2
|
Tạ Văn Tài
Giới thiệu sách Khi đồng minh tháo
chạy của GS Nguyễn Tiến
Hưng và bàn thêm về cuộc chiến tranh Việt Nam
Kỳ 1
I. Tác phẩm Khi đồng minh tháo chạy
Năm 1986, Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng [1]
(Phân khoa Kinh tế
Đại học Howard, Washington, DC.) cùng viết và xuất bản với ông Jerrold
L.
Schecter cuốn Palace File (Harper & Row Publishers), sau đó được
dịch ra
tiếng Việt với nhan đề Hồ sơ mật Dinh Độc Lập (HDMDĐL). Cuốn này hướng
trọng
tâm vào việc trình bày mối bang giao Việt Mỹ trong những năm cuối cùng
của
chiến tranh Việt Nam, nhất là những biến cố xoay quanh hoà đàm và Hiệp
định
Paris về chấm dứt chiến tranh Việt Nam, đặc biệt đưa ra những mật thư
giữa Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và các Tổng thống Mỹ Nixon và Ford, từ 1971 đến
1975,
xác nhận Mỹ cam kết yểm trợ mạnh mẽ cho Việt Nam Cộng Hoà (nhưng rút
cục lại bỏ
rơi). Dư luận chính giới và báo chí Mỹ hồi đó chú trọng đến và khen
ngợi giá
trị của cuốn sách (bản gốc tiếng Anh). Bộ trưởng Ngoại giao G. Schultz
và tờ
báo uy tín New York Times đưa cuốn này vào danh sách các tác phẩm mà
chính giới
và ứng cử viên Tổng thống Mỹ phải đọc.
Hiện nay cuốn sách trên không tái bản,
độc giả khó tìm được,
nhưng Giáo sư Hưng đã viết cuốn Khi đồng minh tháo chạy (KĐMTC) [2] .
Tác phẩm
KĐMTC căn cứ một phần vào các dữ kiện của HSMDĐL, nhưng đã đi xa hơn
nhiều.
Trong khi HSMDĐL được viết cho các độc giả quốc tế, nhất là những người
trong
chính quyền, báo giới Mỹ và các nhà nghiên cứu lịch sử, thì KĐMTC đào
sâu hơn
các bằng chứng hay dữ kiện cụ thể về những năm suy sụp kinh tế, quân sự
và
chính trị của tiểu quốc Việt Nam Cộng Hoà khi đại cường đồng minh Mỹ
tháo chạy,
sau khi đã bắt tay được với Trung Quốc. Trong khi HSMDĐL trình bày khá
nhiều
chi tiết và tài liệu về những bí ẩn trong quan hệ chính quyền và tại
hoà đàm
Paris mà có lẽ người Mỹ nào muốn thâm cứu lịch sử sẽ quan tâm đến, thì
cuốn
KĐMTC nhắm vào đại chúng, nhứt là người Việt, có lẽ ưa một cuốn sách sử
viết
theo lối kể chuyện, kiểu như cuốn của David McCullough về Tổng thống
John Adams
(đã thành một cuốn best-seller), để nghiền ngẫm về một giai đoạn lịch
sử rất
đau thương của miền Nam Việt Nam; họ đã trải qua một cuộc hành trình
đoạn
trường trong cuộc chiến tàn bạo, trong hoà bình bấp bênh và trong cuộc
di tản
hoảng hốt lên máy bay hay ra biển năm 1975 -trong thời gian miền Nam
Việt Nam
hấp hối, mà Ngoại trưởng Kissinger lại có lời nguyền rủa tàn nhẫn: "Sao
bọn chúng không chết sớm đi cho rồi?" (Nên ghi nhận là "Vua tình
báo" (intelligence czar) của Tổng thống Bush, trùm tất cả mười mấy cơ
quan
tình báo Mỹ, trong đó có CIA, là John D. Negroponte, phụ tá của
Kissinger hồi
đó, là người đã phản đối với Kissinger rằng đồng ý cho bộ đội Bắc Việt
ở lại
miền Nam là sẽ dẫn tới việc họ chiếm trọn miền Nam và như thế là bỏ mặc
đồng
minh. Bạn ông là Đại sứ Mỹ tại Liên hiệp quốc Richard Holbrooke nói
rằng, vì
thế mà Negroponte bị hạ tầng công tác trong hầu hết thập niên 70.)
Những người
Việt Nam vượt biên, vượt biển sau năm 1975, ở những đợt di tản sau,
cũng sẽ
thấy diện mạo mình trong cuốn này và sẽ có tài liệu cắt nghiã cho con
cháu mình
về lý do và nguồn gốc của chuyện mình bỏ nước ra đi. Những người Việt
Nam ở
phiá thắng cuộc năm 1975 cũng nên đọc để bớt tự hào, bởi vì trong cuộc
nội
chiến do hai khối cường quốc theo hai ý thức hệ đối chọi giúp cho hai
phiá của
dân tộc Việt Nam, thì một phía thắng cuộc vì lý do chính là cường quốc
của bên
thua, là Mỹ, tháo chạy, trong khi các cường quốc bên thắng, Liên Xô và
Trung
Quốc, vẫn yểm trợ tối đa vào năm 1975, mặc dầu trước đó, 1974, Liên Xô
còn chưa
tin là Bắc Việt Nam có thể thắng bằng quân sự nếu miền Nam có Mỹ yểm
trợ (theo
tài liệu Văn khố Đảng Cộng sản Xô Viết mới giải mật sau khi Liên Xô sụp
đổ ),
và Mao Trạch Đông dè dặt hơn khi nói với Phạm Văn Đồng là cái chổi ngắn
không
quét xa được. Quân viện của Trung Quốc đã tới miền Bắc từ lâu (thí dụ,
xe tăng
T40). Thiết nghĩ, mỗi gia đình Việt Nam đều nên có một cuốn KĐMTC này.
Hơn cuốn
trước, cuốn KĐMTC còn nói đến những cố gắng vận động của Giáo sư Hưng
vào ngày
30 tháng 4. 1975 và những ngày sau đó về vấn đề định cư đồng bào di tản
Việt
Nam, lúc đó đang chạy tán loạn ra biển và đang cầu xin tạm cư tại các
trại tạm cư
(các chương 14-18).
Tác phẩm KĐMTC cho ta một số bài học
về một cuộc nội chiến
mang thêm hình thức một cuộc chiến tranh uỷ nhiệm (war by proxy) mà hai
phần
của một tiểu quốc, bên ít bên nhiều, đã thi hành và đổ xương máu chém
giết nhau
đến nỗi một cuộc nội chiến biến thành một cuộc chiến tranh quốc tế giữa
hai
khối do các cường quốc theo hai ý thức hệ đối lập tranh hùng. Một số
bài học
mà, qua sự trình bày các sự kiện của Giáo sư Hưng trong sách này, chúng
ta có
thể rút tiả sau đây, thì dĩ nhiên chỉ liên quan đến giai đọan suy sụp
của miền
Nam Việt Nam mà ông bàn tới, nhứt là các năm 1971-1975 (chứ không bàn
tới toàn
thể 30 năm, 1945-1975, trong đó có chiến tranh Việt-Pháp 1945-54 và sáu
năm hoà
bình 1954-1960), và cũng chỉ liên quan đến chiến tranh và hậu quả chiến
tranh,
chứ không bàn tới các chính sách nội bộ của hai miền Nam và Bắc Việt
Nam.
Nhưng các bài học đó chỉ có thể được
trình bày rõ ràng sau
khi đã liệt kê cho độc giả duyệt lại sơ qua các biến chuyển về cuộc sụp
đổ mau
chóng của Việt Nam Cộng Hòa, mà Giáo sư Hưng mô tả rải rác trong tác
phẩm này
cũng như cuốn trước của ông.
Năm 1972: Việt Nam Cộng Hòa đẩy lui
cuộc tấn công Quảng Trị
của quân đội Miền Bắc.
1973-1974: VNCH đẩy lui các cuộc tấn
công mạnh khác.
Hiệp định Paris 27/1/1973: ngưng bắn
da beo, quân đội Bắc
Việt ở lại Miền Nam (quân đội hai bên đang ở đâu thì đóng quân ở đó).
Mặc dầu
phản đối, nhưng vì áp lực của Mỹ, kể cả doạ đảo chánh mà ông Thiệu có
thể bị
hại giống như ông Diệm khi xưa, và vì tin vào cam kết trong nhiều mật
thư của
Tổng thống Nixon hứa sẽ yểm trợ tối đa bằng không lực chặn đứng mọi
cuộc tấn
công và hứa viện trợ vũ khí đầy đủ, ông Thiệu đồng ý ký Hiệp định.
Kissinger và
Lê Đức Thọ được phần thưởng Nobel Hòa Bình; Lê Đức Thọ không nhận!
Tổng thống Thiệu đưa ra khẩu hiệu "Bốn
Không", cho
lệnh sơn cờ vàng ba sọc đỏ trên mái nhà dân ở những vùng tranh giành.
Buổi họp mật ngày 6/12/1974 trong Dinh
Độc Lập kết luận là
sẽ có cuộc tổng tấn công trong năm 1975. Tướng Murray cũng báo Bộ Quốc
phòng Mỹ
như vậy.
Tháng 1/1975: Tỉnh Phước Long thất thủ
- tỉnh đầu tiên mất
trong 15 năm chiến tranh.
Ngày 24 và 25/1/1975, ông Thiệu viết
thư yêu cầu thêm quân
viện.
Tháng 2/1975: cuộc triệt thoái thê
thảm khỏi Pleiku. Tổng
thống Ford chỉ trả lời mơ hồ là sẽ có trợ giúp. Ông Thiệu cho Giáo sư
Hưng coi
một vài bức thư mật của Nixon hứa yểm trợ.
Ngày 20/3/1975, ông Thiệu cho Giáo sư
Hưng biết tình hình
hết sức trầm trọng với việc Bắc Việt gửi 5 trong 7 sư đoàn trừ bị vô
miền Nam;
như vậy họ có tổng cộng 19 sư đoàn với 1000 xe tăng và trọng pháo. Giáo
sư Hưng
khuyến cáo công bố mấy bức thư mật để tranh thủ Quốc hội và nhân dân Mỹ.
Nhưng trong buổi họp ngày 22/3/1975,
Chủ tịch Thượng viện
Trần Văn Lắm, Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn, và Ngoại trưởng Vương Văn
Bắc lại
khuyến cáo là chưa đến lúc "la lối om xòm", vì "sẽ bị buộc tội
là can thiệp vào nội bộ Hoa Kỳ". Ông Thiệu cũng nhắc lại là Đại sứ
Martin
khuyên nên vận động âm thầm với Tổng thống Ford. (Sau này, GS Hưng hỏi
lại, ông
Thiệu vẫn còn nghĩ là "Chính phủ Mỹ tự họ phải thông báo cho Quốc hội
biết; nếu mình tiết lộ, họ sẽ vin vào đó mà nói mình bội ước".)
Ngày 23/3/1975, Đại sứ Việt Nam ở Hoa
Thịnh Đốn chuyển về
một thư đề ngày 22/3/75 của Tổng thống Ford gửi Tổng thống Thiệu hứa
đại khái
"sẽ tìm cách thỏa mãn nhu cầu quân viện của ngài trên chiến trường".
Ngày 25/3/1975 Huế bị bỏ trống, quân
đội Miền Nam rút về Đà
Nẵng, ông Thiệu yêu cầu GS Hưng soạn thư gửi Tổng thống Ford xin can
thiệp quân
sự mãnh liệt bằng máy bay B-52 dội bom và cung ứng khẩn cấp phương tiện
để đẩy
lui cuộc tấn công, như Tổng thống Nixon đã hưá khi trước. Phó Đại sứ
Lehman
chuyển thư này qua đường điện về Mỹ. Tổng thống Ford không hồi âm. Đà
Nẵng thất
thủ.
Sau đó, Tổng thống Ford cử phái đoàn
tướng Weyand sang Sài
Gòn trong vòng 1 tuần để nghiên cứu và báo cáo. Khi được hỏi, những
người trong
phái đoàn Weyand hết sức ngạc nhiên không biết gì về lá thư cầu viện
khẩn cấp
ngày 25/3 trên. Trong buổi họp ngày 3/4 ở Dinh Độc Lập, họ cho biết là
có lẽ
Tổng thống Ford cũng không biết về các thư mật trước đây của Nixon nói
về việc
trả đũa mạnh mẽ các cuộc tấn công vi phạm Hiệp định Paris cuả Bắc Việt.
Lúc đó,
Tổng thống Thiệu hoàn toàn tin chắc là Kissinger đã giấu kín các mật
thư cam
kết từ thời Nixon. Sau này, trong thập kỷ 80, cựu Tổng thống Nixon gọi
Kissinger là "devious Kissinger" (Kissinger xảo trá) trong một cuộc
phỏng vấn truyền hình.
Ngày 5/4/1975, phái đoàn Weyand về tới
Mỹ gặp riêng Tổng
thống Ford được 5 phút trước khi họp với Kissinger và đưa ra 3 bức thư
cam kết
yểm trợ cuả Nixon. Ông Marbod trong phái đoàn Weyand kể lại là đọc xong
mấy thư
này, Tổng thống Ford rất xúc động.
Ngày 10/4/1975 Tổng thống Ford đã xin
tăng quân viện, nhưng
Quốc hội bác và bàn sang chuyện di tản khỏi Việt Nam.
Trong khi đó thì tình hình suy sụp mau
chóng, mỗi ngày mất
một tỉnh.
Mủi lòng trước cảnh sụp đổ của miền
Nam, Tổng thống Ford và
phu nhân ra phi trường San Francisco đón trẻ mồ côi từ chân thang máy
bay.
Chính phủ Mỹ quyết định cứu thêm người tỵ nạn.
Ngày 15/4/1975, theo lệnh ông Thiệu,
GS Hưng đi Washington,
mang theo 35 bức thư mật trao đổi giữa các tổng thống, để xin Mỹ cho
vay tiền,
thay vì bỏ phiếu chống viện trợ.
Trong các ngày 19 đến 21/4/1975, Quốc
hội Mỹ chống viện trợ,
dù số viện trợ xin đã giảm từ 722 triệu Mỹ kim xuống 300 triệu cho quân
viện và
170 triệu kinh viện.
Ngày 21/4/1975, Đại sứ Martin cố gắng
thuyết phục Tổng thống
Thiệu từ chức để dễ thương thuyết với Bắc Việt. Ông Thiệu từ chức tổng
thống và
Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay.
Ngày 23/4/1975 tại Đại học Tulane ở
Louisiana, Tổng thống
Ford tuyên bố là đối với Hoa Kỳ, chiến tranh Việt nam đã kết thúc và
Hoa Kỳ
không tham dự trở lại nưã. Ông không nói thêm gì về việc viện trợ nữa.
Tới ngày 25/4/1975, Tòa Đại sứ Mỹ ở
Sài Gòn mới chính thức
được phép nhận tạm dung (parole) 80.000 nhân viên so' Mỹ và 50.000
người Việt
Nam có "rủi ro cao độ". (Trước đó, ngày 14/4, Ủy ban Ngoại giao
Thượng viện đã bác bỏ việc di tản; và ngày 17/4/1975, Kissinger gửi mật
điện
cho Đại sứ Martin, nói là trong Ủy ban Liên bộ Đặc biệt, không có ai
ủng hộ
việc di tản người Việt.) Ở Sài Gòn, ông Von Marbod và một người bạn
khác của
GS. Hưng là Richard Armitage điện thoại cho GS Hưng ở Washington là đã
di tản
mẹ già và gia đình GS ra khỏi Việt Nam.
Tại Việt Nam, ngày 28/4/1875, Tân Tổng
thống Dương Văn Minh
lên thay cụ Trần Văn Hương, và gửi văn thư yêu cầu Mỹ triệt thoái nhân
viên
trong phái đoàn tuỳ viên quân sự.
Ngày 30/4/1975 Tổng thống Minh tuyên
bố đầu hàng quân đội
miền Bắc.
Tại Washington, cũng ngày 30/4/1975,
với sự giúp đỡ của Thứ
trưởng Quốc phòng Nutter (thày dạy của Gs Hưng tại Đại Học Virignia),
GS Hưng
tổ chức cuộc họp báo để công bố một số trong số 35 mật thư giữa Tổng
thống
Thiệu và các Tổng thống Nixon và Ford để nói rõ trách nhiệm cuả Mỹ đối
với dân
miền Nam Việt Nam và yêu cầu Mỹ đền bù những cam kết không thi hành
bằng cách
cứu vớt đoàn người di tản.
Ngày 2/5/1975, nhiều báo chí Mỹ và
quốc tế, đặc biệt tờ New
York Times và Washington Post, đăng tải cuộc họp báo và đặt ra các vấn
đề về
các mật thư. Tờ NYT đăng rõ lời tuyên bố cuả các nghị sĩ Quốc hội, kể
cả những
người xưa kia đề nghị cắt quân viện, họ kết luận rằng Hành pháp đã lừa
dối
chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và Quốc hội Mỹ về những điều Hoa Kỳ cam kết
với
Việt Nam, và rằng Quốc hội phải nhờ một quan chức ngoại quốc (ông Hưng)
mới
biết được những văn kiện quan trọng. Tờ Washington Post có bức hý họa
quy trách
cho Kissinger về việc giấu hồ sơ. Các phóng viên cũng an ủi là nghe
xong, họ có
thiện cảm với dân tộc Việt Nam.
Ngày 3/5/1975, Kissinger đổi thái độ.
Thông cáo của Ủy ban
Liên bộ Định cư Người Đông Dương thông báo là Kissinger đã yêu cầu Tổng
thống
Ford cho phép cấp quyền tạm dung (parole) cho 150.000 người Việt Nam và
Kampuchea. Tổng thống Ford chấp thuận và thông báo cho Bộ trưởng Tư
pháp thi
hành qua Sở Di dân.
Ngày 23/5/1975, Quốc hội Mỹ chấp thuận
ngân sách 405 triệu
Mỹ kim để định cư dân tỵ nạn, tuy rằng trước đó, ngày 1/5, Hạ viện đã
bác ngân
khoản 327 triệu.
Sau đó, GS Hưng được ông Von Marbod
mời tham gia ý kiến về
việc chọn địa điểm trại tạm cư cho đồng bào tỵ nạn Đông Dương. Các ông
đã cùng
đi xem xét một số trại: Fort Chaffee (Arkansas), Eglin Air Force Base
(Folorida), Indian Town Gap (Pennsylvania).
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Vài lời chú thích về tác giả cuốn
Khi đồng minh tháo chạy
Xin thêm vài lời về Giáo sư Nguyễn
Tiến Hưng, mà chúng tôi
hân hạnh được gọi là bạn và đã chia sẻ, khi còn là sinh viên cùng du
học tại
Đại học Virignia, những hoài bão của thanh niên Việt Nam yêu nước.
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng là một nhân
chứng lịch sử cho những
chuyện “thâm cung bí sử” trong bang giao Việt-Mỹ ở cấp cao nhất, giữa
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Nixon và Ngoại trưởng Kissinger
tàn bạo,
nham hiểm. Ông Thiệu và Đại sứ Martin đã qua đời mà không để lại hồi
ký, thành
ra chỉ còn Giáo sư Hưng, đã nói chuyện nhiều với hai người quá cố, mới
là người
ở trong vị thế trình bày được những ý nghĩ của hai người ấy về các biến
cố ở
miền Nam Việt Nam cho đến khi Mỹ tháo chạy.
Tuy Giáo sư Hưng viết sách với tư cách
là nhà học giả làm
nhân chứng, chú trọng đến những điều mắt thấy tai nghe, nhưng ông cũng
là một
nhà hành động yêu nước và thương dân tộc. Ông sinh tại Thanh Hoá trong
một gia
đình Thiên Chúa giáo thấm nhuần tinh thần bác ái. Trong thời niên
thiếu, ông
lại thấy cảnh dân nghèo chết trong nạn đói năm 1945, mà gia đình khá
giả của
Giáo sư cũng đã ra tay cứu giúp, được nhân dân trong tỉnh quý mến, giúp
ông cụ
thân sinh của Giáo sư thoát được thảm cảnh cải cách điền địa. Nguyễn
Tiến Hưng
du học tại Đại học Virginia, Hoa Kỳ, từ năm 1958, theo ngành kinh tế
học, là
một môn học mệnh danh là dismal science (khoa học ưu sầu) vì bàn về
phát triển
tài nguyên thiếu thốn để phục vụ nhân sinh. Có lẽ vì lúc trẻ như vậy mà
những
hoạt động của Giáo sư Hưng đều có tinh thần bác ái theo Thiên Chúa giáo
hay
tinh thần từ bi cứu khổ của Phật giáo. Khi gặp ông vào tháng 9/1960,
khi chúng
tôi vừa tới Đại học Virginia để theo Khoa Chính trị học, thì ông ân cần
thăm hỏi,
giúp đỡ và chỉ dẫn khi cần thiết, chở tôi đi thuê nhà trong chiếc xe cũ
Studebaker chạy "cà rịch cà tàng" trên đường phố. Tôi đã chứng kiến
cảnh sinh viên ban tiến sĩ ấy hoạt động trong Câu lạc bộ sinh viên nước
ngoài,
được các bạn gọi là "Ông Hưng xóc áo can thiệp" vì ông thích mặc quần
áo chỉnh tề để đi "can thiệp" giúp đỡ các sinh viên trẻ hơn, mỗi khi
họ gặp khó khăn cần giúp đỡ.
Ông giúp Tổng thống Thiệu trong cương
vị Phụ tá Tái thiết,
rồi Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển, theo đuổi mục đích xây dựng lại
nền
kinh tế bị chiến tranh tàn phá, cũng là theo đuổi mục đích xóa đói giảm
nghèo
cho dân tộc. Ý thức được việc hiệp thương với miền Bắc, xóa đói giảm
nghèo ở
miền Bắc Việt Nam có thể mang lại hoà bình, vì có thể bớt nhu cầu phải
xâm
chiếm vựa lúa ở miền Nam, ông đã khuyến cáo Tổng thống Thiệu, trong lúc
lo lắng
Mỹ bỏ rơi, là nên tái lập giao thương giữa hai miền Nam Bắc, tuy là hai
nước
Việt Nam nhưng cùng ở trong một thị trường, và nối lại đường hỏa xa Nam
Bắc.
Ông Thiệu đã nghe và nói tới đề nghị này trong bài diễn văn tuyển cử
ngày
1/10/1971. Giáo sư Hưng cũng trình bày chi tiết và cố vấn Tổng thống
Thiệu đề
nghị với Bắc Việt cùng nhau cộng tác trong Dự án Phát triển sông Cửu
Long như
một cách đẩy mạnh hơn chung sống hoà bình. Dự án này đã được Tổng thống
Johnson
tuyên bố ngày 7/4/1965 là đồng ý tài trợ một tỷ Mỹ kim (tiền hồi đó giá
trị
nhiều), vì nó giúp mang lại "cơm ăn, nước uống, và nguồn điện lực còn
lớn
hơn cả vùng thung lũng Tennessee Valley" quản lý bởi cơ quan Tennessee
Valley
Authority của Mỹ - lời tuyên bố này đã đẩy mạnh thêm nguồn cảm hứng của
Giáo sư
Hưng muốn đóng góp vào việc phát triển quê hương mình ngay từ hồi mới
đậu tốt
nghiệp đó.
Theo lệnh ông Thiệu ngày 14/4/1975,
Giáo sư đi Washington,
DC. cầu viện, nhưng đã quá muộn. Giáo sư đã đổi sứ mạng, vào ngày
30/4/1975,
sang việc vận động nhân dân Mỹ, từ báo chí đến Quốc hội đến Hành pháp,
để Mỹ
nhận cứu vớt người di tản từ Việt Nam, và đóng góp ý kiến vào việc chọn
các địa
điểm trại tạm cư.
Sau này, khi Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam đổi mới và
mở cửa hội nhập quốc tế và để cho nhân dân tự do hơn trong kinh tế thị
trường,
Giáo sư đã làm các công việc của Quỹ tền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế
giới trong
công cuộc chuyển đổi kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, thí dụ
phát
triển dự án "Bank on Wheels" (Ngân hàng lưu động), mang đến cho các
gia đình nông dân, đặc biệt là những gia đình nghèo nhất, trên cao
nguyên miền
Nam và tại vùng thượng du miền Bắc, số tiền vay 200 Mỹ kim mỗi gia đình
để tăng
gia sản xuất. Các gia đình nông dân, với số tiền nhỏ nhoi đó, đã làm ăn
thành
công và hoàn trả cả vốn lẫn lời. Vì công việc lợi cho dân, ông đã được
ngay
những người lãnh đạo cao cấp tôn trọng, mặc dù họ thừa biết ông đã là
một cố
vấn của Tổng thống Thiệu "Bốn Không" (vẫn nói không chung sống với
cộng sản).
Con người Nguyễn Tiến
Hưng, với lòng nhân, ưa giúp người dân
cùng khổ Việt Nam. Cuốn KĐMTC là một phương cách để ông vinh danh đồng
bào Việt
Nam di tản của ông, họ đã kinh qua những con đường rất đoạn trường,
cùng khổ,
để có ngày nay và tương lai xán lạn hơn.
[2]Nhà xuất bản Khi Đồng Minh Tháo
Chạy, 173 Silcreek Drive,
San Jose, CA,USA, 2005
[Trích talawas]
|