Diary
|
tặng cho em nguyên
một đóa
trăng rằm
thôi
câu chuyện tình nói cho
nhiều rồi cũng vậy
trăm
năm dài rồi sẽ đụng
nghìn năm
tất
cả qua đi, điều gì còn ở
lại
một
đóa hoa quỳnh trong cõi
trăm năm
NBS
Gấu
có nhớ nhà không?
Một thời để yêu, để
hát, và để chết
Thư tín
Thư của NVK
Note: Gấu post thư, và quá
ngạc nhiên, và xấu hổ nữa, vì giọng thư quá lịch sự, trong khi Gấu viết
về nhà
biên khảo thật là chẳng nể nang gì hết!
NQT
Và xin trả lời v/v NMG:
Gấu này chẳng hề nhớ, đã từng
phạng NMG, chỉ tới khi qua Cali, nghe họa sĩ HTD
nhắc lại, vẫn bán tín bán nghi, phải hỏi lại
NMG. Ông xác nhận có vụ
đó, nhưng ông cho biết, bài viết rất đàng hoàng! Sau, Gấu cũng nhớ ra
là, Gấu
này không những chê, mà còn "tiên tri", NMG không thể viết được
truyện dài, và rồi cứ băn khoăn hoài, dựa vào cái gì mà ngày đó dám
liều như
thế, và không hiểu, chính vì phán như thế, nên NMG mới tức đến điên lên
và nhờ
vậy, đẻ ra được, không chỉ một, mà hai đại trường thiên tiểu thuyết,
một thứ
saga, về Sông Côn, mùa biển động, và mùa lũ. Mùa lũ, con sông đẻ ra
Quang
Trung. Mùa biển động, HPNT!
*
Đa tạ, thư.
Kính. NQT
*
Kỷ niệm về một lần đụng độ,
tôi quên sạch. Cho tới khi ngồi tại nhà một ông bạn họa sĩ, với ông bạn
mới
quen, Vũ Huy Quang, vừa là tài xế tắc-xi vừa là một khám phá tuổi già
đối với
tôi, về một tình bạn chẳng cần quen biết trước. Ôi quá nửa đêm, nghĩa
là đã
sang ngày hôm sau, ông bạn này cố níu kéo đêm hôm trước, bằng cách tới
tận cửa,
réo dậy đi mày, đi uống bia với tao. "Ông bà ấy ngủ rồi...". Chơi với
Vũ Huy Quang là nhiều lúc bực mình lắm đấy, hắn có thể tới 'mộ' mình
dựng dậy,
nếu cần, chỉ để đi uống với nhau một lon bia; ấy là tôi suy diễn nỗi
bực rất
đáng yêu, về người bạn vừa mới gặp đã xoắn xuýt lấy nhau này, qua lời
cảnh cáo
của vị chủ nhà.
Khi nghe tôi nói hiện đang ở
tại... ông bạn họa sĩ la lớn: Quên rồi hả, hồi xưa mày "đập" anh ta
nặng lắm mà? Tôi ngớ người, không nhớ là đã đụng độ với ông bạn chủ nhà
trong
trường hợp nào. Ôi chao, lần tới Cali đầu tiên lại là lần phải đối diện
với quá
khứ, những ngày tuổi trẻ hăng máu Đông Ky-xốt, bạ ai cũng đập, chẳng
cần có lý
do gì hết. Hoá ra lần này phải trả cả vốn lẫn lời!
Thấy mặt tôi buồn so, ông bạn
họa sĩ lại còn gật gù: "Phê bình" là phải vậy! Mũi tên đặt trên cây
cung, phải bắn thôi!
Sau đó, tôi hỏi lại ông bạn.
Ông xác nhận có, nhưng đó là một bài phê bình thực sự, không có ác ý.
Thực sự,
nhưng sai, theo ông. Qua bài viết, tôi cho rằng ông không thể viết
truyện dài,
nhưng ông là tác giả của hai thiên truyện dài tại hải ngoại.
Một chuyến đi
Tình đầu
Like
the Coleridge hero who
wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these
objects were
not of the second world, which had brought me so much contentment as a
child,
but of a real world that matched my memories.
Như
nhân vật của
Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của
giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong Tứ
Khúc thì
không
phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và
chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.
Bởi
vì
đây là một hồi ức, tôi
phải giấu tên của nàng, và, nếu như phải gọi tên nàng ra, để cho đỡ
nhớ, thì
tôi sẽ đưa ra một đầu mối, theo kiểu của những nhà thơ Divan thường sử
dụng,
nhưng tôi phải gợi ý thêm ở đây, là, đầu mối này, như tất cả phần còn
lại của
câu chuyện của tôi, sẽ có thể khiến bạn lạc đường.
Tên của nàng là Bông Hồng
Đen, theo tiếng Ba Tư, nhưng, theo như tôi biết, cho tới nay, chẳng có
ai trên
bến cảng Sài Gòn, nơi mà chiều chiều, nàng vô tư nhảy xuống tắm biển,
và chẳng có
ai trong số bạn học của nàng ở trường trung học của người Pháp, để ý
đến chuyện
tên nàng là Bông Hồng Đen, ấy là vì, mớ tóc dài long lanh sáng ngời của
nàng
thì không phải mầu đen mà là mầu hạt dẻ, và cặp mắt nâu của nàng thì
cũng mầu
hạt dẻ, nhưng xẫm hơn một chút, so với mầu tóc.
Khi tôi thật khôn khéo, thật
tế nhị, nói với nàng, tên nàng có nghĩa là Bông Hồng Đen theo tiếng Ba
Tư, nàng
nhướng mày, nàng luôn làm như vậy, mỗi khi nàng đột nhiên trở nên
nghiêm túc,
và, trề môi ra một tí, nàng nói, lẽ dĩ nhiên, nàng biết tên của nàng có
nghĩa
là gì, và nàng nói thêm, tên của nàng là được đặt theo tên của bà nàng,
một phụ
nữ người Albanian.
Về “bà phu nhân” đó, tức mẹ
nàng, theo như mẹ tôi cho biết, bà chắc hẳn đã lấy chồng rất sớm, bởi
vì khi
anh tôi được năm tuổi, tôi, ba tuổi, vào những buổi sáng mùa đông, mẹ
tôi đưa
hai anh em chúng tôi tới công viên Macka Park, ở Nisantasi, mẹ tôi đã
nhìn thấy
cô bé con cùng bà mẹ, chẳng khác chi một thiếu nữ, và cô thiếu nữ đã
làm mẹ này
thì đang dỗ cô bé con ngủ - tức là “nàng” - nằm trong một cái xe đẩy
thật
lớn. Mẹ tôi có lần nhắc tới chuyện, bà
của cô bé, người Albanian, xuất thân từ hậu cung của một vì pasha, ông
này,
hoặc đã làm một điều gì hết sức bậy bạ, trong những năm ngưng chiến,
hay tự hạ
nhục chính mình, khi chống đối Ataturk, nhưng tôi chẳng có một chút
quan tâm
nào tới những biệt thự có từ thời Ottoman đã bị đốt rụi, hay những gia
đình đã
từng ở trong đó, cho nên tôi chẳng nhớ chính xác chuyện này ra sao. Còn
cha
tôi, ông nói bằng một giọng nói chẳng có vẻ chi thù nghịch hay khinh
khi, cha
của cô bé Bông Hồng Đen, đã nhanh chóng trở nên giầu có trong thời kỳ
Đệ Nhị
Thế Chiến, nhờ những làm ăn, chuyển nhượng với những công ty Hoa kỳ và
Hà lan
mà ông ta là một người đại diện, và nhờ những nhân vật có thế lực, ảnh
hưởng,
trong chính quyền, mà ông ta quen biết.
Tám năm sau cuộc gặp gỡ của
chúng tôi tại công viên, khi gia đình tôi mua một căn nhà ở khu
Bayramoglu, một
nhà nghỉ mùa hè ở phía đông thành phố, rất thời thượng đối với những
nhà giầu
mới nổi vào thời kỳ thập niên 1960 và 70, và vào lúc này, tôi có thể
nhìn thấy
nàng cưỡi xe đạp. Vào thời đại hoàng kim của thành phố, khi vùng này
chưa phát
triển và vắng người, vào những buổi đẹp trời, tôi thường tắm biển, hay
dùng
thuyền đi ra xa phiá bên ngoài, thả lưới, bắt cá thu, cá song, hay chơi
đá banh
trên bãi biển, và vào những buổi chiều mùa hè, khi tôi đã được mười sáu
tuổi,
khiêu vũ với mấy cô gái. Tuy nhiên, sau đó, khi tôi học xong trung học,
và đã
bắt đầu học về kiến trúc, tôi có thói quen ngồi trên sàn nhà, tầng
chệt, vẽ và
đọc. Với đám bạn con nít nhà giầu của tôi, chúng gọi bất cứ ai đọc bất
cứ một
cuốn sách nào ngoài những cuốn sách, cuốn tập của nhà trường, là một
nhà trí
thức, hay một nhân vật mờ ám bị “bủa vây bởi những mặc cảm”. Lời bình
phẩm thứ nhì,
như trên, họ thường nói bừa bãi – và nó có thể còn có nghĩa, bạn có
những vấn
đề tâm lý, bạn bị mát, hay cũng có thể, bạn bị lo âu về vấn đề tiền
bạc. Tôi
thì thực sự lo âu, khi bị dán cho cái nhãn “trí thức”, bởi vậy, hy vọng
thuyết
phục đám bạn nhí nhà giầu, mình không phải là một thứ hợm hĩnh, trưởng
giả học
làm sang, và bất lực, tôi bắt đầu nói với chúng, tôi đọc những cuốn
sách của
tôi – Woolf, Freud, Sartre, Mann, Faulkner của tôi – “chỉ để dzui thôi
mà” [như
bạn hiền ĐT từng nói], tuy nhiên, đám đó lại truy tiếp, "dzui thôi
mà" sao gạch đít gạch chân tùm lum, tà la nhiều đoạn?
Chính là thứ tai tiếng như
trên đã khiến cho nàng để ý đến Gấu tui, vào một mùa hè muộn màng -
điều này,
mặc dù sự kiện, tất cả mùa hè đó, hay tất cả những mùa hè, trước khi
tôi trải
qua nhiều thì giờ với đám bạn bè, hai đứa chúng tôi gần như chẳng ai
thèm đề ý
đến ai.
Khi tôi cùng đám bạn, vào
giữa đêm khuya, kéo nhau đi nghe nhạc discos, như là một bầy con trai
trai hạnh
phúc, hay chạy xe (đôi khi đụng xe), trên những chiếc Mercedes,
Mustang, hay
BMW, chủ xe là một người nào đó, trên Đại lộ Badat (khi đó được gọi là
Đại lộ
Công viên của thành phố Á châu, chỉ cách chỗ ở của chúng tôi chừng nửa
giờ),
hay là chúng tôi dùng ghe máy chạy ra một mỏm đá trơ trọi, ở đó, chúng
tôi bầy
ra những hàng vỏ chai soda hay rượu vang, rồi dùng súng săn, thứ thật
bảnh, của
mấy ông bô giầu có, chúng tôi chơi trò bắn bia, và cố gắng làm cho mấy
cô gái
đừng hoảng sợ la thét lên, hay chúng tôi nghe Bob Dylan, hay Beatles,
trong khi
chơi bài poker, Monopoly, Bông Hồng Đen
và tôi, khi đó, chẳng ai thèm để ý đến ai.
Đám thanh thiếu niên ồn ào,
náo động là lũ chúng tôi đó dần dần rã ra cùng với mùa hè kết thúc, và
rồi
những cơn bão lodos chợt tới với thành phố, quất túi bụi lên những bến
cảng vào
mỗi tháng Chín, đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy chậm
chân. Trong
khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười bẩy tuổi,
chẳng biết
làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà tôi thường ngồi vẽ,
vào những
giờ phút trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật xứng đáng
với nàng:
xưởng họa của Gấu. Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh thoảng ghé,
cũng bầy
đặt thử tài hội họa, này, đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy vẽ,
trong khi
nhìn, với cặp mắt đầy nghi ngờ, những cuốn sách của tôi, và chuyện này
thì cũng
chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu hết đám
chúng tôi
sống ở Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ, Bông Hồng
Đen cũng
cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.
Vào lúc bắt đầu, chúng tôi
chia sẻ với nhau ba chuyện ngồi lê đôi mách, những câu chuyện thuộc
loại rỉ tai
lưu truyền trong đám bạn bè mùa hè vừa qua - đứa nào mê đứa nào, và đứa
nào vì
vậy mà ghen đến điên lên – tuy nhiên, tôi thực sự chẳng để ý đến mấy
chuyện đó.
Bởi vì nhiều khi tay tôi dính sơn, cho nên, có khi, nàng giúp tôi pha
trà, hay
mở một tuýp mầu, trước khi trở về chỗ của nàng hay ngồi, ở một góc
phòng, và,
đá văng đôi giầy ra khỏi đôi bàn chân, nàng nằm dài ra sô pha, lấy một
cánh tay
làm cái gối. Một bữa, không nói với nàng, tôi đi một đường ký họa, cảnh
nàng
nằm dài trên sô pha. Tôi nhận thấy, nàng có vẻ thích, và thế là lần
tới, tôi
chơi thêm một bức ký họa nữa.
Lần tới, khi tôi nói, tôi sẽ
vẽ nàng, nàng hỏi, “Anh muốn em ngồi như thế nào?” như một kiều nữ
chưa từng
bao giờ đứng trước máy quay phim, hay như một ngôi sao nho nhỏ ước ao
sẽ có
ngày trở thành minh tinh, run run, không biết để tay để chân như thế
nào, và ở
đâu.
Khi tôi ngắm nghiá cái mũi
dài của nàng, để vẽ làm sao cho thật tới, một nụ cười như thấp thoáng
nở ra
trên miệng nàng; ôi trán nàng mới cao làm sao, nàng thì cao, với đôi
chân dài,
mầu nắng hun, nhưng khi nàng đến thăm tôi, nàng mặc một cái váy dài, bó
sát
người, thật nhã, chiếc áo này là của bà nàng truyền lại, thành thử tôi
chỉ nhìn
thấy đôi bàn chân thon thon của nàng. Trong khi phác hoạ, trong khi
trầm tư, chiêm
ngưỡng những làn cong mềm mại của hai trái cau, hay hai trái đào, hay
hai gò
bồng đảo nho nhỏ, và làn da trắng một cách lạ thường nơi cổ cao, một
cái bóng
của ngượng ngùng, của tủi thẹn, bỗng nhẹ nhàng bay qua trên khuôn mặt
thiên
thần.
Vào những lần đầu đến thăm,
chúng tôi nói chuyện thật nhiều, và nàng là người hay nói. Bởi vì tôi
gạn lọc
ra, một chút mây mù ở trong đôi mắt, và trên đôi môi của nàng, và nói
như giao
hẹn, này đừng có bao giờ buồn như vậy nữa nhé, và nàng như được dịp, xổ
tung
ra, những trận cãi cọ giữa hai đấng sinh thành, và những trận thư hùng
giữa bốn
ông em trai, và những sự trừng phạt của ông bố đối với tụi em của nàng
(những
cái bạt tai, đá đít, cấm ra khỏi nhà, cấm “ra biển gọi thầm”, trên
những chiếc
thuyền máy) – và nỗi buồn bã, xót xa của bà mẹ khi ông bố lo săn đuổi
những
người đàn bà khác, nàng nói, nàng nói chuyện đó, vì nàng biết mẹ nàng
và mẹ tôi
là hai bạn chơi bài, và cũng đã từng than thở với nhau nhiều lần, về
chuyện hai
ông bố cùng mê chạy theo gái, và khi nói những chuyện đó, nàng nhìn
thẳng vào
mắt tôi.
Dần dần, cả hai đứa chúng tôi
chìm vào im lặng. Có những lần, khi tới thăm, nàng bước thẳng tới chỗ
nàng
thuờng hay ngồi, hay nàng sẽ ngồi, nơi ngồi làm mẫu (những bức ký họa
của tôi
thời gian này ảnh hưởng nặng nề Bonnard), hay nàng sẽ mở ra coi một
cuốn sách
tình cờ có đó, và nằm đọc trên sô pha, lâu lâu đổi cách nằm. Những lần
sau này,
vẽ hay không vẽ, thì cũng thành lệ: nàng gõ cửa, và đi vô phòng, chúng
tôi cũng
chẳng nói chi nhiều ngoài một hai câu chào hỏi, và tới nằm tại một góc
sô pha,
và đọc cuốn sách của nàng mang theo, đôi khi, từ một khoé con mắt, nàng
nhìn
tôi đang vẽ nàng. Sáng nào cũng vậy, cũng thành lệ, làm việc được một
chút, là
tôi nghĩ tới nàng, và tự hỏi, khi nào nàng tới, và như thể nàng cũng
biết như
vậy, cho nên ít khi nàng bắt tôi phải chờ đợi lâu, và khi nàng tới, là
tới cùng
với nàng nụ cười, hơi có vẻ bẽn lẽn, và trong một dáng điệu như muốn
bầy tỏ, này
hãy tha lỗi cho em, nếu em có làm phiền gì đến anh, nếu em có đến muộn,
và
trong cái dáng điệu hãy bỏ qua cho em như thế đó, nàng tới góc sô pha
quen
thuộc, và trải người nằm xuống.
Một trong những đề tài rất ít
khi được nhắc tới, là tương lai. Theo nàng, tôi là một người có tài, và
cần cù,
chịu khó cho nên chắc chắn sẽ trở thành một họa sĩ nổi tiếng – hay là
một họa sĩ
Thổ nhĩ kỳ nổi tiếng? – và nàng sẽ cùng bạn bè người
Pháp của nàng gia nhập vào đám đông ngày
khai mạc phòng tranh
của tôi tại Paris,
và sẽ hãnh diện nói với mọi người, tôi là “bạn thời trẻ thơ” của nàng.
Một buổi chiều, chúng tôi rời
xưởng họa đã chập choạng tối, và cùng nhau đi bộ lần đầu tiên, mượn cớ
ngắm thành
phố mà cơn mưa vừa tạnh làm sáng rực lên, trong hẳn ra, và nhìn cây
cầu vồng cơn mưa bỏ lại đằng sau nó, ở phía bên kia bán đảo. Tôi nhớ là
chẳng ai
cất tiếng nói. Chúng tôi cũng ngài ngại, sợ gặp người quen, hoặc đụng
đầu bà mẹ,
bà nào thì cũng khổ, trong khu phố vào cuối mùa hạ chỉ còn chừng một
nửa cư dân
của nó. Nhưng, điều làm cho cuộc du ngoạn tiên của hai đứa chúng tôi
‘không thành
công’, thì không phải là cây cầu vồng biến mất trước khi chúng tôi kịp
ngắm nó,
nhưng mà là sự căng thẳng ngấm ngầm giữa hai chúng tôi. Đó cũng là lần
đầu tiên,
trong khi đi sóng đôi trên đường phố tôi nhận ra, cổ nàng mới cao làm
sao, và cái
dáng đi của nàng mới làm hài lòng tôi đến thế nào. Thảo nào mà người ta
nói, yểu
điệu thục nữ!
Vào buổi chiều Thứ Bẩy sau cùng
của hai đứa chúng tôi, chúng tôi quyết định cùng đi ra ngoài, cũng
chẳng nói
cho bất cứ ai, trong số bạn bè tò mò, không quan trọng còn ở trong khu
vực. Tôi
hỏi mượn xe của cha tôi, và tôi thật là bồn chồn. Nàng có trang điểm,
mặc một
chiếc váy ngắn, và mùi nước hoa thoang thoảng trên xe một thời gian sau
đó, và
trước khi tới chỗ vui vui mà chúng tôi tính tới, tôi đã ngửi ra mùi vị
‘thất bại’
của chuyến đi lần trước, và cái bóng ma làm hỏng chuyến đi vẫn lẩn quẩn
đâu đây.
Quán nhạc disco tuy chỉ có chừng
một nửa số khách, nhưng cũng rất ồn, trong khi chúng tôi cố gây lại,
không khi êm
đềm của những buổi gặp mặt tại xuởng vẽ của tôi, và nhờ vậy, có lại
được vẻ tự
nhiên, nhưng vô ích và tới lúc đó, tôi mới nhận ra, chúng mới sâu thẳm
làm sao ở
trong tôi. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn khiêu vũ, theo tiếng nhạc chậm. Bởi
vì tôi đã
từng thấy những cặp khác làm như vậy, và tôi vòng tay qua lưng nàng, ôm
nàng thật
sát vào tôi, như thể, do bản năng thúc đẩy, và tôi nhận ra, tóc nàng
đượm mùi trái
hạnh. Và tôi nhớ ra, mình đã thật quá yêu nàng, nhất là đôi môi, khi
nàng nhẹ
nhàng nhấm nháp một món gì đó, và những lúc nàng băn khoăn, ngần ngại,
hoặc có
gì lo lắng, trông nàng thật giống một con sóc
Trước khi đưa nàng về nhà, tôi,
nhân một lúc im lặng, mở lời, “Hay là chúng mình ghé xưởng họa, anh sẽ
vẽ em?”
Tuy không có vẻ sốt sắng, nàng vẫn gật đầu, nhưng khi chúng tôi bước,
tay trong
tay, vô khu vườn tối, và nhìn về xưởng họa, thấy có ánh đèn - có ai ở
đó ? – và
nàng thay đổi ý định.
Nàng đến thăm tôi cả ba buổi
chiều ba ngày sau đó - nằm xoải người trên sô pha, nhìn tôi đang vẽ,
nhìn vô những
trang giấy, của cuốn sách của nàng đang cầm trên tay, nhìn biển hơi gợn
sóng ở phía
bên ngoài – và rồi rời căn phòng, lặng lẽ, chẳng quấy rầy ai, như khi
tới.
Orhan
Pamuk
|
|