Ghi
1
|
Cái sự tắc đẻ của
nhà văn Mít,
quả cũng có liên quan đến vốn đọc, vốn sống - đây là vấn nạn muôn đời
của nhà văn,
của sáng tạo - nhưng trên hết, những nhà văn Mít của chúng ta không
muốn viết dưới
ánh sáng của Đảng nữa, nhưng lại không thể kiếm ra một thứ ánh sáng nào
thay thế
cho nó, theo như Gấu cảm nhận.
Tất
cả những tác phẩm nổi lên
được, ở trong nước, những năm gần đây, chỉ tính từ cuối cuộc chiến, đều
có tính
xé rào, thí dụ, Nỗi buồn chiến
tranh,
và tiếp nó, Tướng
Về Hưu. Hết
chiến
tranh, lấy sex làm ánh sáng chỉ đường, thay cho Đảng.
Paz
có lẽ là người nhìn thấu đáo
hiện tuợng này, khi nêu lên vấn đề hết sức khẩn trương, và hết sức quan
trọng:
cần xoá sạch, xua tan, sự lầm lẫn giữa nghệ thuật tập thể, the communal, hay collective
art, và
nghệ thuật nhà nước, the
official art.
Trong bài Thơ, Xã hội, Nhà nước, ông viết: nghệ
thuật
tập thể được gợi hứng từ niềm tin và tư tưởng của xã hội, thứ kia, là
con cờ
trong tay nhà nước [art subjected to the rules of a tyrannical power].
Những tư
tưởng đa dạng, những ý hướng tinh thần - sự thờ phụng polis, Ky tô, Lãng mạn,
Phật giáo, Hồi giáo… đã được nhập thân
[incarnated] vào những nhà nước và đế quốc quyền lực. Nhưng chớ bao giờ
cho rằng
nghệ thuật Gothic, Lãng mạn… là những sáng tạo của giáo hoàng. (1)
Chúng
ta chưa có thứ nghệ thuật của chúng ta, của "thời của Chúa Sẩy Thai".
(1)
There is nothing more urgent
than the need to dispel the confusion that has been established between
the
so-called "communal" or "collective" art and the official
art. One is art that is inspired by the beliefs and ideals of a
society; the
other, art subjected to the rules of a tyrannical power. Diverse ideas
and
spiritual tendencies-the cult of the polis, Christianity, Buddhism,
Islam, and
so on-have been incarnated in powerful states and empires. But it would
be a
mistake to regard Gothic or Romanesque art as creations of the papacy,
or the
sculpture of Mathura
as the expression of the empire founded by Kanishka. Political power can
channel, utilize, and - in certain cases - stimulate an artistic
current. It can never create it. What is more: In the long run it
generally has
a sterilizing effect. Art is always
nourished from the social language. That language is, likewise and
above all, a
vision of the world. Like the arts, states live by that language and
sink their
roots in that vision of the world. The papacy did not create
Christianity, but
the other way around; the liberal state is the offshoot of the
bourgeoisie, not
the latter of the former. The examples can be multiplied. And when a
conqueror
imposes his vision of the world on a people - for example: Islam in Spain - the
foreign state and its whole culture remain as alien superimpositions
until the
people have truly made that religious or political conception their
own. Only
then, that is to say: when the new vision of the world becomes a shared
belief
and a common language, will there be an art or a poetry in which
society
recognizes itself. Thus, the state can impose one vision of the world,
prevent
others from emerging, and exterminate those that obscure it, but it
lacks the
fecundity to create such a vision. And the same thing happens with art:
the
state does not create it, it can hardly encourage it without corrupting
it and,
more frequently, as soon as it tries to utilize it, it deforms it,
suffocates
it, or converts it into a mask.
Octavio Paz:: The Bow and the Lyre
[phần Phụ lục, Appendix]
Cái câu Gấu gạch đít, thật đúng với tình trạng văn chương thời "Đường
ra trận mùa này đẹp lắm", nhưng khi vỡ mộng, Con Bọ VC xuất hiện, thì
tắc đẻ là quy luật, là biện chứng, là tất yếu, là tất nhiên thôi!
*
Nhưng, khủng khiếp hơn hết, là,
cái sự tắc đẻ đó, nó liên quan tới cái gọi là Đạo Viết Văn. Và cái đạo
viết văn,
thì nó lại liên quan tới một tấm lòng nhân hậu.
…
Khó
nhất, là làm sao có được
một tấm lòng nhân hậu, để viết về Cái Đại Ác, bởi vì nếu không có, là
thể nào
cũng bị tẩu hoả nhập ma. Chúng ta lại gặp Kim Dung ở đây, khi ông đặt
câu hỏi,
tại sao Phật Pháp lại rong ruổi với Võ Công, tại sao chỉ có một mình
Đạt Ma Tổ
Sư là thành thạo 72 tuyệt kỹ võ công của Thiếu Lâm. Đạo càng cao, tuyệt
kỹ càng
cao, tuyệt kỹ càng cao thì mới dám đụng vào những đề tài chết người,
chết cả
mình, như Cái Đại Ác !
Viết
tới đây, lại nhớ đến
những ông nhà văn đi ăn cắp của người mà cứ muốn tác phẩm ăn cắp của
thiên hạ
đó biến thành một thứ Chiến Tranh và
Hoà Bình của Việt
Nam, hàn gắn vết thương
lủng bao tử, lủng trái tim, lủng lục phủ ngũ tạng của cả hai miền.
Cuốn
của Littell hiện cũng
được coi là một Chiến Tranh và Hòa
Bình, chính là ở đề tài, ở cái tâm của người
viết. Đây cũng là điều Jérôme Garcin, trên Người Quan Sát Mới, số 24-30 Tháng
Tám 2006, nhận ra khi viết về "trạng thái thanh thản trong tâm hồn"
của tác giả. Phải có sự thanh thản như thế, mới dám đụng vào một đề tài
khủng
khiếp đến như thế: Cái Ác Lạnh.
*
Nhân
đây, xin lạc đề một tị,
nói về đạo càng cao tuyệt kỹ càng cao. Không có tuyệt kỹ là không có
văn chương,
chỉ có thứ xém một tí. Nhưng đạo cao đến đâu, tuyệt kỹ theo tới đó, tới
một lúc
không còn tuyệt kỹ nữa ! Chính vì thế mà những câu thơ, câu văn thần,
là những
câu thật là bình thường, giản dị. Cái này chính là vô chiêu mà Kim Dung
nói
tới.
Gấu
này đoán, ông ngộ ra điều
này nhờ thiền. Một bài học thiền nhiều người biết, là, trước khi thiền,
thấy
rừng là rừng cây là cây, đang thiền, thấy rừng không phài là rừng, cây
không là
cây, ngộ thiền rồi, thì lại thấy rừng là rừng, cây là cây.
Nói
rõ hơn: Cái Bình Thường
là Đạo.
*
Gấu mới được coi một
phim của
Nhật, The Hidden Blade. Đề
tài của nó, cũng có gì tương tự tới đạo và tuyệt kỹ.
Có hai kiếm sĩ cùng học một thầy, một ác, một thiện. Tay
ác võ công cao hơn. Ngay khi đang học, thầy đã đoán ra, sau này, hai
thằng thể
nào cũng đụng độ, và giấu đi một tuyệt chiêu, không dậy.
Sau
quả nhiên đụng độ thực,
và anh thiện, trước trận đụng độ, trở về gặp thầy, học chiêu võ công
thầy vẫn
để dành cho mình, thắng anh ác, rồi, trả thù cho anh ác luôn, vì anh
này cũng
bị lừa mà trở thành kẻ giết người. (1)
Điều
Gấu này muốn nói, cái
chất thiện đó, mới là cần. Tuyệt kỹ, học lúc nào mà chẳng được.
Có
tay triết gia thời Hy La
thì phải, bị kết án tử, chỉ còn vài ngày là rụng đầu, vậy mà còn muốn
học thổi
tiêu [?], nữa là !
Nhật
ký
(1) Có tới hai
tuyệt chiêu, ở trong phim. Một rất nổi tiếng, nhưng giang hồ chỉ nghe
tên. Hình như là Móng Chim Ưng.
Tay kiếm sĩ "chính diện" sử dụng chiêu này để trả thù cho bạn
Bạch Hổ: The White Tiger
Tác
giả Aravind Adiga
Trong
khi chê thậm tệ cuốn của
Rushdie, "The Enchantress of Florence," trước khi ban giám khảo Man
Booker quẳng vô thùng rác, tờ Người Kinh
Tế, số 13 Tháng Chín, 2008, lại khen nức nở một trong sáu cuốn lọt
vào danh
sách chót, của một tác giả mới toanh: Aravind Adiga.
What a singular voice he has! Giọng văn mới
đặc biệt làm sao!
Và qua bài điểm,
cuốn sách quả
là bảnh thật, và còn hơn thế nữa: có vẻ như cũng có một con bọ ở trong
đó: rằng
nghèo đói tham những quá là nguồn cơn sinh ra quái vật.
Với
Mít, ngược lại!
*
The Economist September 13th
2008
New
fiction
His
master's voice
The
White Tiger. By Aravind
Adiga. Free Press; 321 pages; $24. Atlantic;
£12.99
PLOUGHING
through a novel a
day for nearly six months, the judges of the Man Booker prize, Britain's
premier award for fiction, quickly make two discoveries: that most
books start
well and then sink halfway through, and that almost all the novels soon
sound
the same. So a new voice is as welcome, and as rare, as a fine ending.
Which is
why all five judges wanted Aravind Adiga's first novel to be on this
year's
shortlist, announced on September 9th. And what a singular voice he
has.
"The White Tiger"
takes the form of a series of letters to WenJiabao, the Chinese
premier. Balram
Halwai, the Bangalore businessman
who writes the
letters, wants to tell the Chinese premier something about how life
really is
in India: not the
pink sari
of the tourist trail (pink is India's
navy blue) or the sentimental imagery of the poor, doe-eyed children.
Baham believes
that poverty is so corrupting it produces monsters; he should know for
he is
such a monster himself.
The
son of a poor
rickshaw-puller who is taken out of school as a boy and put to work in
a
teashop, Baham nurses dreams of escape. He finally gets his chance when
a rich
village landlord hires him as a chauffeur for his son, his
daughter-in-law;
Pinky Madam, and their two Pomeranian dogs, Cuddles and Puddles.
The
family moves to Delhi.
There, amid the
cockroaches and the call centres, the 360,000,004 gods, the shopping
malls, the
brown envelopes and the crippling traffic jams, Balram learns about
modern India,
where
the air is so bad that it takes ten years off a man's life unless he
drives
round in an air-conditioned car. "The cars of the rich go like dark
eggs
down the roads of Delhi.
Every now and then an egg will crack open-a woman's hand, dazzling with
gold bangles,
stretches out of an open window, flings an empty mineral water bottle
onto the
road-and then the window goes up, and the egg is resealed."
As
Baham's education expands,
he grows more corrupt. Yet the reader's sympathy for the former tea-boy
never
flags. In creating a character who is both witty and psychopathic, Mr
Adiga has
produced a hero almost as memorable as Pip, proving himself the Charles
Dickens
of the call-centre generation.
|
|