Chân
Dung Nhà Văn
Lời
Bàn: Gấu, Nhà Văn
Nhân Vật Lịch sử
CHÂN DUNG CÁC NHÀ VĂN
Tác Giả - Tác Phẩm
1. Hồ Phương
Trên biển lớn mênh mông sóng
nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra
xem.
2. Nguyễn Đình Thi
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng
chờ.
3. Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm cầm thuyền
ai
Miền tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài
đảo hoang.
4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên thế
Con hổ già uống rượu giả vờ
say
5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm
thôi
Bới tung đống rác nên trời
phạt
Trời phạt chửa xong bác đã
cười.
6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời đâu dễ
quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền
lên
Chén rượu tình rừng cay đắng
lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.
7. Huy Cận
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gày quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy
hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao
đâu!
8. Xuân Diệu
Hai đợt sóng dâng một khối
hồng
Không làm trôi được chút phấn
thông
Chao ơi ngói mới nhà không
mới
Riêng còn chẳng có, có gì
chung.
9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng
Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa
sầu.
10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu
tàn
Ta nghĩ tới vàng son từ thuở
ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn
gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay
đổi
sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ,
ai dám bảo con tầu không mộng
tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một
vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu, ta cũng
uống
Mặt anh em trong suối cạn
Hội nhà văn
11. Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt
người
Chia ly đôi bến cách phương
trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nổi đời.
12. Kim Lân
Nên danh nên giá ở làng
Chết về ông lão bên hàng xóm
kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì
miếng ăn.
13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước
ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi
xuôi.
14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao
một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn
mừng.
15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi
trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho
đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân
tình
Giật mình mình lại thương
mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình
cũng tan
16. Vũ Tú Nam
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ
đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng
chào:
Văn Ngan
17. Hữu Mai
Hỏng
đôi mắt phải đâu là mất
hết
Trong
cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông
cố vấn chẳng sợ gì cái
chết
Cao
điểm cuối cùng quyết chí
xông lên.
18. Đỗ Chu
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò
19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chòi biếc lúc nào
không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây
bạch đàn
20. Phạm Tiến Duật
Trường sơn đông em đi hái
măng
Trường sơn tây anh làm thơ
cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không
kính
Thế đấy! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!
21. Nguyễn Thành Long
Thao thức năm canh nghĩ chẳng
ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi
mà
Lặng lẽ giữa khoảng trong
xanh ấy
Để mối đùn lên đến lúc già.
22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc đâu rồi mất cả tên
23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên
giàn
mồng tơi
Trăm hoa thân rã cành rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi
làm mồ.
24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu
đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U
minh.
25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên
phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng
Xà nu
26. Vũ Thị Thường
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị
ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời
phải chăn
27. Quang Dũng
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh
lắm
Sống tạm cho qua một kiếp
người
Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng, Ba vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
“Sông Mã gầm lên khúc độc
hành”
28. Mai Ngữ
Tưởng chuyện như đùa hoá ra
thật
Biết ông sòng phẳng tự bao
giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ
29. Nguyễn Khải
Cha và con và... họ hàng
và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương
ăn
Họ sống chiến đấu càng khó
khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong
mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay
gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại
dát
30. Hoàng Trung Thông
Đường chúng ta đi trong gió
lửa
Còn mơ chi tới những cánh
buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa
thành
cơm
31. Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu
súng
Cái ghế quan trường giết
chết
thơ.
32. Thanh Tịnh
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương
giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng
gió bay.
33. Chu
Văn
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa
lên
mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mới kéo cày cho
xong.
34. Ngô Tất Tố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên
viên
Chia xôi chia thịt lại chia
quyền
Việc làng việc nước là như
vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.
35. Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn sao vẫn đợi chờ
tương lai
Thương cho Thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say
Chí Phèo.
36. Xuân Thủy
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Vonga
Trên đời kim cương là quý
nhất
Thứ đến tình thương dân
nghèo
ta
Em chớ chê anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honđa.
37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.
38. Nguyễn Khoa Điềm
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à...
39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời
tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm
đày kho.
40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một
đời.
41. Xuân Thiều
“Đôi vai” thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng con đường
cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của
em.
42. Nguyễn Thị Như Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong
rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn
thua
Xác xơ mầu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa
suốt ngày.
43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa
con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn
giấc mơ.
44. Nguyễn Thế Phương
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bến cũ chẳng còn ai.
45. Vũ Trọng Phụng
Đã qua đi một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân
tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận
bây giờ.
46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình
vườn
dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu
vẫn thèm.
47. Đào Hồng Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc hẳn là trúng nghị viên
thôi.
48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt
Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi
dậy
Ông biến thành thằng nộm
hình
rơm.
49. Hoàng Văn Bổn
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa
trồng
ngô
Lại gieo hạt bông hường bông
cúc
Trên mảng đất này hoa héo
khô.
50. Phù Thăng
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan
hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn
trong vây.
51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay
52. Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là
núi
đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi
đừng sang
53. Phan Tứ
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng
làm
chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi
anh.
54. Nguyễn Huy Tưởng
Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà.
55. Thu Bồn
Chim Chơ rao cất cánh ngang
trời
Tình như chớp trắng cháy
liên
hồi
Đám mây cánh vạc tan thành
nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.
56. Bùi Hiển
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ an khô cằn
Bao nhiêu năm “nằm vạ”
Trước cửa hội nhà văn.
57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.
58. Nông Quốc Chấn
Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận
nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là hồ
Tây.
59. Thế Lữ
Với tiếng sáo thiên thai dìu
dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn
hơi.
60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng trời
khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời
bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người
về đâu?
61. Phạm Huy Thông
Nếu Trương Lương không thổi
địch sông Ô
Liệu Hạng Vũ có lên ngôi
hoàng đế
Nhưng buồn thay đã đánh mất
Ngu Cơ
Đời chẳng còn gì, và thơ
cũng
thế.
62. Giang Nam
“Xưa tôi yêu quê hương vì có
chim có bướm”
“Có những ngày trốn học bị
đòn roi”
Nay tôi yêu quê hương về có
ô
che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu
thơ vui.
63. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi đến
Mây che một khung trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc vàng
Trăng mài mòn canh thâu
64. Nguyễn Trọng Oánh
Một chút hương thơm trải bốn
mùa
Mười năm lăn lội chốn rừng
già
Quay về không chịu ơn mưa móc
Đất nắng mưa rồi đất lại khô.
65. Nguyễn Xuân Sanh
Xưa thơ anh viết không người
hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã
hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng
gà.
66. Thâm Tâm
“Người đi, ờ nhỉ, người đi
thật”
Đi thật nhưng rồi lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái
tê.
67. Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có
tướng
Nên về hưu vẫn phải chết tại
chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu
giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu
đau thương.
68. Phùng Quán
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác ở trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao.
69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn
trượng
Mắt trông về tám hướng phía
trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng
nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở
đây.
70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm chi não
lòng
Chuyện tình kể trước lúc
rạng
đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không
tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng
ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta
với
mình.
71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới
thành phố
Bị lạc đường về hội nhà văn
Ờ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trên một
chiếc
xe tăng.
72. Trần Bạch Đằng
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh
mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời
mộng mơ
73. Nguyễn Duy
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu
gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân
tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi
sao dời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời của tôi.
74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước biển
Cù lao Tràm kia rồi
Nhưng khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.
75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ mày ra tay
76. Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông
hỡi
chàng.
77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!
78. Vũ Quần Phương
Anh đứng thành tro... em có
biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng trăng
cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.
79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuốm tím cuộc đời dài đến
thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tìm mãi nghìn
chiều
hoang
biền
biệt
80. Lý Văn Sâm
Kiên Trì dấn bước đường
chinh
chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê
lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.
81. Tản Đà
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo
tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một thời
bơ vơ
Tiếc chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ
bán
văn.
82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết?
83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở
đâu?
84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi
85. Văn Cao
Thiên thai - từ giã về dương
thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi
tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca
86. Ma Văn Kháng
Khi xuôi anh mang theo
Đồng bạc trắng hoa xòe
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
Năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
Vì giấy giá thú chửa làm xong
87. Vũ Bảo
Sắp cưới bỗng có thằng phá
đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đàu chày đít thớt đâu còn
ngán
Không viết văn thì ông viết
phim.
88. Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều khói
thuốc bay
Quê nhà vẫn lẩn khuất trong
mây
Lui về ký ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không
dám
say.
89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ... Ngọc
Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng
vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc
thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông hà tái nhợt
môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh
lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc
Tường ơi!
90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay
mười hai cũng
mặc
Chẳng ai dung thiên số đất
này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.
91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi về
xoay khối vuông Ru bích
Đoán vận rủi may
Thưa quý vị, xin mời!
Xanh tím trắng đỏ vàng đều
rõ
hết
Ta cùng vào cuộc chơi.
Không gian bốn năm chiều,
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật giả
trắng đen
“Tôi như cục xà bông thứ
thiệt”
Cứ đổ rượu vào
hình
quý vị sẽ
hiện lên.
92. Trần Dần
Người người lớp lớp
xông
ra trận
Cờ đỏ
mưa
sa
suốt
dặm dài
Mở đợt phá khẩu
tiến
lên
nhất
định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè
nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng
hải đài.
93. Khương Hữu Dựng
Ba lô trên vai từ đêm mười
chín
“Một tiếng chim kêu sáng cả
rừng”
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ già
Khương?
94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên
Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu
dưới
cờ
Lại xung phong vào Nam
đánh giặc
Với bà cụ đào hầm đầu bạc
phơ
phơ
Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu thân thể mang đày thương
tích
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao1
95. Ý Nhi
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài
chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang
thì chùng.
96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng
trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng xưa đã lớn, phải chong
đèn dầu
97. Phan Thị Thanh Nhàn
Dấu một chòm thơ trong chiếc
khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao
tặng
Những kẻ phong lưu, những
tên
du đãng
Mấy ai biết hương thầm của
cô
gái xóm đê.
98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca
hát
Hát thành thơ như nước triều
lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên
đi
giữa
“Biển một bên và em một bên”.
99. Hoàng Lại Giang
Người đàn bà một thời tôi ao
ước
Trên vành đai Mỹ những năm
xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký
ức
Nhưng còn đây tàn lụi đến
bao
giờ?
100. Xuân Sách (Tự họa)
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa đình Bảng người du
kích
Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt
mỏi
Lối vào lửa sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cụm đường rách tả tơi.
Lời
cuối sách
Tiếp
theo cuốn Thương nhớ tài
hoa của Nguyễn Vũ Tiềm, phác thảo chân dung của năm mươi nhà thơ, nhà
văn đã
quá cố, những cây bút có những đóng góp đặc sắc cho nền văn học của đất
nước,
hôm nay Nhà xuất bản Văn học gửi tới bạn đọc một tập hợp khác về chân
dung các
nhà văn.
Đây là
những kí hoạ có tính
đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và
ngoài giới
văn học suốt vài chục năm qua.
Tác giả
không nêu đích danh
ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả quan tâm tới văn học và
người
làm văn học, vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này
thường cố
ý phóng to các đặc điểm và khi nhìn vào nét đặc tả ấy - tuy mất cân đối
và đôi
khi phiến diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật.
Chất
vui, hóm và nhất là khả
năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng
cũng có
thể gây nên những sự không hài lòng đây đó...
Chúng
tôi chỉ coi đây là
những nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra
những xót
xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên những
chặng đường
quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua
cái nhìn
của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong
truyền
thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy
đi tới
phía trước.
Với ý
nghĩ ấy, chúng tôi mong
bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả
được
thần thái của từng chân dung.
Dù sao
đây cũng là 100 bức
tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng
trong
làng văn, trong bạn đọc bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình.
Rất
mong bạn đọc và các nhà
văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho
những
khiếm khuyết.
Nhà
xuất bản Văn học
Nguồn:
Theo bản in của Nhà
xuất bản Văn học, in tại nhà in Bộ Nội Vụ tháng 3 năm 1992, bản đăng
trên
talawas có sự đồng ý của tác giả.
Tâm sự
của Xuân Sách
Những
bài thơ chân dung các
nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hồi ấy bước vào
thập kỷ
60, tôi đang độ tuổi và mới từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ
quân đội
ở ngôi nhà số 4 Lý Nam
Đế, Hà nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra thời gian của chúng
tôi dành
nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới,
những
đường lối, chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước
mắt...
đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi
cả
tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học,
nhận
thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi
lên lớp
tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ, các
nhà văn,
các hoạ sĩ, nhạc sĩ... thường ngồi lập trung với nhau ở những hàng ghế
cuối hội
trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe
giảng về hai
phe, bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách mạng, về kiên trì, tăng cường,
nỗ lực,
quyết tâm... mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với
nhau những
câu chuyện tào lao hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm,
nuối vội
khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát
hiện, bị
nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi chuyển sang “bút đàm”.
Vào năm
1962 có đợt học tập
quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng
hoà bình
chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt
học này.
Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng
hắt lên
như thiêu như đất. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc
phải tề
chỉnh đầy dủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giẫy cao cổ nặng như
cùm.
Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ,
có cớ
chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai
hậu, ngồi
học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông
là người
biệt danh “quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều
được lau
bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy
dép
trừ... Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần.
Giờ đây
ngồi học được ưu tiêu đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.
Trong
buổi lên lớp căng thẳng
như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ
chữ Hán
trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi
chữ Hán và
tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng võ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo
tôi
dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi
chúng tôi
nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con đường văn chương
mới bước
vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi Vai”, tập
tiểu thuyết
“chuyển vùng” viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà
Thiều tham
dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua nhiều nhà xuất bản chưa “nhà” nào
chịu in.
Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất là hay và dịch:
Văn
nghiệp tiền trình khả
điếu quân
Mao đầu
tận lạc tự mao luân
Lưỡng
kiên mai hếu phong trần
lý
Chuyển
địa hà thời chuyển đắc
ngân
Dịch
nghĩa:
Con
đường văn nghiệp khá
thương cho ông
Lông
đầu ông đã rụng trơ trụi
Đôi vai
lầm lủi trên con
đường gió bụi
Chuyển
vùng đến bao giờ thì
chuyển thành tiền được?
Dịch
thơ:
Con
đường văn nghiệp thương
ông
Lông
đầu rụng hết thư lông
cái gầu
Đôi vai
gánh mãi càng đau
Chuyển
vùng nào nữa làm sao
thành tiền?
Dịch
xong tôi chuyển bài thơ
cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu còn mọi người
phải nén
cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén
đến nôi
mặt đỏ bừng và nước mắt dàn dụa.
Tự
nhiên trong đầu tôi lóe
lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung!
Trong bài
thơ của Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng
cách dùng
nghĩa kép của tên tác phẩm: “Đôi Vai” “Chuyển Vùng”. Và sau chốc lát,
tiếp tục
trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và
bài thơ
số một về chân dung các nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả
in nhiều
tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi
dùng
tên các tập truyện của anh: “Trên biển lớn” “Xóm mới” “Cỏ non” và tên
cái
truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến: “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra
mẫu giấy:
Trên
biển lớn lênh đênh sóng
nước
Ngó
trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non
nay chắc đã già
Buồn
tênh lại giở thư nhà ra
xem
Tôi đưa
bài thơ cho Nguyễn
Khải.
Anh đọc
xong trên mặt có
thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi,
anh bỏ
bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng
tôi ra
ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương
đọc. Mặt
Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như
cách sỗ
sàng của anh:
-Thằng
này (chỉ tôi) ghê quá,
không phải trò đùa nữa rồi!
Tôi hơi
hoảng, nghĩ rằng đó
chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa
thông thường
bài thơ còn chạm vào tính cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn
thì có
gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý Hồ Phương có
viết
nhiều chăng nữa văn không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ: “buồn
tênh lại
giở thư nhà ra xem...”
Trước
đây khi còn là lính ở
địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy
là những
con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến dường như họ là
một siêu
tầng lớp trong xã hội. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều có
thể trở
thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng
phán xét thông
thường. Tóm lại đó là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê
văn học
và tập tễnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà nội vào một
cơ quan
văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có một vị trí đặc
biệt
trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế giới
mà
trước kia tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước
đây thì
thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường,
cái mặt
rất chúng sinh và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm
và tính
cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu
“vẽ” được
chính xác những bức chân dung đó, thì bộ mặt xã hội của thời dại họ
đang sống
cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn
các nhà
văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn.
Những
điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài khi những bài thơ chân dung
lần lượt
được ra đời, được phổ biến một cách không chính thức nhưng sâu rộng và
dai
dẳng, vượt cả sự mong muốn của tôi. Cũng chính các nhà văn giúp tôi
nhiều trong
sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận định về tính cách
con
người, tính cách các nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn.
Người giúp
tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong
giới, có
lối nhận xét người rất sắc sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh
không mấy
thích thơ, nhưng anh lại thích những nhà văn chân dung. Anh có nói đại
ý là các
nhà văn chúng ta quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội
thì
cũng cần tự đánh giá mình, cũng đều có cái tốt cái xấu như ai. Về sau
thêm anh
Vương Trí Nhàn về Văn nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này
hết sức
cổ suý tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái
phòng
“toilet” khoảng ba mét vuông, do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng
nên cái
phòng vệ sinh đó biến thành phòng văn. Nó được ốp gạch men trắng bóng,
lau sạch
ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài ba
điếu thuốc
lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay
tại chỗ.
Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: “Những bài thơ này ông
Sách
viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng
điệu khác
hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung. Nhàn là người rất
thuộc thơ,
và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là người phổ biến rộng rãi.
Một số
anh em trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem
những bài
thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói đó là “nhuận bút”
đầu
tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về người phát hành.
Tất
nhiên những bài thơ đó
được phổ biến rộng trong giới. Lúc dầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành
công
khai và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những liên
hoan của
anh em văn nghệ. Có một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn, khi vào tiệc
rượu,
mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về các nhà văn có mặt, trong không khí
như vậy
thì dù các anh các chị ấy có giận cũng cười xoà làm vui. Riêng tôi thấy
mình làm
được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao. Tôi nhớ sau buổi vui, anh
Nguyễn
Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là
châm chọc
nhau. Ngay đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: “châm chọc cũng cần có
tài và
có ích lắm chứ “
Những
bài thơ cũng được lan
truyền sang các giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm
Tổng cục
chính trị, cấp trên của giới văn nghệ trong quân đội, ông rất thích
những bài
thơ chân dung, thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ
ông đề
nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân nhưng rất
hay cho
tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời,
có khi
bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được
những ứng
xử những lính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường
ngưỡng
mộ tôi cứ băn khoăn tự hỏi: “Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm thư thế,
với vị
trí trong xã hội như thế, trong lòng ngườí đọc như thế, sao họ còn ham
muốn
những thứ phù phiếm đến thế một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi
nước
ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải
sợ hãi”.
Một lần trên báo đăng một bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết
theo
thời tiết chính trị, quay ngược lại với những điều vừa viết chưa lâu,
Nguyễn
Khải chỉ bài thơ nói với tôi: “Rất tiếc một tài năng lỡ tàu!”
Tôi
không nghĩ mình đứng ra
ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắt thứ hai trong một bài thơ để
tự bạch,
tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính
phục tài
thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác.
Mỗi lần
gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối,
phải
chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu
phải vào
bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là
người có
tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng. Ông đề nghị
chữa một
chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua
tấm kính,
và các con ông oà khóc, tôi bỗng cảm thấy mình như người có tội.
Một lần
gặp Xuân Diệu trong
quán bia hơi, tôi nâng cốc bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ
của Viện
hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc:
- Chúc
mừng họ Ngô nhà ta,
những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử.
Điều
tôi không ngờ là cụ Đặng
Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ
nghe. Con
người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy ngồi đặt cầm lên đầu gối cười
khục khục.
Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi: “Thế còn Đặng Thai
Mai?” Tôi
lúng túng: “Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ thưa bác”. Dường
như ông cụ
không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến: “Anh viết về tôi rồi
chứ?” Trước
tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hoá
ra cụ
quan tâm thật sự khiến tôi vừa cảm động vùa thích thú. Nhưng biết sao
được,
viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.
Còn cụ
Nguyễn Tuân, con người
vốn thích đùa một cách... cao sang và thâm trầm thích ăn nem rán nóng
bỏng thì
gắp lên đặt xuống cái nem nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm”. Nói
về đồng
nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của
một thời.
Câu thơ: “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành
cơm” đâu
chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết tôi nghĩ, nhà văn là đại
diện của
một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời
đại mình
đang sống, không dễ nói hết nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng
cũng thật
đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quỳ
gối trước
quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết,
nếu có
nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỷ ám” nếu có thì cũng là ảnh hưởng của
những
cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc
đời cũng
như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.
Những
bài thơ chân dung đã có
cuộc sống riêng của không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu
truyền đến
đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị” nhiều bài ngoài luồng cũng
được gán
cho tác giả. Bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là
“một cái
gì đó” như có người đã nói nên mới tại được nếu nó có ích thì tác giả
cũng lấy
làm mãn nguyện.
Ngày
Xuân năm Nhâm Thân