entry] Koestler, đã nhắc tới nhà thơ Aleksander Wat, và cuộc trò chuyện của Wat với một tay cựu Bôn-sê-vích, the old Bolshevik Steklov, liền trước khi xẩy ra cái chết của tay cựu đảng viên đáng kính này, trong nhà tù Satarov.
Theo Steklov, những tay như Rubashov thú tội, ngay cả những tội mà họ không hề phạm, không phải do tra tấn, mà là do quá tởm quá khứ đầy ứ những tội ác của họ. Và cái chuyện tự làm nhục chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém gì, và tra tấn là không cần thiết.
[According to Steklov, they confessed out of disgust at their own past: they each had so many crimes on their account, that it cost them nothing to demean themselves once more and torture was not necessary].
*
Và cái chuyện tự làm nhục chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém gì, và tra tấn là không cần thiết.
Liệu, có thể đọc, những Lạc Đường, theo cung cách này?
*
... he ultimately confesses to imaginary crimes against the state. [Ông ta sau cùng thú nhận những tội tưởng tượng chống lại nhà nước]

Sai. Đêm giữa Ngọ quả là một tác phẩm văn học bậc thầy, và phải từ đó, nó mới tiến thêm lên một mức nữa, trở thành một tác phẩm chính trị bậc thầy, như một bằng chứng hiển nhiên xác nhận câu phán của Brodsky, Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh, hay nói một cách khác: Chính trị mới là đỉnh cao của văn học. Gấu xin post lại hai đoạn căn bản liên quan.
*
Vả chăng, cuốn sách cũng rất bị "hiểu lầm", và có thể được đọc như là một bài diễn văn sơ đẳng về một triết lý mang tính chính trị, vì đã thoát thai từ những "người thực, việc thực", từ những vụ án phản động tại Moscow. Nhưng nó đã được viết với một sức mạnh bi tráng, với sự ấm áp của tư duy, của cảm nghĩ; với sự giản dị, đầy tính chiêu dụ mời gọi, và trở nên cuốn hút như một bản bi ca.
Rubashov là tổng hợp tất cả những người Bolshevik cựu trào bị trừ khử bởi Stalin. Cuốn truyện mở ra vào năm 1938, với sự bắt giữ Rubashov. Ông đang mong đợi chuyện đó. Ông chẳng phạm bất cứ một tội nào sau đó ông sẽ tự thú. Theo kiểu suy nghĩ "chuẩn mức", những chuẩn mức "xa xỉ, đỏm đáng", ông vô tội. Nhưng trong cái đầu có sạn, Rubashov hiểu rất rõ, ông có tội. Tại sao? Bởi vì ông vẫn là một trong những chuẩn mức làm nên con người "cách mạng", 40 năm trời cung cúc, tự nguyện hiến thân cho sự nghiệp vô sản, làm sao hoàn tất nó với tất cả mọi phương tiện, dù ghê tởm, tàn nhẫn tới đâu. Khi một con người "thép đã tôi" đến mức đó, mà lại để một chút nghi ngờ cỏn con len lén chui vào tâm tư, khi ông tự hỏi, phải chi mà cuộc cách mạng đỡ tốn kém đi một chút, những đau thương, những mạng người, khi đó, ông biết rằng ông hết còn ngây thơ vô tội. Chỉ một chút lòng trinh bạch là đủ để bị trừng phạt bằng cái chết. Thật tuyệt vời. Koestler theo sát nút những suy nghĩ của Rubashov, tới tận điểm của "mê cung", sự thừa nhận cuối cùng "tay chót nhúng chàm": "Tôi hết còn tin vào ‘khả năng vô địch, bách chiến bách thắng’, của riêng tôi. Vì vậy, tôi thua".
Tuy là một cuốn sách viết về nhà tù, nhưng không có sự đối xử "ác ôn, côn đồ" ở đây. Vấn đề là, một khi bị coi là có tội, theo "chuẩn mức" của nhà nước Xô-viết, tội nhân, hoặc chết trong im lặng, hoặc "được" quyền tự thú trước nhân dân.
Giải pháp nằm trong tay hai thẩm tra viên Ivanov và Gletkin. Cả hai đều muốn Rubashov bằng lòng tự thú công khai, vì thế giá cách mạng của ông rất cao, trừ khử ông không một lời giải thích sẽ gây một tổn thất lớn lao về đạo đức cách mạng đối với nhân dân. Ivanov, vốn là một cựu trào, tin rằng có thể "nắm" được diễn biến, tư tưởng của người đồng chí cũ.
Hai buổi hỏi cung đầu do Ivanov. Bằng một "logic" không thể chê, anh cho Rubashov thấy những vấn đề mà bản thân ông không ngờ được. Anh chứng tỏ, sự mất cảm tình, không trung thành của Rubashov bắt đầu, là khi ông trở về từ Đức, sau hai năm bị Nazi cầm tù. Ông đòi hỏi được đi công tác tại hải ngoại, mặc dù được trao một chức vụ quan trọng ở trong nước.
-Anh không cảm thấy thoải mái ở đây, chắc thế? Trong lúc anh vắng mặt, đã có một số thay đổi, và rõ ràng là anh không hài lòng?
Một khi Rubashov thừa nhận, ông không hài lòng, việc trừ khử những cựu trào, cái bẫy xiết chặt lấy ông. Bởi vì, theo suy nghĩ của Đảng và Nhà nước, một chống đối công khai luôn bắt nguồn từ một bất mãn, bất trung thành ngấm ngầm.
Ivanov chơi một trò chơi tuyệt hảo với Rubashov. Anh kêu gọi, nhắc nhở người đồng chí cũ về sự tuân thủ kỷ luật Đảng mà ngày nào ông đã từng một lòng một dạ. Anh cố làm cho ông tin rằng ông đã lầm lạc. Cuối cùng thành công. Nhưng Ivanov bị khiển trách và bị xử bắn sau đó, vì đã quá tình cảm với tội nhân.
Buổi hỏi cung cuối, khi Rubashov đã sẵn sàng thú tội, là do Gletkin, một kẻ "đã được cắt nhau ở rốn", nghĩa là không còn một chút dây mơ rễ mái với đám cựu trào. Đây là một màn tra tấn tinh vi, tạo cơn hấp hối kéo dài. Chủ đích là phải đem vào bản tự thú, những chi tiết đặc thù. Một thỏa thuận ngấm ngầm được đặt ra giữa đao phủ và tội nhân: một khi lời buộc tội được coi như là đúng, tự gốc rễ, cho dù gốc rễ này chỉ có tính trừu tượng, có vẻ hợp lý; khi đó Gletkin được quyền tha hồ vẽ ra những chi tiết còn thiếu.
Nhưng đây mới là mấu chót của câu chuyện, điều mà bao lần đọc Darkness at Noon, vì thành kiến, tôi đã không nhận ra, may nhờ H. Strauss mới thấy được: Trong khi bề ngoài, Gletkin thắng trận đấu sinh tử tay đôi (duel), một sự thay đổi lớn lao đã xẩy ra bên trong Rubashov. Ông lần hồi trở lại "làm người", một con người của suy tư, cảm nghĩ, của những cảm xúc mang tính chủ quan. Trong khi cái đầu của ông tỏ ra hài lòng với Gletkin, trái tim của ông thừa nhận, có lẽ con người không nên theo những hiệu quả logic của tư tưởng đến tận cùng. Có lẽ, lý lẽ không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.
Hiệu quả huyền ảo của cuốn truyện là một mỉa mai bi thảm: Rubashov tự thú công khai trước nhân dân, và sau đó bị xử bắn. Nhưng ông mới chính là kể thắng trận, trước đám người thống trị, nhục mạ ông.
Trầm luân vì niềm tin
Và đoạn về Brodsky:
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].”
*
Caroline Fraser, đọc Red Mandarin Dress trên Điểm Sách London, chỉ ra, mặc dù những tội ác ở trong những cuốn sách của Qiu đều có liên quan tới quá khứ, và cuốn đầu tay của ông, được coi là 1 trong năm cuốn số 1 tố cáo cái ác của chủ nghĩa CS, nhưng những nhân vật của ông có nhiều gần gũi với của một số tác giả viết trinh thám của Anh, như Adam Dalgliesh của F.D. James, ông này cũng là một thi sĩ, hay Inspector Wexford của Ruth Rendell, và yếu tố chính trị chỉ là thứ yếu so với yếu tố tâm lý, là sự tương phản giữa nạn nhân và kẻ gây ác.


*
Giữa Hai Thế Giới

 Trong cuộc chiến Việt Nam, vì quá sợ nó, tôi tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn núp "khá" an toàn, là sách vở. Và trong đó, truyện trinh thám. Những cuốn tiểu thuyết đen, série noire, với những tác giả như nhà văn người Mỹ James Hadley Chase (ông này hiện rất đang ăn khách ở Việt Nam), nhà văn người Bỉ viết tiếng Pháp Georges Simenon, và John Le Carré, được coi là "ông vua" của tiểu thuyết gián điệp, với bối cảnh cuộc Chiến Tranh Lạnh.
Tôi tình cờ khám phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm sách Xuân Thu, ở đường Tự Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh, (L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "Từ Miền Lạnh" đập ngay vào mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để kéo dài thời gian "hoãn dịch" (sursis). Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc sâu quá khứ. Lạnh, Đói, Cô Đơn, Tủi Thân…
 Chả là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ, một nách bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ đến ăn nhờ ở đậu nơi bà con chú bác, bên nội bên ngoại… Những chi tiết này chẳng liên quan gì tới Gián Điệp Từ Miền Lạnh , nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của Le Carré.
 John le Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ Ngoại giao (công tác gián điệp), do vậy, không được dùng tên thực. Cuốn The Spy Who Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên đài danh vọng. Đã được quay thành phim, với tài tử Richard Burton. Đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng thú vị nhất, đã được nhà văn chuyên viết truyện trinh thám nổi tiếng, Người Thứ Tám, phóng tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc" Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu Lâm vào hàng thượng thừa, Văn Bình được Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam phái ra Bắc (Hà Nội), để cứu một điệp viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao cấp CS. Anh được cung cấp đầy đủ tài liệu: nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt cách mạng" ở một ngân hàng Thụy Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận tiền…
 Trong nguyên tác của Le Carré, câu chuyện xẩy ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc ăn, ông đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau khi thất bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô gái thương tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với "cách mạng" (Đông Đức).
 Mọi việc diễn tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn, Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu của anh chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.
 Bí mật bật mí: tất cả những tài liệu tố cáo đều là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ địch này là một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"! Còn cái người mà anh điệp viên "tởm" nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!
 Phản gián Anh, qua nhân viên nhị trùng, tổ chức cho anh điệp viên vượt bức tường Bá Linh, cùng với cô bồ, nhưng lính gác đã được lệnh: bắn chết cô bồ. Phải có một kẻ "hi sinh" chứ!
 Cuối cùng anh điệp viên nhất định không bỏ người yêu, vả lại cũng quá chán sự tàn nhẫn của nghề điệp viên, quá chán "đế quốc Anh", anh cùng chịu chết với bồ.

 Anh nghe một giọng nói tiếng Anh, từ phía Tây bức tường:
 -Nhẩy đi, Alec! Nhảy!
 Anh nghe tiếng Smiley, thật gần:
 -Cô gái, cô gái đâu?
 Đưa mắt nhìn xuống chân tường, sau cùng anh nhìn thấy cô gái, nằm bất động. Trong một thoáng, anh lưỡng lự, rồi chầm chậm bò xuống… cho tới khi đứng bên cô gái. Cô đã chết; khuôn mặt quay đi, mớ tóc đen phủ trên má, như để che những giọt mưa cho cô.
 Họ hình như ngần ngừ, trước khi nổ súng tiếp; một người nào đó ra lệnh, nhưng vẫn chưa có ai nổ súng. Sau cùng, họ bắn anh, hai hoặc ba phát. Anh đứng trơ, ngơ ngác, như một con bò mù giữa đấu trường. Rồi anh ngã xuống, trong khi ngã, anh nhìn thấy một chiếc xe nhỏ… và những đứa trẻ trong xe giơ tay vẫy vẫy anh, qua cửa xe.
Như trên đã nói, Gián Điệp Từ Miền Lạnh  là cuốn đưa Le Carré lên đài danh vọng, nhưng theo tôi, cuốn đầu tay của ông, Điện Thoại dành cho Người Đã Chết, Call For The Dead mới là cuốn hay nhất của ông. Và đây là một tác phẩm văn chương, thứ thiệt. Nó còn mang chất bi hùng của Kịch Hy Lạp.
 Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân Cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
 Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe. Hoá ra là của nữ điện thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã dặn, " Tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
 Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi đời, lại nhờ người đánh thức?
 Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của Smiley. Cũng là một tay Cộng Sản thứ thiệt.
 Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền. Anh thử làm theo, và thành công.
 Ông cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. (Let them bolt, panic, anything… so long as they do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.
 Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
 The Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát cùng với khán thính giả.
 Smiley và Dieter đụng độ trên cầu. Nhớ lại những năm tháng cùng chống Quốc Xã, anh tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.
 Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:

 (Mendel hỏi Smiley):
 -Bà ta có phải là cộng sản không?
 -Tôi không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình.
 (I don’t think she liked labels. I think she wanted to help build one society which could live without conflict. Peace is a dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)
 -Còn Dieter?
 -Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián điệp."
 -Trời đất!
 Smiley im lặng một lát:
 -Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt.
 Le Carré luôn tỏ ra "ưu ái", với những người Cộng Sản chân chính. Có vẻ như ông tin rằng, chính những người đó có lý hơn ông, như trong đoạn cuối ở trên, Smiley nước mắt ràn rụa, hét lớn, nhìn thân xác Dieter chìm xuống lòng sông, giữa sương mù Luân Đôn:
 -Dieter! Tại sao bạn không bắn tôi? Tại sao?…
Nguồn