Ghi
Phần I
|
Thời Chúa Sẩy Thai (1)
“Đặt tên cho cuốn
sách, còn hơn cả tên khai sinh cho
con mình,
cực khó đấy. Truyện của ông lẽ ra phải đặt là “Những người khốn khổ”,
hoặc “Con
đường đau khổ”. Tiếc là các cụ Vichto Huygô và Alếcxan Tôlxtôi đã đặt
mất rồi…”
Cái tên hay nhất
cho nó
là: Chúa Sẩy Thai. Hoặc Anus Mundi.
Chúa Sẩy Thai: Đây là một từ
do Gấu này phịa ra, để dịch cụm từ "the Passion of an abortive
Christ figure", và đây là nguồn:
Weinberg khai triển biểu
tượng tôn giáo ngầm chứa trong câu chuyện, (Hoá Thân, của Kafka) đã
coi đây
là một chuyển hoá tiêu cực, a negative transfiguration, một nghịch đảo
hiện tượng
Chuá nhập thân làm người phàm, một Khổ nạn Giê-xu Sẩy thai [the Passion
of an abortive Christ
figure]
[Hoá Thân của Kafka, bản tiếng Anh, Bantam Books; phần phụ lục,
Explanatory
Notes To The Text]. Tính từ "abortive" ở đây có thể hiểu như là [một dự
án] không thành công, bị sa sẩy, không thực hiện được, [một kế hoạch]
bị bể từ trong trứng nước. NQT
*
Từ "Chúa Sẩy Thai" nghe rất chướng,
nhưng biết làm sao được, không lẽ phải dùng cả một cụm từ như sau đây:
Hóa
Thân kể câu
chuyện Chúa
Giáng Sinh lần thứ nhì, làm người, để cứu nhân loại, nhưng cuộc sinh nở
không
xuông xẻ và thay vì làm người thì thành một con bọ, và gia đình sau
cùng phải
giết bỏ.
Áp
dụng vào Mít:
Nước Mít đúng ra là sau 30 Tháng
Tư có được Đức Phật nhập thế, Chúa Giáng Sinh, cứu giúp dân Mít, xây
cái nhà Mít
to lớn bằng 100 lần trước, đưa dân Mít lên đến đại đồng, nhưng thay vì
vậy, chỉ
có con bọ VC, và sau cùng dân Mít đành phải giết bỏ. NQT
*
Nhưng tại sao tham luận của
ông không là nghiên cứu trí thức Việt Nam mà lại là trí thức
Trung Quốc?
Đây
cũng là một trường hợp áo
gấm về làng đây!
Đúng là có tài phỏng vấn,
ngửi ra ngay ‘nhược điểm” của đối phương, để mà chọc lưỡi dao vô!
Câu trên, chẳng tuyệt sao?
Mi cũng là một thằng nhát. Bộ
VN không có gì để ‘tham luận’?
Câu nhắc tới tướng Givral, mà
chẳng thú sao?
Hóa ra ông chủ cũng có thời
gian là bạn của bạn của Gấu, tức Cao Bồi PXA.
Cuốn viết về PXA của bà này,
cũng tuyệt: Người không mặt! Nó làm Gấu nhớ tới Akhmatova, và câu thơ
của bà,
về thời không mặt:
The human face disappeared
and also its divine image. In the classical world a slave was called
aprosopos,
'faceless';
litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in
facelessness.
Mặt người biến mất và hình
ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là
aprosopos,
'không mặt'; kẻ
không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong không mặt.]
Nói cho cùng, đó là thời
không mặt. Như một hình ảnh khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách
Mạng:
As though, in night's
terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear
[Như thể, trong tấm gương
kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ
hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]
Nhớ tới những chuyến đi của
đám VC nằm vùng, vô bưng gặp Cách Mạng, cũng bị bịt kín mặt, cứ là như
đi gặp
Bố Già Corleone!
Ông chủ khều nhẹ đám hải
ngoại cứ chê Việt Nam
thiếu dân chủ, đếch chịu làm một điều gì cho đất nước, như ông ta,
nhưng khi
được hỏi, ông làm được gì, thì lại đổ cho cơ chế. Cơ chế như vậy, là do
thiếu
dân chủ mà ra. Nhưng đó là chuyện nhỏ.
Chuyện khủng khiếp, là đằng sau tất cả,
là Cái Ác Bắc Kít, và cái này thì thật vô phương!
Phải đọc cái này, mới càng thấm hiện tượng
Chúa Sẩy Thai, Anus Mundi!
Nguyễn Đăng Mạnh viết về Nguyễn Khải
Note: Bài này đã
được delete
khỏi Diễn Đàn Forum
Cái
tay NDM này, lần Gấu về
Hà Nội, nghe ông cậu, Cậu Toàn, em của bà cụ Gấu, cho biết, là bạn học
của ông,
cũng viết nhiều, nhưng không phải thứ văn chương sáng tác. Gấu lần về
đó, có
mua mấy cuốn ông viết về Nguyễn Tuân. Cái hồi ký của tay này, về mặt
văn học
thì yếu, nhưng về mặt tài liệu, thì thật tuyệt, theo cái kiểu, một
người giấu
một cái máy ghi âm nhỏ xíu ở trong người...
thành thử mấy anh như Nguyễn Khải, vốn nhát, cứ tưởng là an toàn xa lộ,
tha hồ phun ra, có thể vì vậy mà bài bị lấy xuống?
Bài
viết cho biết rất nhiều
chi tiết hiếm quí về những ngày đầu mấy anh này vào Nam, ngay sau 30 Tháng
Tư. Đói khổ,
thèm thuồng đủ thứ... Suy ra, dân Miền Nam hồi đó mới điêu
linh cực khổ cỡ
nào, nhất là những gia đình có chồng con đi cải tạo tại Miền Bắc.
*
Ngay
sau khi Nguyễn Khải mất,
tôi có anh bạn (Hoàng Dũng) trong Nam ra Hà Nội, nói Nguyễn Khải chết
không có
đất chôn. Đúng ra là không được chôn ở nghĩa địa Sài Gòn (tại Thủ Đức),
phải
đưa lên nghĩa địa Củ Chi rất xa. Tiêu chuẩn được chôn ở Thủ Đức, ngoài
những
ông thành uỷ viên hay trung ương uỷ viên không kể, phải có 65 năm tuổi
đảng.
Trần Duy Châu, nguyên hiệu phó Đại học Sư phạm Sài Gòn, khi chết mới có
58 tuổi
đảng, không đủ tiêu chuẩn, phải đưa đi Củ Chi. Nguyễn Khải tất nhiên
cũng phải
đưa đi Củ Chi.
Võ
Văn Kiệt thấy thế chắc lấy
làm xấu hổ, nên can thiệp. Ông tuyên bố nhường suất chôn ở Thủ Đức của
ông cho
Nguyễn Khải.
*
Khó
hiểu thực. Tại sao Víp Va
Ka lại xấu hổ?
Không
có đất mà chôn? Ăn cướp
cả Miền Nam
vậy mà vẫn không có đất để mà chôn?
Càng
viết càng nhục. Chết vẫn
chưa hết nhục! NQT
Note:
Đúng ra, Víp Va Ka phải
xấu hổ giùm cho Sơn Nam
mới phải. Ông này, dân Nam Bộ như Víp, cũng không có miếng đất mà chôn,
may nhờ
một vị hảo tâm, thí cho một miếng, đâu cũng tận Củ Chi Thành Đồng!
*
Than
oi!
Wednesday,
September 3, 2008
6:40 PM
From:
To:
5
tuoi vao dang roi!!!
Phải
có 65 năm tuổi đảng.
Hồi Ký Nguyễn Đăng
Mạnh
Note: V/v Hồi ký
NDM,
hình như là đã được "phát tán" không có sự đồng ý của tác giả. Tuy
nhiên, Tin Văn bỏ qua sự kiện này, và chủ trương: Đây là "chiến lợi
phẩm" sau 30 Tháng Tư 1975, của Miền Nam, của đám VNCH "thất
trận", trong có Gấu, theo nghĩa: Tụi văn nghệ sĩ chúng mày nhơ bẩn đến
như thế này, mà đòi giải phóng ai? (1)
Hơn nữa, có thể cái sự phát tán này, cũng là có tí ẩn ý của NDM chăng?
Bởi vì không lẽ viết để di chúc đốt bỏ? Như... Kafka? NQT
(1)
Tố
Hữu trông người nhỏ nhắn,
nhẹ nhõm như một thư sinh. Nhưng rất hách. Tôi đã nghe Hoàng Cầm nói,
ông đã
từng ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác bằng sáu tiếng ngắn gọn: “Gọi nó về,
bắt lấy
nó”. Tôi đã chứng kiến Nguyễn Đình Thi sợ ông như thế nào, tôi ví như
con cua
co dúm người lại trước con ếch.
Tôi đã nghe Hoàng Ngọc Hiến
thuật lại về Tố Hữu trong cuộc họp nhà văn đảng viên hồi tháng sắu năm
1979.
Nguyên Ngọc trình bầy bản đề cương chống Mao-ít. Tố Hữu đã quạt cho
Nguyên Ngọc
một trận, cho đây là hiện tượng “ngược dòng”, ông có cách nói mỉa mai
rất ác.
Nhân thấy Nguyên Ngọc, người thấp, nhân làm đổ cái micro trên bàn chủ
tịch
đoàn, ông nói: “Cái bục này đối với tôi hơi cao, đối với anh Nguyên
Ngọc thì
cao quá!”. Ông còn đến vuốt râu Nguyên Hồng: “Để râu sớm quá đấy, để
trốn họp
chi bộ chứ gì!”. Gần đây Kim Lân còn cho tôi biết, hôm ấy, Tố Hữu đến
chỗ Kim
Lân, nói: “Dạo này viết ít quá đấy!”. Kim Lân buột miệng nói: “Bác lại
phê bình
em rồi!”. Có vậy thôi mà nghĩ sợ quá. Kim Lân nói: “Tôi nhớ trong
truyện Tam
quốc, có hai anh bạn thân, sau một anh làm to, anh kia đến chơi, nói
suồng sã
về những kỉ niệm thuở hàn vi. Sau bị tay kia cho người đuổi theo thủ
tiêu – Sợ
quá!”.
Tôi chắc Kim Lân sợ thì có
sợ, nhưng làm gì đến nỗi thế. Bọn nhà văn là chúa hay phóng đại.
Nguyễn Khải cũng kể lại, hôm
ấy anh ngồi chủ tịch đoàn. Có một cậu nói nhỏ với anh: “Ông Lành đang
nói sao
cậu lại cười?” Khải sợ quá, vội chối: “Không, răng tôi nó hô đấy chứ,
tôi có
dám cười đâu!”.
Nhân đọc bút ký
chính trị của Nguyễn Khải
Chuyện hai nhà văn
Nhà
văn Miền Nam
có thể tạm
so sánh với Nguyễn Khải, có lẽ phải là Võ Phiến, nếu chỉ xét mặt văn
phong, cách
viết.
Chẳng thế mà có lần Gấu này khen Nguyễn Khải trước NMG, ông chủ báo của
Gấu gật
gù, cho biết, VP cũng rất thích NK, và ông còn cho biết thêm, NK cũng
rất nể
VP.
Đó là thời gian Gấu qua Cali
chơi, lần thứ nhất, tá túc nhà NMG. Khi về NMG order, anh viết một bài
cho số
đặc biệt Văn Học, về Võ Phiến.
Khi NK mất, trong nước, khi vinh danh ông, có trích dẫn lời khen của
VP, qua
NMG nói lại.
Cái sự so sánh, là rất cần thiết, nhưng cũng rất nguy hiểm. So sánh
Thảo
Trường, là phải với một tay cũng dung dị như ông.
Văn của NK rất hiểm độc. Văn Võ Phiến cũng có chất đó, theo nghĩa, ông
dám đánh
đu với tinh, như sư phụ của ông là Zweig. Điều này Gấu nhận ra, theo
kiểu
"đọc trò lần ra thầy", và đã viết ra trong bài về
Võ Phiến.
Còn nếu so sánh sự tự do khi viết của nhà văn Miền Nam, với sự viết
dưới ánh
sáng của Đảng, mà vẫn giữ được lương tâm của người viết, thì phải để
Thảo Trường
– dù ông chẳng hề muốn - với thí dụ Nguyễn Minh Châu, hay Nguyên Ngọc,
mặc dù
cũng thật khập khễnh, vì hai ông này, vào lúc trai trẻ của mình, đều
nghĩ về
văn chương khác hẳn Thảo Trường. Còn điều
này nữa, cả ba đều tham dự cuộc
chiến, trong
khi NK, hình như không, hoặc, do nhát, cũng thực sự "không"!
*
Những độc giả say mê Võ
Phiến, những tác phẩm đầu tay của ông như Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Thác Đổ
Sau Nhà... chắc chắn là nhận ra khí hậu Zweig ở trong đó. Nhân
vật của Võ
Phiến, đều như bị con quỉ của sự tò mò hớp hồn, dẫn dụ, và khi đã hoàn
hồn, có
vẻ như nhờm tởm thế nhân: cô gái trong Thác Đổ Sau Nhà, sau gặp lại người
tình
của một đêm, đã ngạc nhiên không thể tưởng tượng được tại sao mình lại
đã có
lần ngã vào một con người thô kệch, cù lần đến như thế! (Vì không có
văn bản
trong tay, tôi viết lại theo trí nhớ, ở đây là những cảm giác còn giữ
được, khi
đọc Võ Phiến hồi học trung học. Không hiểu đọc lại, những chi tiết có
đúng, và
cảm nghĩ có thay đổi hay không).
Những nhân vật tiểu thuyết
hiện đại đều bước ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập lại,
với những
nhân vật của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu, ông
đã
đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định, và một
Võ Phiến
bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B. (không hiểu
khi bị bắt
trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình huống đốt vội đốt vàng
những giấy
tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần" trong Thác Đổ Sau Nhà, đã có một
lần được tới Thiên Thai, cùng một cô gái trong một căn lều, giữa rừng,
cách
biệt với thế giới loài người, có một cái gì thật quen thuộc với đối thủ
của ông
B., tay vô địch cờ tướng nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi xuống bàn cờ là
kẻ thù
nào cũng đánh thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?
"Nhưng đây là con lừa
Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai
ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên
thốt ra
những điều đầy khôn ngoan.Bởi vì nhà vô địch là một người không thể
viết một
câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt",
bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14
tuổi
vẫn phải dùng tay để đếm.
Cuộc đụng độ giữa nhà vô địch
với ông B. đúng là khí hậu của cả thế kỷ được dồn nén vào trong một ván
cờ!
Hãy so sánh với sự thất bại
của hầu hết những nhân vật của Võ Phiến, trước cuộc đời: những ông Ba
Đồng
Thời, Bốn Thôi...
"Vết thương không
thể
lành", Levi viết trong Những Kẻ Chết
Đuối và Những Người Được Cứu Thoát.
Lò Thiêu địa ngục thứ nhất, hậu Lò Thiêu, địa ngục thứ nhì. Tadeusz
Borowski,
tác giả Quí Bà Và Quí Ông, Đường Này
Tới Lò Thiêu, thoát cả hai lò thiêu
Auschwitz và Dachau, năm 1951, ông chưa tới 30 tuổi, ba ngày sau khi cô
con gái
chào đời, ông đã trở lại nơi lò thiêu ngày xưa: tự tử. Nhà thơ Paul
Celan: tự
tử. Còn nhiều nữa...
Người
ta nói tới không khí
hiu hắt, cô đơn trong văn phong của Võ Phiến. Phải chăng đây cũng là
một tình
trạng "không thể lành", sau kinh nghiệm 1945? Tính cách bất toàn,
luôn bám lấy một tư tưởng cố định, idée fixe, coi thường chính mình,
của những
nhân vật Võ Phiến? Nếu sau này, Võ Phiến có giọng viết như nói, như trò
chuyện
thoải mái, tôi nghĩ đó là do ảnh hưởng Miền Nam. Võ Phiến thời đầu
không có
giọng văn này.
*
Nguyễn Khải là một
nhà văn
chuyên nghiệp được quân đội miền Bắc nuôi để viết văn, còn Thảo Trường
thì
không. Ông không thuộc ngành tâm lý chiến, chỉ viết khi rảnh, theo ý
thích,
không viết lách như làm việc. Ngay năm 1969, khi viết về chiến tranh
ông đã mô
tả tinh vi những mâu thuẫn trong lòng một sĩ quan thấy anh lính thân
cận nhất
của mình ngã chết, rồi lại được nghe những tiếng khóc của người vợ lính
mất
chồng. Ðến bây giờ sau 40 năm chúng ta vẫn cảm động khi đọc lại. Trong
một câu
chuyện chiến tranh khác, Thảo Trường chỉ kể lại những đối thoại của một
người
lính Việt Nam Cộng Hòa với một em bé, khi em bé cứ cặm cụi, tẩn mẩn tìm
cách
đào một viên đạn bắn vào nhà mình, còn ghim trong tường. Thảo Trường
còn viết,
viên đạn Mỹ, nhưng không biết bên nào bắn. Một nhà văn miền Bắc, nhất
là một
nhà văn quân đội không được phép viết tự do như vậy. Ngô Nhân Dụng
Nhận
định, “ông không thuộc
ngành tâm lý chiến, chỉ viết khi rảnh…” khiến độc giả "suy ra", là, giả
như TT
thuộc về ngành tâm lý chiến, thì sẽ viết khác đi, và tất cả những nhà
văn TLC
Miền Nam, thì cũng giống như nhà văn Miền Bắc, được nhà nước, quân đội
VNCH nuôi, để
viết văn, và viết văn Chống Cộng?
Gấu
này đã tính đếch thèm viết
về Ông Số Hai, (1) nhưng ông viết nhảm quá, đành phải ngứa miệng sủa
tiếp!
(1)
Xin xem Tự Kiểm
Theo Gấu, rất khó,
và không nên, so sánh những nhà văn Miền Bắc với bất cứ một nhà văn
Miền
Nam, bởi vì họ khác nhau, ngay tự bản chất. Trong bài viết về Võ Phiến,
Gấu đã
viết về điều này, và sửa nhẹ Ông Tiên Chỉ, về cái chuyện, ông tưởng
tượng ra một nhà văn Miền Nam ra Miền Bắc, rồi cũng bắc loa lên chửi
nhà nước Xạo Hết Chỗ Nói, như những ông Miền Bắc giả đò làm nhà văn
miệt vườn
*
Bài viết về VP, là vào năm
1998, cho một số Văn Học đặc biệt về ông, thời gian Gấu, [noi gương Bác
Hồ], đang
trên đường tìm kiếm một mảnh đất riêng, để tha hồ mà tự tung tự tác,
sau khi
NMG từ chối mấy bài dịch Steiner, và cùng với chúng, là tham vọng để kế
Lò Thiêu
Nazi bên cạnh Lò Cải Tạo Yankee Mũi Tẹt!
Nhưng
phải đến khi đọc Cao Hành
Kiện, thì Gấu mới ngộ ra được, bản chất văn học Miền Nam, thứ tiếng nói
của cá
nhân, không nhằm vinh danh bất cứ một chế độ, một ý thức hệ nào.
*
Văn
Học Tổng Quan của Võ
Phiến, đoạn nói về nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới
những bút
hiệu khác nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và
không hiểu
cả hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?) nhà văn Miền Nam.
Bởi vì,
văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh thần
chiếm đoạt,
tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá, vẫn tự coi
như là
quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và phải
trả
bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một
cách
nào đó, nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng
Pháp, và
chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học
hiện
thực xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn
theo cách
thế đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản
kháng ở
trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời
nói lành
lặn của nó...
"Tại sao ta không thể
yêu, những gì chúng yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta đành chọn hư
vô", mê cung dành cho nhân vật trong Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền là
vậy.
Đừng nhìn thơ tự do, dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm
Hư Vô
(Huỳnh Phan Anh), như là một "cái đuôi" của dòng văn chương hiện sinh
Pháp. Chúng là những con chim báo bão, cho một hư vô huỷ diệt, của
những trại
tù sắp tới... Khi bị những nhà phê bình Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi
họ xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, những nhân vật tôi mọi nô lệ này
đi
đâu?) tác giả Bếp Lửa đã "nhẹ nhàng" yêu cầu, hãy đặt những câu hỏi
đó ra cho chính các ông. Nên nhớ, những nhà văn Miền Nam,
những tác phẩm "chống
Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn": Giải khăn sô cho Huế, Địa
Ngục Có Thực, Mùa Hè Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ Phiến cũng
vậy; sợ
Cộng Sản, sợ mất Miền Nam quá ông mới la làng, còn nhẩn nha được là ông
lại
nghiên cứu chiều sâu con người, dò tìm cội rễ của một bài chòi!
Chúng ta đã lầm một cách thê
thảm, Mac Namara nói vậy, không đúng mà cũng không sai: người lính Việt
Nam
Cộng Hòa không thua trên chiến trường, mà thua vì tính người: họ chưa
bao giờ
coi người lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối. Họ không hề được trang bị
bằng một
thứ văn chương quyền lực.
Nhìn theo cách đó, chúng ta
mới thấm được những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng sĩ
"biên đình" của những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca
"đồn anh đóng bên rừng mai, nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về".
Đánh giặc, súng nổ ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng phút, bất
cứ lúc
nào, nhưng cứ hở ra được một chút là lại "thiền"! Vinh danh người
lính Việt Nam Cộng Hòa là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực họ
dậy, giữa
vòng dây oan nghiệt của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại, là tự
hài lòng
với nỗi bi thảm: nạn nhân của phi nhân. Thua trận, nhục nhã thật, nhưng
thà
rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"! Làm người lính thiền, chắc
chắn là hơn làm đao phủ thiền! Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân (J.
Brodsky).
Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên, Khoa Hữu, Cao Thoại
Châu, Luân
Hoán... là một nhà thơ, người lính bảo vệ ngôn ngữ, và trong khi bảo vệ
ngôn
ngữ, chống lại những điều dối trá, phi nhân, họ bảo vệ con người. Nhà
văn một
kẻ sống sót, là vậy. (1)
(1)
Khúc trên, được một nhà văn ra đi từ Miền Bắc 'nắc nỏm' khen. Nhân đây,
Tks. NQT
*.
Một lần nào
đó chú đã nói rằng văn phải được chở bằng thơ. B. cũng nghĩ thế. Những
tác phẩm
lý sự sắc sảo và quá bám vào hiện thực đang diễn ra thường hấp dẫn
người đọc
kinh khủng vào lúc đó, nhưng khi hiện thực đã là 'khác' và khi sự tò mò
của
người đọc về những ám chỉ, hoặc cao quý hơn: nhu cầu phát huy trí thông
minh
cùng tác giả của họ được thỏa mãn thì tác phẩm sẽ bị để lên giá.
Cấu trúc bài viết vừa rồi của chú dù chia phần rõ vẫn rất lạ. Lúc đầu
B.
tưởng bị lẫn đoạn. Đó là cấu trúc của thơ. Trong đó có những suy
diễn
rất thích.
- B. rất thú vị vì chú thích truyện ngắn của Võ Phiến. Nhìn thì thấy
ngay tùy
tạp của họ Võ không giống ai. Nhưng 'khác', trong một dòng chảy chung,
thì đúng
là truyện ngắn. Hồi đầu đọc B. nể quá.
- Chú chỉ ra tính chất văn chương miền Nam
và miền Bắc hay quá.
- A. bảo chú Trụ dịch và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả
trong một
thể loại đầy tính cãi cọ. Có lẽ văn chương phải thế, phải giống như
một lời
đi tìm tri kỷ, phải dạy người ta một điều gì đó nhưng không dạy đời.
*
Hải
Dương
Có thật “có GI hiện diện mới
có Việt Nam Cộng hòa“ ?
Tôi thường đọc và cảm phục
ông Trần Văn Tích về sự hiểu biết rộng và lý luận sắc bén của ông. Nhìn
chung
rất cận nhân tình. Nhưng trong ý kiến ngắn mới đây bàn về hai ông Phùng
Nguyễn
và Trần Văn Trạng, (mà tôi nghiêng về lập trường của ông Phùng) tôi cảm
thấy
đáng tiếc là ông Tích đã trở nên quá khích khi nói rằng “… Không có tụi
GI thì
đã không có 20 năm Việt Nam Cộng hòa để quí ông Lữ Phưong, Đào Hiếu,
Tiêu Dao
Bảo Cự, Hoàng Phủ Ngọc Tường… tiếp nhận một nền giáo dục nhân bản khai
phóng
làm cơ sở cho những cung cách hành xử cá nhân…”.
Theo tôi người Mỹ đã nhầm lẫn
về chiến thuật khi xua quân vào Việt Nam để can thiệp trực tiếp
vào cuộc
chiến chống cộng. Sự nhầm lẫn này đến từ bản chất tư bản, ai có tiền
người ấy
chỉ huy (thực tại sinh hoạt ở Mỹ) và không chịu hiểu tâm lý đầy mặc cảm
của dân
tộc ta trước các cường quốc. Tôi đồng ý rằng vì có sự giúp đỡ của Mỹ
nên Việt
Nam Cộng hòa mau lớn mạnh, nhưng khi GI đổ bộ vào Việt Nam chính là lúc
chính
nghĩa dân tộc của chúng ta bị mất, nếu không có GI thì Việt Nam Cộng
hoà đã có
thể tồn tại hơn 20 năm (như Đại Hàn bây giờ) và biết đâu với viện trợ
chân
thành không có ẩn ý gì khác của Mỹ thì Việt Nam Cộng hoà đã không mất
về tay
cộng sản miền Bắc. Hiển nhiên là cuộc đối kháng Quốc - Cộng còn kéo dài
vì miền
Nam không có khả năng thắng được cộng sản miền Bắc (vì tuy có chính
nghĩa nhưng
khủng hoảng lãnh đạo) nhưng chắc chắn là không thua mau như thế, hay có
thể nói
là sẽ chẳng thua vì chúng ta có chính nghĩa. Chính vì sự hiện diện của
GI mà
cái khối trí thức có lòng của miền Nam đã phân hoá, như Đào Hiếu đã
đắng cay
nhìn ra rằng một số nuốt phải dây thun “cách mạng giải phóng”, một số
trong đó
có tôi nuốt phải dây thun “Việt Nam là tiền đồn chống cộng”. Tôi chống
cộng vì
lập trường dân tộc của tôi và cũng do kinh nghiệm thực tế tôi đã trải
qua trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tôi tin tưởng rằng con người không phải
vì một
chủ nghĩa, một học thuyết mà sinh ra nhưng trái lại các chủ nghĩa học
thuyết
đều do con người và vì con người mà sinh ra để mưu cầu hạnh phúc cho
con người.
Chủ nghĩa cộng sản không đáp ứng được mục đích đó mà trái lại còn mang
lại bao
nhiêu tang tóc, thống khổ cho nhân loại. Vì thế lúc đó tôi rất tin
tưởng vào
viện trợ Mỹ cho công cuộc chống cộng này.
Nhưng khi thành lập Việt Nam
Cộng hoà, gia đình ông Diệm đã phản bội lý tưởng dân chủ để đi đến chế
độ gia
đình trị, tạo cơ hội cho GI hiện diện ở miền Nam thì cái mầm mất nước
đã bắt
đầu rồi. Cuộc tranh luận của hai ông Phùng và Trạng tuy có phần quá
đáng về
ngôn ngữ đối với nhau trong những bài sau này, nhưng tôi nghĩ cũng rất
cần
thiết để những con gà nuốt dây thun từ từ hoá giải (hoá có dấu sắc!) để
biết
đâu chẳng có thể bắt đầu một cuộc vận động mới cho cách mạng dân tộc mà
những
tấm lòng đầy nhiệt huyết của một thế hệ thanh niên trí thức ở miền Nam
thuở nào
đã từng tin tưởng. Cuộc cách mạng vô sản không phải bị bỏ quên trong tủ
áo một
cô bồ nhí nào đó mà chính là đã bị vất vào sọt rác rồi, vì nó bất khả
thi. Cuộc
cách mạng dân tộc sẽ được phục hồi đúng nghĩa của nó.
Talawas
Theo Gấu, và, như đã lèm bèm đòi
phen trên Tin Văn, cái sự GI vô Việt Nam là do Miền Bắc nhử vô,
sau khi
tạo cú đầu độc tù Phú Lợi. Và tại sao lại làm như vậy, ấy là vì cái
miếng An
Nam nhất thốn thổ của đồng bằng sông Hồng không còn đủ để nuôi bao
nhiêu miệng ăn.
Và bởi
thế, không thể nào so
sánh Việt Nam
với những quốc gia khác được. Nguồn gốc cuộc chiến có cùng với nguồn
gốc lập nước, 50 người con lên núi, đói quá, mò xuống đồng bằng phía
nam kiếm mồi, thì là chuyện tất nhiên, nếu không, chết đói sao, và làm
sao giải được lời nguyền Tiên Rồng?
Cái cú Mẽo vô Việt Nam
có gì tương tự với cái cú Nga nhảy vô Georgia vừa rồi,
theo nghĩa, chính chúng ta hiện nay cũng chưa biết, ai lừa ai. Phe Nga,
hay phe
Âu châu, đằng sau có Mẽo. Vừa đụng vô một cái là bao nhiêu nước ngày
trước là
chư hầu của Liên Xô, cùng đứng đằng sau Âu châu, chống lại Nga.
Thành thử khó nói lắm. Theo Gấu,
đúng là Mẽo bị VC xúi vô Việt Nam,
và đây là cơ may ngàn đời của MB để thống nhất đất nước, với cái đầu là
Hà Nội.
Vụ thống nhất lần trước, là do Gia Long, và ông này lấy Huế là kinh đô.
*
Con người là con vật kinh tế,
châm ngôn của Marx áp dụng vô Việt Nam đúng ngay chóc. Những
cuộc nam tiến trong lịch sử Việt Nam cho thấy, đây là con đường tất
yếu, biện chứng, và
khi có mảnh đất Đàng Trong, giấc mộng bị tắc, thì phải xẻ dọc Trường
Sơn
thôi. Đào Hiếu không hiểu chiến hữu của ông ăn phải thứ gì mà gen bị
đột biến,
biến thành ruồi, cái sự biến thành ruồi, là do cuộc chiến đấu thần
thánh chống
Mỹ cứu nước kéo dài lâu quá! Cái đám ở rừng về thành, đói lâu quá, thấy
gì cũng thèm,
ngoài ra, lại vỡ mộng, vì những lý tưởng toàn là láo khoét, ta bị lừa
ta bị lừa!
DTH kêu lên. Thành ra, DTH, quá ngoại lệ, bà tiếp tục cuộc chiến thần
thánh
Chống Đảng cứu nước, tất cả đám còn lại, thằng nào con đó, cố đớp, thật
nhanh, thật nhiều. Cái sự nói dối,
để chiếm Miền Nam,
khi bị bể ra, thì cái họa của nó không thể lường được. Không chỉ Miền Nam là
nạn nhân,
mà cả thế giới cũng đều là nạn nhân của giấc mộng sáng ngủ dậy biến
thành Mít!
Giá mà cuộc chiến chấm dứt
mau chóng, bầu nhiệt huyết còn dư, cơn đói cũng chưa khủng khiếp, thì
may ra…
Tôi
viết hồi ký chủ yếu là do
nhu cầu giải toả cho bản thân, thế thôi. Con người ta có một khoái thú
là được
décharger khỏi bản thân mình một « gánh nặng » nào đấy về trải nghiệm,
về tâm
tư v.v... Vì thế tôi viết hồi ký chủ yếu cho mình và một số người thân,
không
hề có ý định công bố bằng bất cứ phương tiện thông tin nào. Vả lại, tập
hồi ký
chưa hoàn chỉnh, còn đang trên quá trình chỉnh lý, sửa chữa (kể cả bài
về
Nguyễn Khải).
NDM
Giải toả cái kiểu này ư:
Nguyễn Khải cũng kể lại,
hôm
ấy anh ngồi chủ tịch đoàn. Có một cậu nói nhỏ với anh: “Ông Lành đang
nói sao
cậu lại cười?” Khải sợ quá, vội chối: “Không, răng tôi nó hô đấy chứ,
tôi có
dám cười đâu!”?
Tôi
đã chứng kiến Nguyễn Đình
Thi sợ ông - Tố Hữu - như thế nào, tôi ví như con cua co dúm người lại
trước
con ếch?
Thảo nào, D.
H. Lawrence khuyên:
"Đừng bao giờ tin tưởng nghệ sĩ. Hãy tin câu chuyện kể".
Chức
năng chính hiệu của một phê bình gia, đó là cứu vớt (save) câu chuyện,
ra khỏi
nghệ sĩ, kẻ tạo ra nó.
Bạn đã đọc Don Quixote chưa?
Đừng
tin nhà văn.
NQL phán: “Ngu gì lấy văn để
chỉ trích người khác”.
Nhưng, trong truyện, ông lôi
tên cúng cơm của bạn ra để chửi, không phải bạn ông, mà là nhà nước
|
|