Diary
|
Vĩnh Biệt
Bạn Cờ
Bà Hảo cho rằng những gì mà
bà đã làm khi nói lên sự thật là điều tối thiểu mà một nhà văn phải làm.
Nguồn
Ít ra phải dzậy chứ!
Mạnh
ai nấy phá
21g ngày 31-12-2008, phần lễ
kết thúc. Ống kính truyền hình trực tiếp đóng lại. Các quan chức ra về.
Bộ phận
công an làm nhiệm vụ bảo vệ tháo dây giăng xung quanh khán đài, cho bà
con vui
hội có thể vào lễ đài thưởng thức những nét kiêu hãnh và tinh tế của
đôi rồng
chầu dưới chân tượng vua Lý Thái Tổ, do nghệ nhân Nguyễn Mạnh Hùng kỳ
công làm
suốt hơn một tháng trời. Tấn thảm kịch bắt đầu. Mạnh ai nấy vặt. Những
vảy rồng
được kết bằng những cánh hồng môn tơi tả. Cạnh đó, những chậu hoa cảnh
bày trên
sân khấu bị những con người ăn mặc rất thanh lịch thản nhiên... bê đi.
“Làm sao chúng tôi dám
làm...”
Phố hoa Hà Nội không phải chỉ
của nghệ nhân. Nó là tấm lòng của người yêu Hà Nội với thành phố của
mình.
Nhưng tình yêu không được đón nhận đúng mức mà còn bị hủy hoại thì tất
yếu nó
phải bị thui chột.
Một thành viên ban tổ chức
giọng khản đặc nói với chúng tôi qua điện thoại vào sáng 1-1-2009:
“Thành phố
ghi nhận thành công của phố hoa và yêu cầu chúng tôi giữ phố hoa thêm
hai ngày,
tức kéo dài đến 6-1 thay vì 4-1. Còn đề nghị chúng tôi làm phố hoa cả
tết âm
lịch. Nhưng như thế này thì làm sao chúng tôi dám làm, còn nhiệt huyết
đâu nữa
mà làm...”.
Những chiếc chuông
gió, lồng
chim... đang được cầm trên tay nhân viên ban tổ chức cũng bị cướp một
cách rất
thản nhiên. Một nhân viên bảo vệ phẫn nộ quá văng tục, người đàn ông
vừa cướp
chậu hoa rất đạo đức quay lại mắng: "Ăn nói vô văn hóa thế à!". Người
bảo vệ trẻ nghẹn ngào: "Anh mới là người vô văn hóa, anh dẫn con theo
mà
vẫn ăn cướp hoa giữa đường thế à?". Người đàn ông thản nhiên ôm chậu
hoa
dắt con đi thẳng
Không một bóng dáng công an
mặc sắc phục nào. Họ đã tản đi từ khi kết thúc phần lễ khai mạc. Chúng
tôi hỏi
ban tổ chức thì được biết: "Ðã có hợp đồng bảo vệ với công an thành phố
nhưng họ bảo chỉ bảo vệ an ninh trật tự, còn các nghệ nhân và ban tổ
chức phải
tự bảo vệ lấy tài sản của mình".
*
Miền
Nam cũng đã bị ăn cướp như thế.
Bệ
bài viết về Tin Văn, sợ bị delete liền!
Xin đọc trên Blog
mới
*
Và đứa con của
"người
đàn ông vừa cướp chậu hoa rất đạo đức" trong bài viết sẽ lại như bố nó
trong một lễ hội nào đó?
Đúng như thế. Những công tử Hà
Thành như Dart ngày nào, [vụ HTL], sau này sẽ tiếp tục làm như thế.
Làm sao nhân loại tẩy sạch được
Lò Thiêu?
Nhân loại phải nhờ đến chính
người dân Đức làm điều này.
Còn Việt Nam, cực khó, bởi vì
Cái Ác này là do Đỉnh Cao Chiến Thắng mà ra, trong khi người dân Đức,
họ cảm
thấy nhục vì vụ Lò Thiêu, vì nhục thất trận.
Giữa lòng đen
Note: Bài viết này, hay nhất là từ"
chấn thương"! Tác giả không thể viết thẳng như Gấu: Đây là hội
chứng hậu chiến tranh Việt Nam: Con người bây giờ ác quá!
Tay này, chuyên viết về cái ác "hậu hiện đại", nhưng không dám nói
thẳng ra như TGM Kiệt, thí dụ, thành thử cứ loanh quanh con người bây
người tha hóa quá.
J.M.G. Le Clézio : người lữ
hành nhân ái (Diễn Đàn 2-1-09) –
Muốn biết về Le Clézio, phải
đọc bài này của Đỗ Tuyết Khanh! Mà chỉ Đỗ Tuyết Khanh mới viết được
những bài
như thế này!
THD
*
Vừa vừa thôi!
Bài viết thì cũng chỉ là góp
nhặt những thông tin về Le Clézio, có cái gì là của riêng của người
viết đâu? Nó
bổ ích, nó rất tốt, như là một tài liệu, cho những ai chưa từng đọc,
chưa từng
biết gì về nhà văn Tây này, vậy thôi.
Làm sao giải thích được, tại
sao Le Clézio được Nobel, và trước khi đó, tay thư ký Nobel phạng cho
anh Mẽo một
cú, và sau đó, rũ đít ra đi, thì mới bảnh chứ! NQT
Nobel
cho Mẽo hả? Còn khuya!
Nobel 2008
Qui he?
A
report on the Publishers
Weekly website last Friday morning suggested that, on learning of the
award of
the Nobel Prize for Literature to J. M. G. Le Clezio, "even the most
literate of Americans must have said, qui?". Michael Coffey's comment
sounds dispiriting, but it is untrue. We have the evidence. Indeed, we
are the
evidence. Many of the most literate of Americans have received informed
comment
on the novels of Le Clezio from the TIS, since publication of his
debut, Le Proces-verbal, in 1963. John Sturrock
described it as "an attractively playful and intelligent beginning",
and suggested that Le Clezio might "one day produce something quite
remarkable".
Since then, the TIS has kept
literate folk up to date with Le Clezio's progress, reviewing many of
this
prolific writer's books, mostly in the original French. When Adrian
Tahourdin
provided a refresher course in April 2006, he did not omit to mention
that in France
"Le
Clezio has a reputation that has prompted talk of a possible Nobel
Prize".
By contrast, Mr Coffey's report had the effect of underlining the
much-derided
comment of Horace Engdahl, permanent secretary of the Swedish Academy,
that the
United States is "too insular" in cultural matters, that it
"does not participate in the big dialogue of literature" .
Le Clezio belongs to a group
of French writers - Patrick Modiano and Sylvie Germain are among the
others -
who fell into a gulf created by the unrelenting inwardness of the nouveaux romanciers. Although the early
novels were translated, readers found it difficult to keep up with his
experimentation and output (Mr Tahourdin mentioned fourteen titles, in
addition
to the book under review, Ourania).
By coincidence, Le Clezio's new novel arrived in this office two days
after the
prize was announced. Ritoumelle de la
faim will doubtless be translated into English and eventually
reviewed
widely, but literate Americans will have the chance to read an account
of the
original before then. None need ever say "qui?" again (we suspect few
did).
Giai thoại Qui est Ky ? [Kỳ
là thằng nào, câu của de Gaulle] chúng
ta đã từng nghe, khi Tướng Râu Kẽm tới Paris dự hòa đàm Paris. Bây giờ
đến lượt Mẽo hỏi, Qui he?,
khi Le Clézio được Nobel.
TLS đi một đường tự nâng bi,
chúng tôi đã từng viết về ông ta, ngay từ
cuốn đầu tay, và đã tiên đoán được cái chuyện ông ta sẽ làm được cái gì
đó.
Qui he? còn là do
cái gọi là tiểu thuyết mới mà
ra.
*
Qui he?
Trên tờ Lire, số mới nhất, tháng 11, 2008, đặc biệt về Le Clézio, ông
trả lời phỏng vấn: Tôi viết để cố gắng hiểu tôi là ai. "J'écris pour
essayer de savoir qui je suis", câu này đặc tiểu thuyết mới: Tôi viết
để hiểu tại sao tôi viết, 'thương hiệu' của nhóm.
Lucien
Goldmann, trong bài
viết "Tiểu thuyết mới và Thực tại", in trong cuốn "Xã hội học về
tiểu thuyết", cho thấy, trong khi nhiều nhà phê bình, và đa số công
chúng
thưởng ngoạn, nhìn tiểu thuyết mới, như là những kinh nghiệm hoàn toàn
có tính
hình thức, hay một toan tính chạy trốn thực tại xã hội, hai tác giả đại
diện
chính của trào lưu này là Nathalie Sarraute và Alain Robbe- Grillet,
ngược lại,
đã muốn nói với chúng ta rằng, tác phẩm của họ được sản sinh từ một cố
gắng -
càng chân xác, càng cơ bản chừng nào hay chừng đó - nắm bắt thực tại
thời đại
của chúng ta. Họ là mhững tác giả hiện thực cơ bản nhất, triệt để nhất
trong số
những nhà văn hiện thực Pháp, nếu chúng ta quan niệm chủ nghĩa hiện
thực trong
văn chương là sáng tạo bằng tưởng tượng ra một thế giới mà cơ cấu của
nó tương
ứng với cơ cấu thiết yếu của thực tại xã hội - một xã hội mà tiểu
thuyết đã
được viết ra từ trong lòng của nó. Một xã hội đã cưu mang, thai nghén
ra tiểu
thuyết. Và đây là giả thuyết của Goldmann: Trong các dạng văn học, tiểu
thuyết
là dạng liên can, tức thời nhất, và trực tiếp nhất, tới cơ cấu kinh tế,
theo
một nghĩa hẹp nhất của từ này. Tới những cơ cấu trao đổi và sản phẩm
thị
trường. Thực tại thời đại chúng ta cho thấy, nếu trước đây, con người
là trung
tâm vũ trụ, bây giờ đồ vật trở thành "thần vật". Liên hệ người-vật
ngày càng nghiêng về phía đồ vật. Thế nhất quán mang tính cơ cấu "nhân
vật-đồ vật" ngày càng biến đổi cùng với sự biến mất của nhân vật nhường
chỗ cho đồ vật làm chủ. Từ đó, tiểu thuyết mới mang đủ thứ tên,
phản-tiểu
thuyết, phản-con người, phản-văn chương...
Tiểu thuyết mới ở Việt Nam
Vào năm 1963, Le Clézio gửi bản thảo bằng đường Bưu Điện tới Gallimard,
Le Procès-verbal, 'một thứ trình diện cách mà tôi nhìn cuộc
đời', 'une
sorte de présentation de la facon dont j'envisage la vie', và với một
số người, nó làm nhớ tới, réminiscente, Kẻ Xa Lạ của Camus. Người khám
phá ra thần đồng, là một tay cựu trào của nhà xb Nửa Đêm.
Jean Giono và Raymond Queneau chấp nhận đỡ đầu nhà văn trẻ thần đồng 23
tuổi giành giải Goncourt, nhưng hụt, nhưng lại vớ được Renaudot, do
công của Maurice Nadeau, khi ông này tán tỉnh được [convaincre] mấy ông
hàn của giải này. Le Clézio nghe qua Đài ông được giải, khi ở Nice. Ông
già biểu con, đi Paris liền đi. Nhưng con nhát quá, đếch dám chường mặt
ra với đời [Có một nghịch lý, giữa viết và là một con người của công
chúng,
như sau này ông giải thích]. Ông coi cái trò xuất hiện tại Paris, bắt
tay bắt chân, là nhố nhăng, snob, và coi giải thưởng thì cũng giống như
một đợt sóng lớn, gặp bờ là xẹp. Ông giải thích về mình: Tôi là sản
phẩm của Đệ Nhị Chiến. Hỏi, thích đọc ai, Derek Walcott, thi sĩ,
Nobel
văn chương, và Beckett, cũng thi sĩ, cũng Nobel văn chương, [tôi là độc
giả lớn, le grand lecteur, của ông ta, nhưng là bạn đồng hành], không
phải sư phụ.
*
Bạn đọc Gấu viết về Beckett, khi viết về tiểu thuyết mới, rồi đọc Le
Clézio, khi ông thú tội trước bàn thở, ông là độc giả lớn của
Beckett, thì sẽ nhận ra con mắt xanh của thằng cha Gấu, và còn nhận ra,
câu thần chú của Beckett: Thua. Thua
nữa. Thua cho thật bảnh. Văn
chương của Le Clézio, và Qui he
cho thấy, đây cũng là một thứ văn chương "thua cho thật bảnh."
*
Tuy dựa vào lý thuyết Mác-xít
để giải thích sự xuất hiện của trào lưu tiểu thuyết mới, như L.
Goldmann đã
làm, trên thực tế, ngay tại Pháp, và tại những nước Cộng Sản, trào lưu
này đã
không tránh khỏi những chỉ trích nặng nề là đã không có trách nhiệm
(lack of
commitment) với văn chương, lịch sử, với con người... "Một sự từ chối
cái
thực. Không thể hiện những mâu thuẫn trong xã hội tư bản. 'Trong mê
cung'
('Dans le labyrinthé , của A. Robbe- Grillet) là cái quái gì nếu so với
Việt Nam?"
Sartre đã từng phát biểu, ông không thể đọc Robbe-Grillet trong một xứ
sở kém
phát triển. Câu nói của ông sau được ghi lại trong bài viết của Claude
Simon,
Orion aveugle, (Geneva, 1970, trang 106), trong bài nói chuyện
của một
thành
viên tham dự một hội nghị văn chương bàn về nghĩa vụ xã hội của nhà
văn, được
tổ chức tại một xứ Mỹ Châu La Tinh: "Hình như đối với tôi, chúng ta hội
họp ở đây để bàn về những vấn đề này (không phải những vấn đề mang tính
hàn
lâm), những vấn đề về sáng tạo văn chương mà những dân tộc bị áp bức
chẳng có
gì mắc mớ với chúng". "Nhóm" tiểu thuyết mới tại Việt Nam đã
từng bị
những người theo Cộng Sản, như Lữ Phương chẳng hạn, gọi là nhóm văn
chương
"viễn mơ".
Người xưa nói, đừng đem thành
bại luận anh hùng. Trong "cõi văn chương", tất cả những tác phẩm
thành công đều là những kinh nghiệm về sự thất bại. Hoặc chính là sự
thất bại.
"Hết thuốc chữa, chuyện
anh có mặt trên trái đất này", Hamm
nói với Clov trong Tàn Cuộc, Endgame
(Beckett), hay như trong Tiến lên Tàn
Mạt, Worstward Ho (1) (cũng của
Beckett): "Hãy thua. Thua nữa. Thua cho bảnh." ("Fail. Fail
again. Fail better.") Theo ông, đó là chức năng tuyệt vọng của người
nghệ
sĩ hiện đại, kẻ bị kết án phải trung thành với sự thất bại.
Nhìn theo cách thế đó, tiểu
thuyết mới và các tác giả của nó chính là một sự thất bại, như James
Joyce, như
Beckett, như Kafka... đã từng thất bại.
Ho, Ho! là thời
cả thế giới hò reo trước Đỉnh Cao Chói Lọi: Ho! Ho! Worstward!
Đỉnh
cao chói lọi
4. "Darkness at
Noon" by Arthur Koestler (Macmillan, 1941).
The words "Russia"
and "Soviet Union" do not
appear in this petrifying story of life in Stalin's Russia
during the Moscow
show trials, but every reader of the day knew exactly what Koestler was
writing
about and whom the totalitarian leader known merely as "Number One"
was modeled on. "Darkness at
Noon" recounts the fate of Rubashov, an
old revolutionary who is charged with treason and thrown in prison,
where he is
brainwashed and tortured; he ultimately confesses to imaginary crimes
against
the state. Koestler was himself a disillusioned Communist, and
"Darkness
at Noon" was greeted with rage by Western intellectuals such as
Jean-Paul
Sartre, who pegged the book for what it was: a searing indictment of
life in a
totalitarian society.
Trên, là nhận định của Báo
Phố Tường, về Đêm giữa Ngọ. Đọc, Gấu hỡi ơi! Quả là mấy
anh có tiền đếch biết tí gì về văn chương, về Đêm giữa Ngọ, về
Koestler, về...
Làm gì có chuyện Rubashov bị
tẩy não, và tra tấn! Chứng tỏ, anh Phố Tường này đếch có đọc Đêm giữa
Ngọ.
Rubashov là tổ sư, là... “VC của VC”, mà
lại có chuyện tẩy não? Ông ta
tha cho mấy thằng đàn em, không tẩy não chúng mày là may cho chúng mày
đấy!
Truyện mở ra với cảnh, đang
đêm mật vụ tới bắt R. Ông đang chờ tụi nó. Thú vị nhất, là ông còn sai
một đứa,
đưa tao cái áo đại quân, lãnh tụ coi nào! Ông cũng có nghĩ đến chuyện
bị tra
tấn, làm sao không, và tự hỏi, không hiểu mình có quỵ không. Thế là khi
tụi nó
tống ông vô xà lim, ông bèn hút thuốc lá, và dí cái mẩu thuốc đỏ rực
vào lòng
bàn tay, đúng lúc đó, ngửng lên, nhìn thấy con mắt cú vọ của tên lính
gác, qua
lỗ hổng trên cửa phòng giam, hắn cười gằn, đóng sập lỗ hổng lại, và bỏ
đi
Gấu đọc từ hồi mới lớn, và
không làm sao quên nổi xen đó, và nhiều lần đi tù VC, đã tự hỏi chính
mình, giả
như mình bị tụi nó dí thuốc lá thì sao, thì sao....?
V/v Sartre. Không chỉ Sartre,
mà tất cả đám tả phái ở Paris
khi đó, hì hục, lui cui, dị mọ đi từng nhà sách, lượm hết Đêm giữa Ngọ
đem đốt
bỏ. Koestler có kể lại trong Kẻ lạ ở
quảng trường.
V/v tra tấn. Milosz, trong
cuốn sách ABC của ông, dưới "đầu
vào" [entry] Koestler, đã nhắc tới nhà thơ Aleksander Wat, và cuộc trò
chuyện của Wat với một tay cựu Bôn-sê-vích, the old Bolshevik Steklov,
liền
trước khi xẩy ra cái chết của tay cựu đảng viên đáng kính này, trong
nhà tù
Satarov.
Theo Steklov, những tay như
Rubashov thú tội, ngay cả những tội mà họ không hề phạm, không phải do
tra tấn,
mà là do quá tởm quá khứ đầy ứ những tội ác của họ. Và cái chuyện tự
làm nhục
chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém gì, và tra tấn là không cần thiết.
[According to Steklov, they
confessed out of disgust at their own past: they each had so many
crimes on
their account, that it cost them nothing to demean themselves once more
and
torture was not necessary].
*
Và cái chuyện tự
làm nhục
chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém gì, và tra tấn là không cần thiết.
Liệu, có thể đọc, những Lạc Đường, theo cung cách này?
*
... he ultimately confesses to
imaginary crimes
against
the state. [Ông ta sau cùng thú nhận những tội tưởng tượng chống lại
nhà nước]
Sai.
Đêm giữa Ngọ quả là một tác phẩm văn học
bậc thầy, và phải từ đó, nó mới tiến thêm lên một mức nữa, trở thành
một tác phẩm chính trị bậc thầy, như một bằng chứng hiển nhiên xác nhận
câu phán của Brodsky, Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh, hay nói một cách khác:
Chính trị mới là đỉnh cao của văn học. Gấu xin post lại hai đoạn căn
bản liên quan.
*
Vả chăng, cuốn sách
cũng rất
bị "hiểu lầm", và có thể được đọc như là một bài diễn văn sơ đẳng về
một triết lý mang tính chính trị, vì đã thoát thai từ những "người
thực,
việc thực", từ những vụ án phản động tại Moscow. Nhưng nó đã được viết
với
một sức mạnh bi tráng, với sự ấm áp của tư duy, của cảm nghĩ; với sự
giản dị,
đầy tính chiêu dụ mời gọi, và trở nên cuốn hút như một bản bi ca.
Rubashov là tổng hợp tất cả
những người Bolshevik cựu trào bị trừ khử bởi Stalin. Cuốn truyện mở ra
vào năm
1938, với sự bắt giữ Rubashov. Ông đang mong đợi chuyện đó. Ông chẳng
phạm bất
cứ một tội nào sau đó ông sẽ tự thú. Theo kiểu suy nghĩ "chuẩn mức",
những chuẩn mức "xa xỉ, đỏm đáng", ông vô tội. Nhưng trong cái đầu có
sạn, Rubashov hiểu rất rõ, ông có tội. Tại sao? Bởi vì ông vẫn là một
trong
những chuẩn mức làm nên con người "cách mạng", 40 năm trời cung cúc,
tự nguyện hiến thân cho sự nghiệp vô sản, làm sao hoàn tất nó với tất
cả mọi
phương tiện, dù ghê tởm, tàn nhẫn tới đâu. Khi một con người "thép đã
tôi" đến mức đó, mà lại để một chút nghi ngờ cỏn con len lén chui vào
tâm
tư, khi ông tự hỏi, phải chi mà cuộc cách mạng đỡ tốn kém đi một chút,
những
đau thương, những mạng người, khi đó, ông biết rằng ông hết còn ngây
thơ vô
tội. Chỉ một chút lòng trinh bạch là đủ để bị trừng phạt bằng cái chết.
Thật
tuyệt vời. Koestler theo sát nút những suy nghĩ của Rubashov, tới tận
điểm của
"mê cung", sự thừa nhận cuối cùng "tay chót nhúng chàm":
"Tôi hết còn tin vào ‘khả năng vô địch, bách chiến bách thắng’, của
riêng
tôi. Vì vậy, tôi thua".
Tuy là một cuốn sách viết về
nhà tù, nhưng không có sự đối xử "ác ôn, côn đồ" ở đây. Vấn đề là,
một khi bị coi là có tội, theo "chuẩn mức" của nhà nước Xô-viết, tội
nhân, hoặc chết trong im lặng, hoặc "được" quyền tự thú trước nhân
dân.
Giải pháp nằm trong tay hai
thẩm tra viên Ivanov và Gletkin. Cả hai đều muốn Rubashov bằng lòng tự
thú công
khai, vì thế giá cách mạng của ông rất cao, trừ khử ông không một lời
giải
thích sẽ gây một tổn thất lớn lao về đạo đức cách mạng đối với nhân
dân.
Ivanov, vốn là một cựu trào, tin rằng có thể "nắm" được diễn biến, tư
tưởng của người đồng chí cũ.
Hai buổi hỏi cung đầu do
Ivanov. Bằng một "logic" không thể chê, anh cho Rubashov thấy những
vấn đề mà bản thân ông không ngờ được. Anh chứng tỏ, sự mất cảm tình,
không
trung thành của Rubashov bắt đầu, là khi ông trở về từ Đức, sau hai năm
bị Nazi
cầm tù. Ông đòi hỏi được đi công tác tại hải ngoại, mặc dù được trao
một chức
vụ quan trọng ở trong nước.
-Anh không cảm thấy thoải mái
ở đây, chắc thế? Trong lúc anh vắng mặt, đã có một số thay đổi, và rõ
ràng là
anh không hài lòng?
Một khi Rubashov thừa nhận,
ông không hài lòng, việc trừ khử những cựu trào, cái bẫy xiết chặt lấy
ông. Bởi
vì, theo suy nghĩ của Đảng và Nhà nước, một chống đối công khai luôn
bắt nguồn
từ một bất mãn, bất trung thành ngấm ngầm.
Ivanov
chơi một trò chơi
tuyệt hảo với Rubashov. Anh kêu gọi, nhắc nhở người đồng chí cũ về sự
tuân thủ
kỷ luật Đảng mà ngày nào ông đã từng một lòng một dạ. Anh cố làm cho
ông tin
rằng ông đã lầm lạc. Cuối cùng thành công. Nhưng Ivanov bị khiển trách
và bị xử
bắn sau đó, vì đã quá tình cảm với tội nhân.
Buổi hỏi cung cuối, khi
Rubashov đã sẵn sàng thú tội, là do Gletkin, một kẻ "đã được cắt nhau ở
rốn", nghĩa là không còn một chút dây mơ rễ mái với đám cựu trào. Đây
là
một màn tra tấn tinh vi, tạo cơn hấp hối kéo dài. Chủ đích là phải đem
vào bản
tự thú, những chi tiết đặc thù. Một thỏa thuận ngấm ngầm được đặt ra
giữa đao
phủ và tội nhân: một khi lời buộc tội được coi như là đúng, tự gốc rễ,
cho dù
gốc rễ này chỉ có tính trừu tượng, có vẻ hợp lý; khi đó Gletkin được quyền tha
hồ vẽ ra những chi tiết còn thiếu.
Nhưng đây mới là mấu chót của
câu chuyện, điều mà bao lần đọc Darkness at Noon, vì thành kiến, tôi đã
không
nhận ra, may nhờ H. Strauss mới thấy được: Trong khi bề ngoài, Gletkin
thắng
trận đấu sinh tử tay đôi (duel), một sự thay đổi lớn lao đã xẩy ra bên
trong
Rubashov. Ông lần hồi trở lại "làm người", một con người của suy tư,
cảm nghĩ, của những cảm xúc mang tính chủ quan. Trong khi cái đầu của
ông tỏ ra
hài lòng với Gletkin, trái tim của ông thừa nhận, có lẽ con người không
nên
theo những hiệu quả logic của tư tưởng đến tận cùng. Có lẽ, lý lẽ không
thôi,
là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi
đầy
dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.
Hiệu quả huyền ảo của cuốn
truyện là một mỉa mai bi thảm: Rubashov tự thú công khai trước nhân
dân, và sau
đó bị xử bắn. Nhưng ông mới chính là kể thắng trận, trước đám người
thống trị,
nhục mạ ông.
Trầm luân vì niềm tin
Và đoạn về Brodsky:
“Trong
diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo]
mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó.
Mỹ học
như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới
đâu thì
sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về
phía của
cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma,
về mặt
còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong
tồi tệ”
[Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad
stylist”.
On Grief… trang 49].”
*
Caroline
Fraser, đọc Red Mandarin Dress trên Điểm Sách London,
chỉ ra, mặc dù những tội ác ở trong những cuốn sách của Qiu đều có liên
quan tới
quá khứ, và cuốn đầu tay của ông, được coi là 1 trong năm cuốn số 1 tố
cáo cái ác
của chủ nghĩa CS, nhưng những nhân vật của ông có nhiều gần gũi với của
một số
tác giả viết trinh thám của Anh, như Adam Dalgliesh của F.D. James, ông
này cũng là một thi sĩ, hay Inspector Wexford của Ruth Rendell, và yếu
tố chính
trị chỉ là thứ yếu so với yếu tố tâm lý, là sự tương phản giữa nạn nhân
và kẻ gây
ác.
Tribute to Harold Pinter
Tưởng nhớ TTT
Nguyễn
Chí Kham
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Cynicism is an unpleasant way
of saying the truth.
Lillian Florence
Hellman (20 June 1905 – 30 June
1984). American playwright.
[Xì níc là cách chẳng đặng
đừng, để nói ra sự thực]
Sự thù hận của các đấng bạn
quí của Gấu, nhìn ở một mức độ khác, có thể coi như, sự thù hận đối với
bất cứ
ai sống sót một tai họa.
Lần đầu tiên qua Cali,
trong những bạn cũ
gặp lại, có hai ông thực tình mừng, vì cái sự vẫn sống nhăn của Gấu. Đó
là VL,
và DTL.
DTL phán, vậy là mày tái
sinh.
Còn VL, thì bèn gật gù: Nhờ
H. mà thằng Trụ mới lại có ngày hôm nay!
Lần đầu tiên Đào Nương gặp
Gấu Cái tại một bữa tiệc đám cưới của con một người bạn học của Gấu
Cái, Đào
Nương hỏi, sao bảnh thế, nghĩa là, sao chịu đựng giỏi như thế, Gấu Cái
phán,
thằng cha Gấu đó, có lần đã làm được một việc cho tôi, đúng lúc tôi rất
cần,
và, sau đó, nó có làm bất cứ điều gì làm cho tôi đau lòng, thì cũng kể
như pha.
*
Trong cuốn Những đám đông và
Quyền lực, Crowds and Power, nhà văn Nobel người Đức, Elias Canetti
dành một
chương cho Kẻ Sống Sót. Ông kể chuyện, một ông vua Ấn, tham vọng còn
lớn lao
hơn cả Nã Phá Luân và Alexander, vào năm 1337, phái một đạo binh trên
100 ngàn
người vượt Hy mã lạp sơn chinh phục TQ. Chỉ có 10 người trở về, và nhà
vua ra
lệnh làm thịt tất cả.
Một ông nữa, chúa tể một cõi
Hồi giáo ở Deccan, bỏ ra trọn đời để
gây chiến
với đế quốc hàng xóm Ấn độ. Lần đó, đế quốc hàng xóm tấn công một thành
phố ven
biên, và làm thịt tất cả, trừ một ông trốn thoát. Và bị làm thịt liền
tức thì,
với lý do, mày là cái quái gì mà sống sót, trong khi bao nhiêu con
người dũng
cảm kia, chết hết?
Nhưng tại làm sao, mà những
đấng bạo chúa, và luôn cả, những đấng bạn quí của Gấu, lại không ưa
những người
may mắn sống sót?
Canetti đưa ra một lời giải
thích, bằng cách kể câu chuyện, một đấng vua Ai Cập, một bữa giả trang
làm
thường dân đi vi hành và gặp một đám 10 người võ khí đến tận răng, họ
nhận ra
vua, và xin ông tiền. Vua OK, tụi mày chia làm hai phe, uýnh nhau, ai
sống sót,
là tao cho tiền. Chỉ có một thằng còn lại, và ông vua bèn ném cho tay
này một
đống tiền, cùng lúc xả thịt anh ta, và coi cái vụ làm thịt này cũng nằm
trong
tiến trình, process, của sự sống sót!
*
Cái chuyện Gấu biếu một ông
bạn quí ba ngàn đồng để ông ta đặt cọc mua nhà ở Làng Báo Chí Thủ Đức,
là
chuyện có thực, vào cái lúc Gấu lên voi, và, khi xuống chó, khổ quá,
chẳng hề
nhớ tới. Hoàn toàn quên hẳn. Chỉ đến khi nghe ông ta lèm bèm về cái
chuyện cho
Gấu một cái áo cụt tay, cũ, ông đang mặc, và cho mượn cuốn Những Linh Hồn Chết,
để đọc, 'cuốn này mày phải trả tao', và sau đó, đi rêu rao, đã dặn nó
trả lại,
mà nó cũng nỡ đem bán, nghe một lần thì cũng được, chỉ đến khi ông lập
đi lập
lại mấy lần, Gấu đau quá, bèn nhớ ra cái vụ ba ngàn đồng biếu ông ta.
Thảm thế đấy.
Chỉ đến khi đọc Sebald, thấy
ông trích một câu của Léon Bloy, Gấu mới ngộ ra:
L'homme a des endroits de son
pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre afin
qu'ils
soient.
Trái tim đáng thương của con
người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo
ra
chúng.
*
Đầu năm khai bút! NQT
*
Site
của anh là
một trong những site mà người viết thư này hay vào. Tuy không quen,
không biết
anh, người viết cũng đánh bạo mà xin anh cho vài câu trả lời dùm : Làm
cách nào
mà anh đọc nhiều, viết thật nhiều, maintain cái site của anh, giữ mối
liên lạc
bằng hữu và người thân…
Cái thư này, Gấu
nhận được trong lúc đang giang hồ vặt, thăm mấy đấng bạn hữu cùng học
thời
trung học ở Tiểu Sài Gòn.
Đọc thấm nhất là
cái khúc “giữ mối liên lạc bằng hữu”.
Ui chao cả đời Gấu
mê bạn, chỉ đến chót đời, mới nhớ ra, và mới nhín ra được một chút thời
gian
cho người bạn đời của Gấu, có còn hơn không!
Gấu hình như đã có
lần kể câu chuyện hồi học Hà Nội, có thằng bạn thân di cư vô Nam.
Gấu đâu có
tính đi, nhưng sau đó, đành phải đi, và suốt cuộc hành trình dài suốt
chiều dài đất
nước đó, chỉ nghĩ đến cảnh gặp lại đấng bạn thân, chắc là sướng lắm!
Gặp, trên đường
phố Sài Gòn, anh bạn "Hi" một tiếng rồi dọt mất tiêu, để Gấu tiu nghỉu
giữa đường
phố.
Nhưng,
nói gì thì
nói, vẫn mê bạn, nhưng hết mê bạn quí!
*
Subject: Re: Text
Date: Wed, 7 Sep 1994
18:21:55 -0700
From:
To:
Anh Quoc Tru o+i
Kho^ng overload dda^u.
Nhie^`u ngu+o+`i ddang theo do~i co^ Jennifer Tran la('m.
Ba`i anh vie^'t ddo.c
hay kinh khu?ng.
Tha^n a'i,
----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Saturday, September 09,
2000 6:30 AM
Subject: Text
> Ban PTH: Neu thay overloaded,
xin cho biet, de ngung! Tks, nqt
>
Note: Như vậy là Jennifer Tran viết cho Viet Bao online vào năm 2000.
Cái mail trả lời, 1994, không đúng. Tháng 11/1994, Gấu mới được đi tái
định cư tại Đệ Tam quốc gia.
*
Người
đọc bình
thường
Có
một câu của Dr. Johnson,
trong Đời của Gray, câu này
chắc là phải viết lên tường tất cả những
căn phòng,
gọi là những thư viện thì có vẻ hơi lớn lối, tuy nhiên, chứa đầy sách,
nơi việc
đọc là của những tư nhân, private people.
“….Tôi thật mến, người đọc
bình thường này; bởi vì, gọi độc giả bình thường, những ai không bị hư
thối bởi
thiên kiến văn chương, và, sau bao lọc lõi, và nghiệt ngã, của việc
học, biết
rằng, đây chỉ là để vinh danh cho một cõi thơ.”
Cõi thơ đó định nghĩa phẩm
chất của họ, vinh danh những mục tiêu của họ, đó là cái phần thưởng mà
họ có
được, sau khi bỏ phí thời giờ ngấu nghiến đọc, và ngộ ra rằng, mình
chẳng để
lại một thứ gì ở trên cõi đời này, nếu có chăng, thì
chỉ một cái gật đầu của những bậc tao nhân
mặc khách, như một nhà thơ Việt đã từng tự hào về cả một sự nghiệp thơ
của ông:
Ta còn để lại gì không,
Kìa non đá lở, kìa sông
cát
bồi.
VHC
Độc giả bình thường, như Dr
Johnson hàm ý, khác hẳn nhà phê bình, và nhà khoa bảng. Anh ta học hành
chẳng
ra gì, và thiên nhiên keo kiệt kia cũng chẳng ban cho anh ta một chút
tài năng
thiên bẩm nào.
Anh ta đọc, chỉ để thích thú
riêng cho mình, vì mình, không hề có ý định kiếm tí ti tri thức, hiểu
biết,
hoặc khốn nạn hơn, để sửa chữa những quan điểm của những người khác.
Trên hết,
anh ta được dẫn dắt bởi một bản năng: hãy sáng tạo chỉ cho mình - từ
bất cứ
thăng trầm, bất cứ nọ kia, bất cứ gập ghềnh của đường đời mà anh ta đã
trải –
một cái gì đó, mù mờ một khối, một cục, một đống, như chân dung một con
người,
như phác họa một thời đại, như một lý thuyết về nghệ thuật viết….
Khi đọc, anh ta không hề ngưng
ôm ấp, nâng
niu, gầy dựng căn nhà ọp ẹp, xiêu vẹo, tức là cái vốn liếng mà sự đọc
đã đem
lại cho anh ta, chính cái đó sẽ đem lại cho anh ta sự hài lòng, tuy phù
du, tuy
tạm bợ, rằng cái ta có đây cũng đâu có thua gì một căn nhà vững vàng,
một món
đồ thực sự, và như thế, nó đem đến cho
anh ta sự yêu mến, tiếng cười và lời biện luận, hay quan điểm này nọ. Vội vã, không chính xác, và phiến diện, lúc
này túm vội lấy bài thơ này, lúc nọ, một mẩu văn bia đồ cổ, chẳng thèm
để ý,
kiếm chúng ra từ đâu, chẳng cần biết bản chất chúng là như thế nào, một
khi mà
chúng thật hợp ý mình, ôm lấy mình, những cái dở, yếu, non, kém, vụng,
như là
một nhà phê bình của anh ta cứ thế mà phô ra… Nhưng, cứ như Ngài Dr.
Johnson
nói đó, nếu anh ta có một tiếng nói nào đó, ở trong cái sự đóng góp sau
cùng
vào những vinh danh của thơ ca, nếu vậy thì, có lẽ, cũng có tí giá trị,
khi
viết ra một tí ý nghĩ, và quan điểm -
thì cũng vẫn chỉ là những vô nghĩa, những chẳng có chút giá trị, như tự
thân
chúng vốn là như vậy – tuy nhiên, cũng là một đóng góp cho thành quả,
vậy.
NQT
[mô phỏng bài viết của
Virginia Woolf: The Common Reader]
*
Note: Mới kiếm ra,
trong lúc lục lọi hồ sơ cũ, trước khi đi.
Gửi K, và bạn của K. Thay cho bài viết nhức đầu quá. NQT (1)
(1) Đọc để làm cái quái gì? Borges có câu trả
lời thú vị,
nhân đọc Kafka:
The
Vulture
Cái nhà của Gấu bây giờ như thùng rác. Cứ mải viết, rồi post, không
rành kỹ thuật, không biết làm sao sắp xếp, không có 'search device'.
Thua!
Lại nhớ câu văn khủng khiếp của Kafka, trong Y sĩ Đồng Quê:
Mi chẳng biết trong nhà của mi có gì. (1)
NQT
(1)
Cô gái Rose hình như
đã nói ra những điều kiện thực sự của tờ khế
ước, của Kafka: "Bạn chẳng thể nào biết điều bạn đang tìm, trong chính
căn
nhà của mình".
Tội
lỗi ngồi thu lu đằng sau "cánh cửa ọp ẹp của cái chuồng heo đã bỏ hoang
từ bao nhiêu năm tháng..."
Nguồn
Nhờ
Oz mà Gấu đọc ra được Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Đọc Devant La Loi, của Kafka,
thì đọc ra Người đàn bà ngoại tình
của
Camus. Đọc ra câu thơ của TTT:
Ôm em trong tay mà đã nhớ em
những ngày sắp tới
Đọc câu thơ TTT, thì đọc ra quãng đời chưa sống: Những ngày lưu vong.
Theo đà đó, bạn đọc ra truyện thần tiên dành cho con nít.
*
“Thật
tiện lợi, khi hồi nhớ làm việc được cả hai chiều”.
“Hồi
nhớ của tôi chỉ làm việc một chiều”. Alice
nói. “Tôi không thể nhớ chuyện, trước khi nó xẩy ra”.
“Quá
nghèo nàn, thứ hồi ức chỉ nhớ chuyện đã qua”. Hoàng hậu nói.
“Bà
nhớ rành rọt nhất, là những chuyện gì?” Alice
dò hỏi.
"Ồ!
Những chuyện xẩy ra tuần lễ tiếp theo tuần tới”. Bà Hoàng thản nhiên
nói.
Through the Looking Glass
Hi, Thiên Thai
Franz Kafka, The Vulture
Nhiều người biết chuyện, khi
biết mình sắp sửa từ giã cõi đời, Virgil đã yêu cầu bạn bè, hãy biến
Aeneid
thành tro than. Đây là một bản thảo chưa hoàn tất mà ông đã dành cho nó
mười
một năm trời, nói là cực nhọc với nó thì cũng đúng thôi, nhưng đây là
một thứ
cần lao, nếu không vinh quang thì cũng thật là phong nhã, và tế nhị
[eleven
years of noble and delicate labor]. Thì cũng một thứ vượt cạn mà thôi,
cả một
nửa nhân loại tự hào về nó, thì tại làm sao mà dám nói... ngược lại,
rằng
không... vinh quang?
Cũng theo cùng một cung cách
như vậy, Shakespeare chẳng bao giờ “băn khoăn” về chuyện thâu gom những
kịch
kiệc của ông vào thành một cuốn.
Kafka nhờ cậy bạn là Max Brod
hãy phó thác những tác phẩm của mình cho bà hoả, bởi vì ông chắc chắn
một điều,
rằng, những cuốn tiểu thuyết, những truyện ngắn như thế tất sẽ đưa ông
lên đài
danh vọng, sau khi ông đã mất. Sống đã chẳng màng, thì tại sao chết
rồi, mà
còn... ham?
Sự giống giống của những mẩu
đoạn, thời kỳ trên đây, nếu tôi không lầm, là do có cái gì mờ mờ ảo ảo
như
người đi đêm ở trong đó. Bạn bè với nhau, làm sao mà Virgil không biết,
chớ có
tin tụi nó, nghĩa là ông có thể tin cậy vào cái chuyện không tin cậy
bạn bè,
rằng tụi nó sẽ chẳng làm theo yêu cầu của mình đâu, y chang Kafka và
bạn của
ông là Max Brod. Trường hợp Shakespeare hoàn toàn khác hẳn. De Quincey
khẳng
định, trong trường hợp Shakespeare, là do, khán giả bỏ tiền ra mua vé
đi xem
kịch, xem trình diễn, chứ đâu phải mua sách để đọc, thành thử cái trò
múa may
quay cuồng trên sàn diễn mới quan trọng đối với Shakespeare. Nói gì thì
nói,
một khi bạn toàn tâm toàn ý, mớ sách mớ chữ mang nặng đẻ đau này, chúng
mày hãy
biến mất cho được việc, bạn sẽ chẳng giao cho ai, làm cái việc, giống
như người
Việt mình nói, mua pháo mượn người đốt. Kafka và Virgil thực sự không
tìm người
đốt pháo giùm, mà chỉ muốn rũ khỏi cái trách nhiệm mà một cuốn sách đè
lên họ.
Theo nghĩa này, người Trung Hoa đã từng nói, bút sa gà chết, hay, thầy
thuốc
hại một người, thầy dùi hại triệu người, và cũng một ông Trung Hoa, vì
sợ như
vậy, nên đã thẳng thừng tuyên bố, nếu mất một cái lông chưn mà thiên hạ
thái
bường, tớ cũng không chịu mất!
Đâu có phải thằng chả ích kỷ!
Khi còn trẻ tuổi, hăng máu, Heidegger đã từng viết sách triết, đã từng
phò
Nazi, tới khi về già, mới vỗ bụng than: Suy tư lớn, lầm lớn. Suy tư
nhỏ, lầm
nhỏ:
He who thinks greatly must
err greatly (1)
(1): The Thinker as Poet
(trong Poetry, Language, Thought, bản tiếng Anh của Albert Hofstadter,
nhà xb
Harper & Row).
Tiếng Tây, erreur [lẫm lỗi],
cùng âm với errer [lang thang]. Câu thơ của Heidegger, nghe cứ như: Kẻ
nào suy
tư nhiều lang thang nhiều. Như vậy, ở nhà là khỏi suy tư, khỏi lang
thang!
Trường hợp Virgil, theo tôi
[Borges], ông nhờ bạn đốt sách của mình, là do thẩm mỹ: ông muốn sửa
lại giọng
văn, hay câu chữ. Đây là quan điểm của nhà phê bình Pháp, Roland
Barthes, theo
đó, bởi vì bút sa gà chết, và bởi vì bút đã sa, gà đã chết, cho nên chỉ
còn có
mỗi một cách để làm sự tình đỡ bi thảm đi chút nào hay chút đó, là:
viết tiếp!
Theo nghĩa đó, ông cho rằng, viết có nghĩa là viết thêm (add), vào
những gì đã
lỡ viết ra rồi.
Cũng có thể, Virgil biết
chuyện một nhà thơ Trung Hoa, suốt năm, cứ ranh rảnh được chút thì giờ
nào
không phải lo chuyện cơm áo, là “bèn” cúng cho thơ, tới đêm 30 Tết,
“bèn” uống
rượu cùng với bà Táo và hai ông Táo, và nướng hết thơ cho bà Hoả! Vừa
khóc, vừa
uống rượu, vừa nướng thơ, theo như giai thoại kể lại.
Hay câu chuyện về một nhà văn
tỉnh lẻ Nga [Gogol] bán heo, bán gà, gom hết tiền bạc đem, cùng với tác
phẩm,
và mình, lên tỉnh, in, và sau đó, đi thâu gom những cuốn sách đã in ra
đó, mang
cúng cho thần hỏa.
Trường hợp Kafka phức tạp
hơn. Người ta có thể coi tác phẩm của ông là một ngụ ngôn, hay một
chuỗi những
ngụ ngôn - tức là những ngón tay chỉ mặt trăng - tức là đề tài - tức liên hệ đạo đức giữa cá nhân với Thượng
Đế, và cái vũ trụ “cà chớn”, tức không làm sao hiểu nổi, của Người. Mặc
dù tính
chất thời sự [hay nói theo Camus, suy nghĩ xem cuộc đời đáng sống hay
là không
– đời mà chưa đáng, thì sách làm sao đáng – là trả lời câu hỏi chẳng
chút cà
chớn của triết học], nhưng Kafka gần gụi với “Sách của Job” hơn là cái
mà người
ta gọi là “văn chương hiện đại”. Tác phẩm của ông dựa trên một ý thức
tông
giáo, đặc biệt tông giáo Do Thái. Kafka coi tác phẩm của ông là một
hành động
của niềm tin, và ông không muốn tác phẩm của mình khiến cho nhân loại
trở nên
chán đời, [Borges viết: ông không muốn nhân loại, do đọc những gì ông
viết ra,
mà trở nên nản lòng], chính vì vậy mà ông yêu cầu bạn đốt.
Nhưng chúng ta có thể nghi
ngờ, có thể còn có những động cơ khác. Kafka chỉ có thể mơ những ác mơ,
ác
mộng; mơ hoài còn hoài, bởi vì mơ tới đâu, thực tại cung ứng tới đó.
Cùng lúc
đó, ông thực hiện ở trong tất cả những cuốn sách của ông, những hậu
quả, tạm
gọi là, của “việc hôm nay hãy để ngày mai”, [procrastination: trần trừ,
trì
hoãn, nước đến chân chưa chịu... tẩu...]. Không nghi ngờ chi: cả hai,
buồn bã
và trần trừ, đã vắt kiệt ông.
Có thể, ông cũng muốn viết ra
một vài trang cuối có tí vui vui ở trong đó, nhưng, cà cuống chết đến
đít vẫn
còn cay: danh dự, phẩm giá của ông, không cho phép ông bịa đặt ra những
trang
cà chớn như vậy.
Tôi sẽ chẳng bao giờ quên lần
đầu đọc Kafka, trong một ấn bản hiện đại có tính nghề nghiệp, năm 1917.
Những
người biên tập - chẳng thể nói họ thiếu tài năng, dân nhà nghề mà, và
bởi vì là
dân nhà nghề, nên đã hiện đại, hậu hiện đại, tân hậu hiện đại hóa...
tác phẩm
của Kafka bằng cách - dâng tặng nó cho “cái gọi là” sự bãi bỏ chấm câu,
chữ
viết hoa, nhịp điệu câu văn; vô tư tái tạo ẩn dụ, lạm dụng từ kép, ấy
là chưa
kể những chức năng khác mà họ tự khoác cho họ, với một thiện ý làm sao
cho tác
phẩm của Kafka thích hợp với tuổi trẻ thời của họ, và có lẽ, của mọi
thời.
Trong cái mớ [tu từ] loảng xoảng đó, một lời xin lỗi được ký bởi một
tay Franz
Kafka nào đó, nếu có, thì thật là quá vô nghĩa, nếu không nói, tầm
phào, nhạt
nhẽo, so với sự ngoan ngoãn dễ bảo của anh chàng độc giả trẻ tuổi là
tôi ngày
nào. Sau tất cả những năm tháng đó, tôi dám làm cái chuyện, là thú tội,
đối với
sự ngu si, vô cảm không thể tha thứ được về mặt văn học, của mình: Tôi
đã nhìn
thấy một mặc khải văn chương, vậy mà không nhận ra.
Mọi người đều biết, Kafka
luôn cảm thấy mình là một đứa con tội lỗi, đối với ông già của mình.
Theo cái
kiểu của dân Do Thái đối với Thượng Đế. Cái tông giáo Do Thái của ông -
nó làm
ông tách biệt ra khỏi phần nhân loại còn lại – đã tác động tới ông theo
một
đường hướng thật là đa đoan rắc rối. Ý thức về một cái chết đang thập
thò ở
ngoài cửa, đang rình rập ngay bên giường, cộng thêm căn bệnh lao lúc
nào cũng
đẩy ông lên đỉnh cao chót vót của “sự nóng bỏng của một nỗi chết lạnh
lẽo không
rời”.... càng làm nhọn hoắt những mũi nhọn kể trên. Những nhận xét này,
nói cho
cùng, cũng chỉ là để thêm mắm thêm muối cho câu chuyện về một thiên tài
Franz
Kafka. Thực tại bảnh hơn thế nhiều, như Whistler nói: “Nghệ Thuật Xẩy
Ra Như
Thế Đó” [Art Happens].
Hai tư tưởng – đúng hơn, hai
ám ảnh – đã “cai trị” [rule] thế giới - hay là tác phẩm - của Kafka:
tùy thuộc
và vô cùng. Trong hầu như tất cả những giả tưởng của ông, có những đẳng
cấp,
những tôn ti trật tự [hierarchies] và chúng thì vô cùng. Karl Rossmann,
nhân
vật trong tiểu thuyết đầu tiên của ông, là một đứa con trai Đức tìm con
đường
của nó, xuyên qua một đại lục không thể nào xuyên qua được; vào lúc
chót, nó
được chấp nhận vô nhà hát The Great Nature Theater of Oklahoma; cái nhà
hát vô
cùng tận [infinite theater] này thì cũng đông đúc chẳng thua gì thế
giới, và là
tiền thân [prefigure] của Thiên Đàng. [Một chi tiết rất ư là riêng tư:
ngay cả
ở trong hình ảnh một thiên đàng như thế đó, con người cũng chẳng thể
trở nên
hạnh phúc, và đâu có dễ, được chấp nhận vào thiên đàng: còn khối những
trì
hoãn, những “trở ngại”, ở dọc đường. Làng kế bên, nhưng đâu dễ gì, đến.
Nhân vật của cuốn tiểu thuyết
thứ nhì của ông, Joseph K. bị “em” cho ăn “trái cuội” [“mặc khải” từ
chữ “trái
sầu” của Huy Cận], theo kiểu “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”, “em” ở
đây, là
“vụ án”. Một vụ án mà chẳng bao giờ Joseph K. được nói cho biết, bị
can, tức là
anh, phạm tội gì. Cũng chẳng bao giờ anh có được cái hân hạnh giáp mặt
“người
yêu”, tức cái pháp đình vô hình kết án anh, và, không án iếc gì hết,
đẩy anh
tới máy chém. K, nhân vật của cuốn tiểu thuyết thứ ba, và cũng là cuốn
cuối, là
một trác địa viên [a surveyor], bị gọi tới một tòa lâu đài, mà chẳng
bao giờ
anh ta [được] vào, và anh ta chết không được nhìn nhận [recognized] bởi
những
nhà chức trách cai trị [tòa lâu đài]. Cái mô típ về một sự trì hoãn cho
tới vô
cùng như vậy đó, cũng là những luật lệ
cai trị những câu chuyện ngắn của Kafka. Một trong những câu chuyện như
thế, là
về một thông điệp viên của hoàng gia chẳng bao giờ có thể tới, do cả lố
người
làm chậm trễ hành trình [trajectoire: đường biểu diễn, đường bay...]
của thông
điệp, của anh ta. Trong một chuyện khác, là một người, chết, không tới
thăm
được làng kế bên; một chuyện khác, hai người láng giềng tối lửa tắt đèn
có
nhau, vậy mà chẳng bao giờ có thể gặp nhau. Một trong những câu chuyện
đáng ghi
nhớ nhất, trong số những chuyện đó, là “Vạn Lý Trường Thành Trung Hoa”
[The
Great Wall of China, 1919], sự vô cùng ở trong đó có nhiều tầng, nhiều
mặt: Để
ngăn chặn sự tiến triển của những đoàn quân ở xa ơi là xa, một vị hoàng
đế từ
đời nảo đời nào về nơi chốn và thời gian, ra lệnh, rằng, những thế hệ
này tiếp
nối thế hệ khác, những con dân của ông, hãy miệt mải miệt mài, nghĩa là
chẳng
bao ngưng, cái việc xây cất một bức tường chẳng biết đâu là đầu đâu là
cuối,
chung quan cái đế quốc vô cùng tận của vị hoàng đế.
Một trong những “đức hạnh” -
hiển nhiên, đừng bao giờ tra hỏi, hoặc nghi ngờ - của Kafka, là, sự
phát minh,
sáng chế (invention), hay bịa đặt ra thì cũng rứa, những tình huống
không thể
nào chịu nổi (intolerable situations). Chỉ cần vài hàng là đủ để minh
chứng cái
điều rõ như ban ngày đó. Thí dụ: “Con vật tóm lấy cây roi của chủ, và
quất chủ
để trở thành chủ, và không nhận ra là, ích chi đâu, chỉ là huyễn ảo, do
cái nút
thắt mới [có], ở trên cây roi, gây ra.” Hay là: “Những con báo xâm nhập
những
ngôi đền và uống rượu vang trong những chiếc ly thánh; chuyện này xẩy
ra bất
thình lình, và sau cùng, đây là tiên tri, nghĩa là sẽ phải xẩy ra như
thế, và
sẽ được đưa vào nghi thức tế lễ.”
Gọi quỉ, quỉ tới liền: Tính
viện dẫn, gọi lên, cầu khấn (invocation) ở Kafka thì thật là đáng nể,
so với
tính chi ly về từng chi tiết (elaboration). Chỉ có một con người trơ ra
(a
single man) ở trong tác phẩm của ông: the homo domesticus. Con người
này, rất ư
Đức và cũng rất ư Do Thái, thèm muốn một nơi chốn, một ao nhà, bất kể
“dù trong
dù đục” như thế nào, một Trật Tự nào đó - ở trong vũ trụ, trong một bộ,
trong
nhà thương điên, hay trong nhà tù. Cái gọi là cốt truyện (plot), và
không khí
truyện (atmosphere) là thiết yếu, chứ không phải sự phát triển, nảy nở
mãi ra
của một ngụ ngôn, hay của chiều sâu tâm lý. Đây là thế mạnh của những
câu
chuyện ngắn của Kafka so với tiểu thuyết của ông; và một toàn tập những
truyện
ngắn của ông càng dễ cho chúng ta nhìn ra tầm vóc đồ sộ của một nhà văn
khác
thường như thế đó: Franz Kafka.
[Mô phỏng bài viết cùng tên của J. L.
Borges. Vulture:
Chim kên kên. Tên một truyện ngắn của Kafka. Bài viết của Bogres, viết
năm
1979, in trong Selected Non-Fictions, nhà xb Penguin. Trong Cuốn Sách
của những
Bài Tựa, cũng của Borges, có một bài viết về Kafka, Hoá Thân. Bài này
gần như
tương tự bài Kafka, Kên Kên trên. Về cuốn Aeneid, tiểu chú của Borges
ghi: Vào
lúc sắp mất, Virgile yêu cầu bạn bè huỷ bỏ bản thảo chưa hoàn tất, là
cuốn
Enéide. Bản thảo này, một cách thật là bí ẩn, đã chấm dứt bằng những
từ: Fugit
indignata sub umbras. Bạn bè không làm theo, y như Max Brod sau này,
với Kafka.
Cả hai trường hợp, bạn bè đã hoàn tất cái ước muốn thầm kín của tác
giả. Bởi vì
nếu muốn đốt bỏ, họ sẽ tự mình làm, và họ muốn tránh trách nhiệm nên
mới làm
vậy. Vả chăng, Kafka chỉ muốn viết một tác phẩm hạnh phúc và thanh thản
(sereine), không phải một mẩu ác mộng mà sự chân thành của ông đã đọc
cho ông
nghe.]
Jennifer Tran
THE
VULTURE
A
vulture was hacking at my feet. It had
already torn my boots and stockings to shreds, now it was hacking at
the feet
themselves. Again and again it struck at them, then circled several
times
restlessly round me, then returned to continue its work. A gentleman
passed by,
looked on for a while, then asked me why I suffered the vulture. "I'm
helpless," I said. "When it came and began to attack me, I of course
tried to drive it away, even to strangle it, but these animals are very
strong,
it was about to spring at my face, but I preferred to sacrifice my
feet. Now
they are almost torn to bits." "Fancy letting yourself be tortured
like this!" said the gentleman. "One shot and that's the end of the
vulture." "Really?" I said. "With pleasure," said the
gentleman, "I've only got to go home and get my gun. Could you wait
another half hour?" "I'm not sure about that," said I, and stood
for a moment rigid with pain. Then I said: "Do try it in any case,
please." "Very well," said the gentleman, "I'll be as quick
as I can." During this conversation the vulture had been calmly
listening,
letting its eye rove between me and the gentleman. Now I realized that
it had
understood everything; it took wing, leaned far back to gain impetus,
and then,
like a javelin thrower, thrust its beak through my mouth, deep into me.
Falling
back, I was relieved to feel him drowning irretrievably in my blood,
which was
filling every depth, flooding every shore.
Kafka
*
Chỉ có một con người trơ ra
(a
single man) ở trong tác phẩm của ông: the homo domesticus
Tuyệt!
Cũng ý đó, Benjamin phán, Kafka [Samsa], mơ thành bọ ở trong nhà của
mình.
Còn Alain thì phán:
Nơi chốn treo lủng lẳng ở cổ con người, như một sự trừng phạt.
*
Quán, Mái Nhà Xưa. Sài-gòn,
Sài-gòn...
Le domicile est suspendu au
cou de l'homme
Comme
une punition
Alain
*
Vả chăng, Kafka chỉ muốn viết một tác phẩm hạnh phúc và thanh thản
(sereine), không phải một mẩu ác mộng mà sự chân thành của ông đã đọc
cho ông
nghe.
Tuyệt! NQT
Cúi
xuống là đất
Nguyễn
Ngọc Tư
Sông Đông Êm Đềm
Trong cuốn Những Người Vô Hình,
Les Invisibles, bản dịch tiếng Pháp, Solz dành một chương viết về cái
vụ
đạo văn
của ông Trùm văn nghệ của Đảng. Sau khi Gorki ngỏm, Cholokhov
được thăng chức nhà văn số 1 của Liên Xô. Không phải chỉ là uỷ viên
Trung Ương,
mà còn là tiếng nói nhập thân sống động của nó, và khi ông cất lời tại
Đại Hội Đảng,
và tại Xô Viết tối cao, thì đó là tiếng nói của Nhân dân, và của Đảng.
Solz cho biết, ngay từ khi còn
nhỏ, ông đã nghe những lời xầm xì, nhưng đến mùa hè năm 1965, qua
một người
quen cho ông biết, nhà văn Pétrov-Biriouk đã kể chuyện đạo văn này tại
câu lạc
bộ văn hóa [restaurant de la Maison des Lettres]. Vào khoảng năm 1932,
lúc đó ông
ta là chủ tịch hội nhà văn vùng Azov-mer Noire, một người trình diện
ông, và
tuyên bố, ông ta có trong tay, chứng cớ, Cholokhov không phải
là người
viết Sông Đông Êm Đềm.
Pétrov-Biriouk nói, làm gì
có chứng
cớ quái quỉ như vậy? Và người đó bèn để lên bàn bản thảo, [le
brouillons, bản
nháp] cuốn Sông Đông, trong khi Cholokhov luôn luôn ca cẩm ông làm mất
bản thảo.
Nó ở trước mắt tôi, viết bằng
một thứ chữ viết tay khác hẳn chữ của nhà văn nhớn Nobel văn học của
chế độ Đỏ.
Petrov-Biriouk, đặt ra ngoài
những tình cảm cá nhân của mình với ông nhà văn số 1 của Đảng (ông
nghi, vào thời
gian đó, Cholokhov rất sợ nếu có người khui ra chuyện này], bèn gọi
điện thoại
cho cơ quan lo tuyên truyền của Đảng vùng. "Cái
tay đó đâu,
đưa lên gặp chúng tôi, cùng với bản thảo."
Và anh chàng đó biến mất, cùng
với bản thảo!
Ông chủ tịch nhà văn miệt vườn
giấu kín câu chuyện trên, và chỉ đến khi gần chết mới dám khui ra, nhân
một lần
nhậu say, vậy mà cũng phải nhìn quanh quẩn coi có thằng nào nghe lén
không.
Solz cho biết, cũng vào năm
1965, tại thành phố quê hương của ông, vùng Rostov-sur-le-Don,
Molojavenko có viết một bài về vụ F.D. Krioukov [không biết có phải
cái ông
Biriouk trên?]
[Số phận run rủi, sau đó, Solz
có dịp được đọc tập bản thảo nói trên, qua một trong những ‘người vô
hình'. Đọc, ông thực sự tin là thứ thiệt, và Cholokhov chắc chắn đạo
văn. Khi tố cáo vụ này, ông cũng nghĩ như... DTH, để trả thù cho cái
ông tác giả thực sự của cuốn Sông Đông]
*
Đúng
là Hoàng Ngọc Hiến
có quý nhân phù trợ thật.
Hồi
Hiến sang Mỹ, có một
bọn Việt kiều chống cộng quá khích định hành hung anh. May sao lại có
một thượng nghị sĩ Mỹ phái một vệ sĩ của ông ta tới bảo vệ - Mới đây
Hiến kể với tôi như vậy.
Nguồn: Hồi ký NDM
No còm!
Salman Rushdie
Những
đứa con giờ Tý
|
|