Diary
|
Chú
Tiểu Richie
Vietnam.net
"chơi" một bản dịch của Tin Văn.
Cám ơn. NQT
Thưa đây:
Kertesz: Diễn văn Nobel
“Khi
tôi 20” bị Nhà nước VC cấm
đem đi đấm nước người, tại Liên Hoan Phim tại Venise.
Nguồn
Đời
gọi em biết bao lần!
“Khi tôi hai mươi”
của đạo
diễn Phan Dang Di 32 tuổi, thuật câu chuyện tình hơi đặc biệt trong một
Việt
Nam hiện đại, của một cặp trẻ, cô gái làm gái, bạn trai biết, để sống
và nuôi
sống bà của cô.“Hình ảnh mà cô gái chuyển tải, cách sống của cô, những
hành xử
của cô thì đi ngược lại phong tục, tập quán, truyền thống của người
Việt”, Trùm
điện ảnh VC tuyên bố, khi cấm đem phim đi đấm xứ người. Phim thực hiện
cách đây
hai năm. Và đã được kiểm duyệt, khi đó. Thấy giá trị kỹ thuật của phim,
chế độ
CS cho phép chiếu hạn chế trong giới nhà nghề và sinh viên, đếch cho
chiếu tại
rạp. Nhưng trong LHP Cannes vừa qua, tay đạo diễn mang cô gái điếm của
mình
tới trình diện mong kiếm Mạnh Thường
Quân tài trợ chơi một phim dài hơi, và đám sành điệu ở đây ngửi ra liền.
Lần này, tay đạo
diễn đồng ý
“thiến” cô gái, ở những xen nhạy cảm, để cầu may thêm một lần nữa. Vô
ích, Trùm
VC phán, “nội dung còn nguyên xi”.
Trần Anh Hùng, nhà
đạo diễn
Việt Pháp nổi tiếng, người vừa được Murakami chọn mặt gửi vàng, tác giả
những
cuốn phim hách xì xằng như Xích lô, Mùa hè thẳng đứng, Mùi đu đủ xanh,
tuyên bố, chỉ có mấy thằng ngu mới coi những xen “nhạy cảm” đó là “thô
bỉ”.
“Nhạy cảm”, theo ông, tiếng Tây kêu là “grande sensualité”: Có một sự
quyến rũ,
một sự khả ái không thể tưởng được, ở trong những nhân vật, và
trong
cách quay phim”. Tay đạo diễn Phan Dang
Di phán, giả như phải làm lại
phim, tôi sẽ làm lại y chang.
Theo Hélène Favier
Note:Tin giờ chót, Ban Tổ Chức LHP Venice OK chiếu, đếch thèm biết đến
Trùm VC là thằng củ xê nào!
*
Đi về đâu hỡi em,
Khi trong lòng không chút nắng?
TCS
Thì đi dự LHP Venice
chứ đi đâu!
Voir Venise et mourir!
Đi Venise rồi về chết với VC!
'Bứt phá ngoạn mục'
Trong bài điểm sách giữa
tháng Tám, nhà phê bình Vũ Nho cho hay đây là dự án “dồn hết tâm lực
của một
đời cầm bút” của người từng đoạt giải thưởng Hội nhà văn với cuốn Thuỷ
hoả đạo
tặc (1997).
Ông khen cuốn sách là “một
bứt phá mới ngoạn mục” và nó “sẽ được độc giả đón nhận nồng nhiệt”.
Trong khi đó, người ký tên
Phương Ngọc viết trên báo mạng Vietimes ngày 24 tháng Tám:
“Chỉ chấm phá thêm đôi nét
nhưng cũng đủ để khép lại một giai đoạn văn học vết thương về Cải cách
ruộng
đất, mà sau này các tác giả khác không nhất thiết phải quay lại.”
Tác giả khen tiếp: “Lần đầu
tiên trong văn chương đương đại, sự kiện Nhân văn giai phẩm và cuộc đấu
tranh
với bè lũ Xét lại hiện đại, cũng như cuộc vượt biển di tản của gần hai
triệu
người, được nhà văn đề cập đến với cái nhìn điềm tĩnh và xa xót của một
người
có đủ độ lùi thời gian để phân tích, lý giải, đặng trả lại cho những
nhân vật
trong cuộc bức chân dung thật của họ”.
Nhưng sau khi sách bị thu
hồi, bài này đã biến mất trên trang mạng tờ báo trực thuộc VietNamNet.
Tiểu thuyết Thời của thánh
thần được nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.
Thông tin trong sách ghi
người chịu trách nhiệm xuất bản là Giám đốc Trung Trung Đỉnh, chịu
trách nhiệm
bản thảo, ông Nguyễn Khắc Trường.
Người biên tập cuốn sách là
nhà văn Tạ Duy Anh, bản thân từng viết tiểu thuyết cũng bị thu hồi năm
2002,
"Đi tìm nhân vật".
Ông Hoàng Minh Tường, hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam, sinh năm 1948 ở Hà Tây, tốt nghiệp cử nhân
Địa lý.
Nguồn
Note: Cùng dân Sơn
Tây với Gấu. Thú thật! Tay nào điểm cũng bảnh thật!
No
single imagination can
truly own a city, so when we speak of Proust’s Paris
, Joyce’s Dublin , Musil’s Vienna
and Lawrence Durrell’s Alexandria
, we are really clearing a space in our minds where specific happenings
and
feelings may be identified and reconvened. It is these novelists’
pressing need
to set their narratives down in some palpable place, almost as aliens
colonizing
a territory, rather than a compulsion to celebrate their country or
fictionalize an already famous vicinity that leads to their iconic
inventions. Nguồn
K dịch giùm, Tks. NQT
Không
một đầu
óc tưởng tượng nào, một mình nó, có thể thực sự sở hữu một thành
phố đâu,
bởi thế khi chúng ta nói đến Paris của Proust, Dublin của Joyce, Vienna
của Musil
và Alexandria của Lawrence Durrell, là chúng ta đã dọn sạch một chỗ
trống trong trí óc chúng
ta sẵn sàng để cho những sự kiện và cảm xúc đặc thù nào đó
được nhận diện
và gom góp lại . Chính vì sự cần thiết phải sắp đặt những tình
tiết chuyện
kể của các nhà văn này vào một nơi chốn có thể chạm tay
tới
được, gần như theo kiểu ngoại nhân tìm cách chiếm hữu một vùng đất nào
đó làm
thuộc địa, hơn là ý hướng thăng hoa đất nước mình, hoặc tiểu
thuyết
hóa một khu vực đã nổi tiếng sẵn, đã dẫn dắt họ đến những sáng tạo đầy
biểu
tượng.
Tks
Cau nay hay qua, ma kho dich
qua
Nhat la khuc sau.
Tks again
NQT
TB:
Đang chạy nước rút với Istanbul.
NQT
Hà-nội chết theo mối
tình
đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc trưởng thành, là tiếng khóc
chào
đời. Đó còn là nỗi sợ hãi đời sống, và mong muốn có một người cùng chia
sẻ.
Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản ứng của cơ thể trước sự thay đổi của
thời tiết.
Đứa nhỏ tuy đã quen với nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao
quên được
những đợt gió bấc lạnh buốt. Hình như bằng những xôn xao, những mơ hồ
như vậy
tôi viết cho Lan Hương những dòng cuối cùng: "Anh không sợ chúng ta
không
yêu thương nhau nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá".
Note: Câu văn trên, và cả cái truyện, Lần
Cuối Sài Gòn được viết tại Trại
tị nạn Thái
Lan, cc 1989-90.
Khi tờ LV ở Canada vô được Trại Cấm, một anh nhóc, đọc
câu chót, phán, khủng khiếp
quá!
"Anh không sợ chúng
ta
không
yêu thương nhau nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá".
Xạo hết chỗ nói, tới cỡ đó, mà vẫn mất em như thường!
.. một cuốn tiểu thuyết của Durrell,
nàng tặng chàng... vào đúng dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật
lần thứ ba
mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme” Thời Gian
Bài trên TLS, số 22 & 29
Tháng Tám, 2008, “Những tân thánh kinh”, Karl Orend điểm một số sách
mới ra lò
về Miller, đưa ra câu hỏi, nếu ông ta là sư phụ của... PCT, thì
sư phụ của ông ta
là ai ? Và nếu những xen làm tình ở trong những tác phẩm của ông, thì
cũng giống
như những phép lạ của Chúa
Ky Tô, ông là
tín hữu Ky Tô, hay đệ tử của
Phật ?
Cuốn “Sự tạo thành một thần tượng
phản văn hóa”, của Maria Bloshteyn [Nhà xb Toronto Press, 262
trang, 60 US],
còn có tiểu
tít là “Dostoevsky của Henry Miller”, được coi là một thành tựu lớn
lao, quan
trọng trong trường văn chương so sánh. Nữ tác giả này thật liều cùng
mình [It
requires courage], khi coi một tác giả ở ngoài luồng đối với định chế
văn chương
Mẽo, tức Miller, là đề tài, và nghiên cứu, tìm hiểu sự liên hệ với một
tiểu thuyết
gia được
coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 19: Dos.
Bloshteyn, thật
nghiêm trọng, khi coi Miller "như là một nhà
văn". Mục tiêu của bà, là phám phá, khai triển, điều, bằng cách nào ông
ta
[Miller], Durrell, và Nin, được tạo hứng bởi Dos, về tư tưởng, và
về văn phong.
Bạn của Miller, là Karl
Wickens, có bà vợ là Beatrice, bà này vặc ông chồng, tại sao anh đối xử
với
Miller như là bạn quí, mà ngược lại, ông ta đếch coi anh là cái thứ chó
gì, ông
chồng nghiêm trang trả lời vợ: Anh tin rằng Miller sẽ là một Dostoevsky
của Mẽo
[Gấu bỗng tự hỏi, tại sao PCT không là một Dos của Mít?].
Bloshteyn chứng tỏ, cả
ba đều đọc sai Dos, vì dụng ý của riêng họ. [Bloshteyn shows how
Miller, Durrell and Nin all ‘misread’ Dos in line with their own bias
and needs]
*
Hai bài viết, một,
điểm những
cuốn sách mới ra lò liên quan tới bộ ba Miller, người tình, Nin, và
bạn,
Durrell, và một, giới thiệu ấn bản mới nhất sắp ra lò của Tứ Khúc
Alexandria, đều
tuyệt. Tin Văn làm link và scan, hy vọng sẽ có dịp chuyển ngữ hầu độc
giả.
Tứ
Khúc Alexandria
Two poems from his
Alexandrian period are keys to the Alexandrian tetralogy: “On First
Looking
into Loeb’s Horace” and “Alexandria”.
The second of these is really a poem against the city, or more
correctly a
lament by an exile from Europe
reacting to the
place of his confinement; it ends sadly and lyrically.
So we, learning to
suffer and
not condemn
Can
only wish you this great
pure wind
Condemned
by Greece, and
turning like a helm
Inland
where it smokes the
fires of men,
Spins
weathercocks on farms
or catches
The
lovers at their quarrels
in the sheets;
Or
as a walker in the
darkness might,
Knocks
and disturbs the
artist at his papers
Up
there alone, upon the alps
of night.
It was on these very
“alps of
night” that Durrell was to analyse the lives and actions of his people,
often
encountered as walkers in the darkness, and fit them into an uncertain
world,
like insects caught in amber.
Lần
trò
chuyện cuối cùng với
Mai Thảo
Little Saigon,
Nghiêm,
Thảo Trường, và tôi
Thảo
Trường: Phải luôn luôn
nhớ rằng...
Theo một nghĩa chung, và rất
đỗi thiêng liêng, tên gọi Little Saigon có, ngay sau khi thành phố mất.
Nhưng xét về mặt tầm nguyên học, Nghiêm (1), ông bạn
tôi,
là người thực sự khai sinh ra nó.
Anh đi ngay hồi 1975, do phút chót gặp may. Ở lại
chắc
"chết": ông thân anh mất năm 1954 ("có thể có bàn tay CS, nhưng
không phải thủ tiêu", như Nghiêm xác nhận với tôi).
Tôi nói đùa:
-Tớ với cậu như vậy là hai kẻ
thù.
Thấy anh tỏ vẻ ngạc nhiên,
tôi giải thích:
-Ông già tớ bị
"Đảng" của cậu thủ tiêu.
Thấy anh có vẻ lúng túng, tôi
"hoà giải":
-Nhưng ông anh rể tớ (2) là
người cùng phe với cậu. Vậy kể như huề.
Nhưng "huề" làm sao
được cơ chứ!
Bởi vì "hai đứa
tôi" nếu không kẻ thù, thì cũng là địch thủ.
Môn chơi: cờ tướng.
Trong những ngày ở Cali, buổi
sáng tôi thường ghé cà-phê Diễm, ngồi chầu rìa chờ tới
phiên mình trong cái hội cờ tướng ở đây. Nghiêm lúc này có bổn phận đưa bà xã tới
tiệm. Tới trưa, anh tới đó, nếu còn thời giờ, hai đứa lai rai một hai
bàn, rồi
tôi theo anh lên trường đua. Đây mới là thú vui của riêng anh.
Vốn là một giáo sư Anh văn, chân ướt chân ráo nơi xứ
người, anh đã lo giúp đỡ đồng hương, gầy dựng cộng đồng. Cái tên Little
Saigon,
là do anh chọn, khi hoàn tất thủ tục ghi danh (registration form) tham
dự Đại
Hội Giáo Dục Việt Mỹ, sau đó được in trong Chương Trình Đại Hội
(Program), năm
1984.
Loay hoay với mẫu ghi danh,
anh suy nghĩ: Little Vietnam, ồ không được (2), nhưng tại sao không là
Little
Saigon nhỉ...
Chính thức xuất hiện sau đó, là khi Sở Lục Lộ
Hoa-kỳ,
theo nhu cầu phát triển Quận Cam, đã cho xuất hiện những tấm bảng chỉ
đường.
Bạn chạy trên xa lộ Cali, nếu thấy biển đề Exit: Little Saigon, xin hãy
nhớ một
điều, ông bạn Nghiêm của tôi là người đầu tiên viết ra hai chữ thân
thương đó:
Little Saigon.
Tôi gặp Nghiêm, và sau đó gặp Thảo Trường ở "văn
phòng" của anh, một Car Wash của con trai, sang Mỹ từ 1975.
Tại Little Saigon, lẽ dĩ
nhiên.
Như thể Nghiêm, Thảo Trường
và tôi đã có hẹn gặp lại, từ thuở còn Sài-gòn.
Anh kể chuyện "ngày xưa": Bữa đó, mình đưa mấy
mẹ con đi trước, tính đi chuyến sau. Thế là dính luôn 8 năm tù Bắc, 9
năm tù
Nam.
Tếu thật, tôi vẫn nghi, anh
chàng này rồi khổ với tính tếu: Nếu không tếu, không viết nổi Bà Phi,
rồi bị
sếp hành lên hành xuống, do có kẻ "mét": Thằng đó nó tả "Quí Phu
Nhân" đấy, cho nó xuống hầm P.48 (4) đi!
Nếu không bị tính tếu xúi
dại, đã đi cùng vợ con...
Kể ra nói chuyện ngày xưa lúc này là quá hợp: Little
Saigon đang ngợp một mầu cờ, nhân vụ Trần Trường.
Quên không nói cho các bạn biết, cà phê Diễm ở ngay
sát
cạnh tiệm Hi-Tech của Trần Trường, và cái hội cờ tướng ở đây đa số
thành viên
đều cựu quân nhân, sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Họ vừa đánh cờ vừa có
nhiệm vụ
"điều nghiên" chiến trường: vào những lúc chúng tôi đang say sưa trên
mặt trận cờ, "mặt trận Miền Nam Cali" ở bên ngoài tiệm cà phê vẫn yên
tĩnh! Nhưng chỉ cần một dấu hiệu nho nhỏ từ phía Hi-Tech lọt vô, là tất
cả ùa
ra hết bên ngoài. Đây cũng là nơi được cảnh sát "chiếu cố" nhiều
nhất, để ghi giấy phạt: hút thuốc lá trong tiệm.
Trước 1975, Thảo Trường thuộc loại đàn anh của tôi.
Anh
có tên trong tờ Sáng Tạo, nhưng theo "một nghĩa nào đó", anh chẳng
mắc mớ gì với chủ trương "đạp đổ", làm cách mạng văn học của nhóm
này. Tôi vẫn không hiểu được tại sao anh có mặt "ở đó"?
Bởi vì truyện ngắn của Thảo Trường "hiền khô",
lại không "mới". Cái cũ "nhất" ở anh, là kỹ thuật truyện
ngắn. Thứ truyện ngắn không nhắm vào tiểu sảo, không mà mắt người đọc
với những
kỹ thuật mượn từ độc thoại nội tâm, điện ảnh... vốn rất được ưa chuộng
hồi đó,
kể luôn cả chuyện, cho nhân vật tuôn ra đủ thứ tư tưởng, hoặc ăn nói
theo kiểu
ba phải (nghĩa là lạm dụng nghịch lý, ra cái điều thông thái: Đời chẳng
đáng gì
nhưng đâu có gì đáng (như) đời, la vie ne vaut rien mais rien ne vaut
la vie,
André Malraux).
Ngay hồi đầu đọc anh, tôi đã
ngạc nhiên, anh cứ một mình đi một đường, an nhiên tự tại, thong dong
mà viết.
Bây giờ thì tôi hiểu. Với một
chút tếu, với chút thong dong tự tại, vậy là có thể qua được địa ngục.
Đá Mục,
cuốn tiểu thuyết mới nhất của anh, xuất bản ở hải ngoại (nhà xb Đồng
Tháp 1998)
cho thấy điều này. Như thể Sáng Tạo hô hào lật đổ, là để sửa soạn cho
giai đoạn
hậu-Sáng Tạo: giai đoạn Đá Mục.
Theo nghĩa đó, Thảo Trường là
người "đại diện độc nhất", của dòng văn chương vốn nổi tiếng là
"bí hiểm, hũ nút" này.
Câu chuyện hình như chỉ có
hai nhân vật. Và ba đoạn đời. Người ta có thể dựng một cuốn phim chỉ
với những
tình tiết "đơn giản" như vậy: Tên của cuộc chiến: Đá Mục.
Đoạn đầu: Anh chuẩn uý mới ra
trường, trấn một đồn biên. Đệ tử, một anh lính truyền tin, có vẻ khôn
hơn thầy,
và như mang dáng dấp anh nông dân Ivan của
Solzhenitsyn.
Đoạn hai: Họ gặp lại nhau
trong trại tù.
Đoạn ba: Anh sĩ quan, sau 17
năm tù, tái ngộ vợ con, và đệ tử tại xứ người.
Và đây là "thông
điệp" của Thảo Trường: Phải luôn luôn nhớ rằng hãy quên đi tất cả (Đá
Mục).
Và đây là quang cảnh trận
đánh cuối thế kỷ, qua miêu tả của Thảo Trường:
Trận chiến diễn ra trên đường
Bolsa, thành phố Westminster. Một bên là Việt Cộng rất thủ đoạn nhưng
có lực
lượng cảnh binh sắc phục đẹp và oai phong nhất thế giới, trang bị bằng
những
khí cụ hiện đại tối tân cũng nhất thế giới, hộ tống. Một bên là dân di
cư chạy
loạn, nạn nhân của Việt Cộng...
Mẹ cháu cũng bị bắt trong
nhấp nháy.... Và cháu cũng bị bắt dẫn đi. Cháu vẫn nằm trong nôi....
Cháu trở
thành tù binh... Một thứ tù binh của hòa bình... Trận đánh cuối thế kỷ.
(Người tù binh nằm trong
nôi).
"Có
một bản thảo đưa ông
đem về mà cũng đánh mất, đòi gửi tờ khác thì tôi gửi đây (Người tù binh
nằm
trong nôi)... tôi kèm thêm một ít trang bản thảo tập truyện sắp in, ông
đọc đỡ
buồn!
Tôi không hiểu sao các ông
lại không ở "Saigon" này mà đi tuốt luốt sang mãi "Tây Ninh,
Đồng Tháp" xa xôi chi vậy để rồi thỉnh thoảng lại phải "về phép"
tốn tiền tốn sức. Sang "Saigon" này mà ở cho nó tiện việc ra quán cà
phê cà pháo mỗi ngày. Xin gửi lời kính thăm quí bằng hữu ở bên đó.
Nói vậy chứ ở đây cũng chán
bỏ mẹ!"
(Thảo Trường, trích thư
riêng).
Người giới thiệu tờ báo Sáng
Tạo với tôi, là Nguyễn Hải Hà, bạn học trường Hồng Lạc, của thầy Đoàn
Viết Lưu,
khi thầy mở lớp tư đầu tiên, tại một căn phố ở đường Sương Nguyệt Anh,
gần vườn
Bờ-Rô, Sài-gòn. Chỉ là một lớp dậy hè, cho chương trình lớp Đệ Tam cho
những
học sinh đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp kỳ thứ nhất. Học xong hè nhẩy lên
lớp Đệ
Nhị, cuối năm thi Tú Tài I.
Tôi không có trong số này, vì
thi rớt kỳ I.
(Tất cả những bạn bè còn lại
của lớp học xa xưa đó, hiện nay đều ở Little Sài-gòn, nhờ chiến dịch
H.O.
Tôi gặp lại Lãng, và anh cho
biết đã qua những
đêm biểu tình ở trước tiệm Hi-Tech. Đúng là số mệnh "kỳ cục": tôi
cũng ở trong số đó. Như vậy là cả hai, sau lần biểu tình thứ nhất trong
đời,
tại khách sạn Majestic ở Sài-gòn, khi còn là con nít mới lớn, mấy chục
năm sau,
đã già, hai đứa lại đi biểu tình, ở nơi xứ người!)
Nguyễn Quốc Trụ
Chú thích:
(1) Nghiêm là tên bịa, vì
chưa được phép của tác giả.
(2) Ồ không được: Một cái tên
như Little Vietnam, theo anh, không mang tính lịch sử, như là nguyên
nhân sự ra
đời của khu Little Saigon ở Mỹ, và sau này, ở nhiều nơi trên thế giới.
(3) Ông anh rể: ký giả Hiếu
Chân, mất tại khám Chí Hòa, lúc đầu có tin tự tử, nhưng bạn tù sau này
cho
biết, anh mất vì cao áp.
(4) Thảo Trường trước 1975,
là sĩ quan VNCH, nơi anh làm việc: cục số 8 An Ninh Quân Đội, đường
Nguyễn Bỉnh
Khiêm, cũng không xa Sở Thú. "Thiên hạ" đồn: ở đó có hầm nhốt người.
Note: Ấn bản này, mới kiếm thấy. NQT
Một thời để yêu, để
hát, và để chết
Error
is the risk
which awaits the poet... Error means wandering, the inability to abide
and
stay. For where the wanderer is, the conditions of a definitive here
and now
are lacking.... The wanderer's country is not truth, but exile; he
lives outside,
on the other side which is by no means a beyond, rather the contrary.
He
remains separated, where the deep of dissimulation, that elemental
obscurity
through which no way can be made and which because of that makes its
awful way
through him (Blanchot).
Sai sót là rủi ro
đợi chờ nhà thơ… Sai sót có nghĩa lang thang, không thể trụ lại ở một
chỗ. Lang
thang có nghĩa là, “cái ở đây, cái bây giờ chung quyết không thể có”
[như Mít nói,
“tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” chăng?]…. Xứ sở của một kẻ lang
thang không
phải là sự thực mà là lưu vong….
Blanchot
Xứ sở kẻ lang
thang thì không phải là sự thực mà là luư vong: Tuyệt! NQT
When Saint-John Perse named one of his poems Exile, Blanchot says, "he
named the poetic condition as well... The poem is exile and the poet
who
belongs to it belongs to the dissatisfaction of exile. He is always
lost to
himself, outside, far from home; he belongs to the foreign, the outside
which
knows no intimacy or limit, and to the separation which Holderlin names
when in
his madness he sees rythm's infinite space.
Khi Saint-John
Perse đặt tên một trong những bài thơ của ông là “Lưu vong”, Blanchot
nói, “ông
ta đặt tên cho thân phận thơ… Bài thơ là lưu vong, và nhà thơ, kẻ thuộc
về bài
thơ, thuộc về sự không thoải mái của lưu vong.
*
Xa quê, nhớ nhà.
Christine Brooke-Rose, trong
bài viết Exsul, được in trong cuốn Lưu Vong và Sáng Tạo [Exile and
Creativity,
nhà xb Duke University,
1998], kể về thời thơ ấu của bà, tại Brussels.
Được nuôi dưỡng trong khí hậu nhị-ngôn, Pháp-Anh, bà cứ nghĩ, exile là ex-ile, nghĩa là do chữ “đảo”, ile, tiếng
Pháp, mà ra. Bà chắc chắn như vậy, không phải vì Quần Đảo Anh, là chốn
bà con
họ hàng nơi thường xuyên lui tới của bà, nhưng còn vì, đối với một đứa
trẻ,
những hòn đảo thật diệu kỳ: nào là Đảo Kho Tàng, Đảo Lỗ-bình-sơn, miền
đất
không bao giờ-không bao giờ của Peter Pan (Peter Pan’s never-never
land)... Lưu
vong như thế có nghĩa là một ốc đảo cô đơn, một nơi chốn mà đứa trẻ,
với cuốn
sách, tập làm quen với nỗi cô đơn, thèm được ở mãi trong đó, và sẽ hết
sức bực
dọc nếu bị đuổi ra...
Nhưng không phải vậy.
Exile (La-tinh exilium, trước đó exsilium;
exul,
exsul, một người bị bỏ, bị biếm), từ lâu vốn được coi như liên hệ với
solum,
đất (soil), nhưng bây giờ (coi tự điển La-tinh, E.A. Andrews biên soạn,
nhà xb
Harper, 1987), gốc rễ của nó là sal, tiếng Sankrit sar (đi, to go), L.
saline/saltare; và L. exsilio có nghĩa
là ‘nhẩy lên’ (spring from). Nhưng sau đó, trong tiếng Pháp Cổ, exilier hay essilier có nghĩa là ‘to ravage’, ‘to
devastate’, dây mơ rễ má của nó còn nhận thấy qua từ exterminate, nghĩa
đen là
‘vượt quá biên cương, bờ luỹ’.
Thành thử ngoài nỗi đau khổ
vì bị biếm, còn chuyện lao tới một cuộc đời mới, vượt ra khỏi những lũy
tre
làng thân quen (vượt ra khỏi những biên cương của một cái đảo tự mình
tạo ra
cho chính mình). Thí dụ như, “Ý đại lợi, thiên đàng của lưu đầy”,
Shelly viết,
năm 1818.
Đây là nghĩa “đẹp” của nó.
Còn nghĩa ‘đau thương’ thê
thảm của nó, thì có, thí dụ như, lời nói
chót của Đức Giáo Hoàng Gregory VII: “Tôi yêu sự chính trực, điều phải,
thù
ghét sự bất công, cho nên tôi phải chết trong lưu đầy.”
Vẫn theo tác giả, ngày nay,
không một nhà văn nào thực sự xứng đáng là một lưu đầy xứ người, so với
những
chính trị gia. Nhưng bởi vì là nhà văn, nên họ thường đưa ra được nhiều
vấn nạn
hơn là những khuôn mặt chính trị. Và được kể là những khuôn mặt chính
trị, theo
tác giả, có những thường nhân, thí dụ như một người nướng bánh, một ông
thợ
mộc...
Như đoạn viết trên cho thấy,
ngày nay, nhà văn thua nhà chính trị, nếu nói về lưu vong. Những nhà
văn đi về
cùng một nghĩa như nhau, lại càng thua những nhà chính trị, nhất là
những ông,
sau khi cho in sách một cách rất ư là tự do, bèn đưa sách về nhà để xin
được
kiểm duyệt.
Thành thử, nhà văn thua
thường dân xa, bởi vì thường dân, vẫn còn coi họ là lưu vong, hơn cả
nhà văn,
như trong bài viết trên cho thấy.
Tôi đã hân hạnh được quen một
ông, một vị bác sĩ. Ông già của ông, ở Việt Nam,
nằm hấp hối ở bệnh viện. Ông
về, suốt thời gian, ở bên giường bệnh của ông cụ, ở bệnh viện, sau đó,
ở bên
quan tài của ông cụ, khi ông cụ mất. Đưa ông cụ về với đất, là ông đi
trở ra
ngoài này liền. Ông nói, tôi muốn làm khác đi, cũng không được.
Theo
tôi, ông bạn của tôi được hưởng cả hai cái sướng,
của cả hai câu ở trên, một, “Ý đại lợi, thiên đàng của lưu đầy”, của
Shelly
viết, năm 1818, và một, “Tôi yêu sự chính trực, điều phải, thù ghét sự
bất
công, cho nên tôi phải chết trong lưu đầy”.
Không phải niềm vui
lớn
Ngay sau khi Nguyễn
Khải mất,
tôi có anh bạn (Hoàng Dũng) trong Nam ra Hà Nội, nói Nguyễn Khải chết
không có
đất chôn. Đúng ra là không được chôn ở nghĩa địa Sài Gòn (tại Thủ Đức),
phải đưa
lên nghĩa địa Củ Chi rất xa. Tiêu chuẩn được chôn ở Thủ Đức, ngoài
những ông
thành uỷ viên hay trung ương uỷ viên không kể, phải có 65 năm tuổi
đảng. Trần
Duy Châu, nguyên hiệu phó Đại học Sư phạm Sài Gòn, khi chết mới có 58
tuổi
đảng, không đủ tiêu chuẩn, phải đưa đi Củ Chi. Nguyễn Khải tất nhiên
cũng phải
đưa đi Củ Chi.
Võ
Văn Kiệt thấy thế chắc lấy
làm xấu hổ, nên can thiệp. Ông tuyên bố nhường suất chôn ở Thủ Đức của
ông cho
Nguyễn Khải.
Nguồn
Khó
hiểu thực. Tại sao Víp Va Ka lại xấu hổ?
Không có đất mà chôn? Ăn cướp cả Miền Nam vậy mà vẫn không có đất để mà
chôn?
Càng viết càng nhục. Chết vẫn chưa hết nhục! NQT
Nỗi
buồn Istanbul
Những ống
khói tầu mệt lả
Flaubert ở Istanbul: Đông, Tây và Giang Mai.
Tháng Mười 1850, bẩy
năm sau
chuyến đi Istanbul của Nerval, Gustave Flaubert tới thành phố cùng với
người
bạn nhiếp ảnh viên, nhà văn, là Maxime du Camp, và một trường hợp giang
mai mà Flaubert vừa mới dính phải ở
Beirut.
Flaubert
ở Istanbul năm tuần
lễ, và mặc dù, từ Athens, ông viết thư cho Louis Bouilhet về Istanbul,
“Ai mà
đến đó thì cũng phải ở ít lắm là sáu tháng”, nhưng chúng ta cũng đừng
coi quá
coi trọng lời phát biểu chắc nịch của ông, bởi vì Flaubert, vào thời
gian này,
nhớ đến phát điên tất cả mọi thứ mà ông để lại ở đằng sau ông. Trong
những thư
từ, ngay đầu thư là cái tên Constantinople, rồi tới ngày tháng và sau
đó, ông
cho biết, những điều mà ông nhớ nhiều nhất, kể từ khi lên đường du
lịch, là căn
nhà của mình ở Rouen, sự nghiên cứu của ông, bà mẹ yêu quí đã khóc rất
nhiều
khi ông lên đường, và, ông chỉ mong trở về nhà liền, khi có thể.
Dò
theo lộ trình chúng ta
thấy Flaubert đã tới Istanbul qua ngả Cairo, Jerusalem
và Lebanon.
Cũng
như Nerval, ông trở nên mệt mỏi vì sự xấu xí đáng sợ, vẻ Đông phương xa
lạ thần
bí qua những hình ảnh mà ông nhìn thấy. Thực tại trước mắt còn quái dị
hơn, so
với những điều mà ông tưởng tượng ra, hoặc thấy chúng xuất hiện, ở
trong những
giấc mơ. Nói tóm lại, ông chẳng thấy thích thú gì ở Istanbul. (Theo như chương
trình du
ngoạn lúc
thoạt đầu, ông tính ở đó ba tháng). Sự thực, Istanbul
không phải là Đông phương mà
ông tìm
kiếm. Trong một bức thư khác gửi cho Louis Bouilhet, ông nhớ lại chuyến
du
ngoạn của Lord Byron qua vùng phía Tây Anatolia, và để trí tưởng tượng
của ông
bay nhẩy khi nhìn thấy “Đông phương Thổ nhĩ kỳ, Đông phương của những
cây kiếm
cong, của trang phục kiểu Albania, và những cửa sổ có lưới nhìn ra biển
xanh”;
Flaubert nghĩ, ông mê một Đông phương khác, “một Đông phương bị nung
nướng của
Beduin và sa mạc, những chiều sâu đỏ chót của Phi Châu, cá sấu, lạc đà
và hươu
cao cổ”.
Trong
tất cả những nơi chốn
mà ông nhà văn Tây hai muơi chin tuổi đã nhìn thấy trong chuyến đi Đông
phương,
Ai Cập đúng là nơi đã đốt cháy trí tưởng tượng của ông, và nó sẽ đốt
cháy như
vậy, suốt cuộc đời còn lại của ông. Như trong những thư ông gửi cho mẹ
và cho
Bouilhet, ông giải thích, tâm hồn của ông lúc đó là về tương lai, và về
những
cuốn sách ông hy vọng sẽ viết ra được (Trong những cuốn sách tưởng
tượng đó, có
một cuốn tiểu thuyết tên là “Harel Bey”, trong đó, một người Tây phương
văn
minh và một tay Đông phương man rợ dần dần giống như nhau, và sau cùng
đổi chỗ
cho nhau). Từ những gì ông viết cho bà mẹ, rõ ràng là, tất cả những
thành tố
sau đó làm nên huyền thoại Flaubert - từ chối bất cứ một cái gì khác,
ngoại trừ
nghệ thuật, chán ghét cuộc sống trưởng giả, hôn nhân, và thế giới của
những tay
làm ăn, chạy mánh - đều có ở trong đó. Một trăm năm trước khi tôi sinh
ra, ông ta
đã lang thang trên những đường phố sau này tôi trải qua suốt cuộc đời
của tôi ở
đó. Một ý nghĩ đến với ông, và sau này, ông ghi lên mặt giấy, và nó trở
thành
một trong những nguyên lý cơ bản của văn chương hiện đại: “Con chẳng
màng chi
thế giới, tương lai, những gì mà những người khác nói, an cư lập
nghiệp, và
ngay cả văn chương nổi tiếng, được người đời biết đến; trong quá khứ,
con đã
nhiều lần nằm dài, trong nhiều đêm không ngủ, lúc nào cũng mơ tưởng về
chúng.
Con là như là con là. Đó là tính cách của con.”. (Thư của Flaubert gửi
mẹ, 15
Tháng Chạp, 1850, Istanbul).
Tại
sao tôi quan tâm quá
nhiều tới những du khách Tây phương, tới những gì họ nói về Istanbul,
những gì
họ đã làm trong những lần viếng thăm thành phố, những gì họ viết cho bà
mẹ của
họ? Một phần có thể là do, tôi, trong rất nhiều lần, đã tự đồng hóa
mình, với
một số trong những người đó (Nerval, Flaubert, de Amicis), và – y hệt
như một
lần tôi đã từng nhập vào họa sĩ Utrillo để vẽ Istanbul - bằng cách rớt
vào quỹ
đạo, nằm dưới bùa chú, chịu ảnh hưởng của họ, và trong khi cố tìm cách
quật
ngược lại, cố tìm cách làm thịt thầy, mà tôi rèn luyện được, cái căn
cước của
riêng mình. Và cũng còn lý do này nữa: rất ít những nhà văn của riêng Istanbul đã dành
cho
chính thành phố của họ, một niềm quan tâm, và ưu ái, như họ.
Cho
dù bạn gọi cái đó là cái
chi chi – ý thức dởm, sự kỳ quặc, lố lăng, ý thức hệ lỗi thời - ở trong
mỗi cái
đầu của đám chúng ta, có, một bản văn nửa đọc được, nửa bí ẩn không đọc
được,
và nó làm cho cuộc đời của chúng ta, những gì chúng ta làm trong cuộc
đời đó,
có một ý nghĩa nào đó. Và đối với mỗi một con người như chúng ta, những
cư dân
của thành phố Istanbul, một phần lớn của bản văn nói trên, là từ bất cứ
những
gì mà những nhà quan sát người Tây phương nói về chúng ta. Với những
người như
tôi, những người dân Istanbul, với một chân ở trong mỗi văn hóa, “du
khách Tây
phương” thì thường xuyên không phải là người thực: người đó có thể là
một sự
sáng tạo của riêng tôi, một sự lố lắng kỳ quặc của riêng tôi, và quá
nữa, có
thể là sự phản chiếu của chính tôi! Nhưng, không thể nào tuỳ thuộc vào
truyền
thống không thôi, như là bản văn của mình, tôi thật biết ơn người ngoại
cuộc,
kẻ xa lạ kia, người có thể dâng hiến cho tôi một ấn bản bổ túc cho bản
văn của
tôi – dù bản văn đó là bất thứ cái gì: một mẩu viết, một bức họa, hay
là một
cuốn phim. Bởi vậy, bất cứ khi nào tôi cảm thấy sự vắng mặt của những
con mắt
Tây phương, tôi trở thành một kẻ Tây Phương của chính mình.
Istanbul
chẳng hề là một
thuộc địa của những người Tây phương, những người đã viết, đã vẽ, đã
quay phim
về nó, và chính vì vậy tôi chẳng bị bối rối khi những
người Tây phương sử dụng quá khứ, lịch sử của
tôi trong những kiến
tạo của họ về một miền đất lạ lẫm đối với họ. Thực sự, tôi nhận ra
những sợ hãi
và những giấc mơ của họ thì lạ lẫm đối với tôi – cũng vậy, những sợ hãi
và
những giấc mơ của chúng tôi thì lạ lẫm đối với họ - và tôi không chỉ
nhìn vào
họ để vui chơi, để giải trí, hay nhìn thành phố qua con mắt của họ,
nhưng mà
còn nhập vào cái thế giới được họ tạo lên, và chẳng thiếu một thứ gì ở
trong
đó, và trở nên thân quen gần gụi y hệt như đây cũng là cái thế giới của
chúng
tôi. Đặc biệt là, khi đọc những du khách Tây phương của thế kỷ 19 – có
lẽ bởi
vì họ viết về những điều quen thuộc bằng những từ thật dễ hiểu đối với
tôi –
tôi nhận ra rằng thành phố “của tôi” không thực sự là của tôi. Y hệt
như là khi
tôi ngắm nghía dáng vẻ, và những góc cạnh của thành phố thật quen thuộc
đối với
tôi - từ cầu Galata và Ciganhir, nơi tôi đang viết những dòng này – và
cũng vậy,
khi tôi nhìn thành phố qua những từ và những hình ảnh của những người
Tây
phương đã nhìn thấy, trước tôi; những lúc như vậy, tôi phải đối diện
với những
điều không chắc chắn của riêng mình, về thành phố và vị trí mỏng manh
của tôi ở
trong đó. Tôi thường xuyên cảm thấy mình trở thành một với một với
người du
khách Tây phương, cùng với anh ta nhào xuống khối đậm đặc, là cuộc
sống,
rồi đo đếm, phân loại, phán đoán, và
trong khi làm như vậy, thường chiếm đoạt những giấc mơ của anh ta, để
ngay lập
tức trở thành khách và chủ của cái nhìn chằm chằm Tây phương. Và trong
khi tôi
làm tới làm lui, đôi khi tôi nhìn thành phố từ bên trong, và đôi khi từ
chẳng
đâu, tôi cảm thấy như những lần lang thang trên đường phố, bị tắt nghẹn
giữa
những luồng tư tưởng trồng chéo, nghịch ngược, trơn trượt, không hoàn
toàn tùy
thuộc vào nơi chốn này, mà cũng không hoàn toàn thuộc về một nơi chốn
nào khác,
không hoàn toàn là một kẻ xa lạ. Đó là tình cảnh, tâm trạng mà những
người dân
thành phố Istanbul
cảm nhận trong 150 năm vừa qua.
Cho
phép tôi minh họa tình
trạng trên đây, bằng một câu chuyện về thằng nhỏ của Flaubert, nó làm
khổ ông
rất nhiều trong những ngày ông viếng thăm Istanbul.
Trong một lá thư gửi cho Louis Bouilhet, về ngày thứ nhì ông tới
Istanbul, vị
tác giả xốn xang của chúng ta thú nhận, bẩy vùng bị sưng đỏ lên, ở trên
thằng
nhỏ của ông do bịnh giang mai, bây giờ chúng tụ lại thành một. “Tội
nghiệp
thằng nhỏ! Sáng chiều đều phải băng bó cho nó!”, ông viết.
Thoạt
đầu, ông nghĩ,
mình
dính nó từ một em Maronite, hay “có thể, một phu nhân nho nhỏ người Thổ
nhĩ kỳ.
Thổ hay Ky tô?”, ông hỏi, và vẫn trong giọng điệu nhạo báng như thế,
ông tiếp
tục, và đưa ra nhận xét, “Vấn đề!
Thức ăn của tư tưởng. Đây là một khía cạnh của ‘Nan đề Đông phương’ mà
tờ ‘Tạp
chí của hai thế giới’ chẳng hề bao giờ mơ tưởng tới!”. Cũng vào khoảng
thời
gian này, ông cũng viết cho bà mẹ, con sẽ chẳng bao giờ lấy vợ, nhưng
quyết
định này không liên quan gì tới chuyện ông dính giang mai.
Mặc
dù phải chống trả với căn
bệnh khiến tóc ông rụng, đến nỗi bà mẹ
nhận không ra ông con, khi ông trở về, nhưng bệnh thì bệnh, ông vẫn mò
tới xóm
chị em ta ở Istanbul. Tuy nhiên, khi, một trong những dragomen [thông
dịch
viên, người dẫn đường] vẫn thường đưa du khách Tây phương tới những xóm
quen ở
khu Galata, người này đưa Flaubert tới một chỗ thật là dơ bẩn, với
những người
đàn bà thật là xấu xí, ông tỏ ý muốn rời nơi đó liền lập tức. Đúng vào
lúc đó,
theo như chính ông kể lại, bà chủ nhà bèn đề nghị chính cô con gái của
bà ta
cho ông khách người Pháp. Một cô gái mười sáu hoặc mười bẩy tuổi, mà
theo
Flaubert, rất quyến rũ. Nhưng cô gái từ chối đi với ông khách. Những
người ở
trong nhà đã bắt cô phải đi – cái vụ này
thì người viết đành để quí vị độc giả tự tìm hiểu coi họ đã làm thế nào
khiến
cô gái xiêu lòng – và khi chỉ còn hai người, cô gái hỏi Flaubert bằng
tiếng Ý
đại lợi, hãy cho cô kiểm tra thằng nhỏ coi nó có bị bịnh hay không.
“Bởi vì
thằng nhỏ của tôi vẫn còn vết chai khi nổi hạch, và tôi sợ cô gái nhận
ra, thế
là tôi từ trên giường nhẩy xuống la lớn, nè cô bé, cách xử sự của cô
như vậy là
sỉ nhục một bậc văn nhân phong nhã như tôi,” và sau đó, ông rời khỏi
nơi đó,
Flaubert viết.
Tuy
nhiên, vào lúc bắt đầu cuộc
du ngoạn, tại một bệnh viện ở Cairo, một vị bác sĩ đã biểu diễn, bằng
một cử chỉ
ông ra lệnh cho những bệnh nhân tụt quần và trình bầy những vết thương
của bịnh
giang mai cho những người khách Âu Châu viếng thăm bệnh viện được chứng
kiến, và
Flaubert đã quan sát chúng thật là chăm chú và ghi chú thật là tỉ mỉ,
và nhận xét
một cách hài lòng – như ông vẫn thường tỏ ra như vậy khi miêu tả chiều
cao, tư
thế, và chiếc áo dài của một người lùn tại triều đình, nơi hoàng cung
Topkapi
Palace – ông lại được chứng kiến một sự lạ lùng, một sự dơ dáy, hay một
hiện tượng
y học chỉ xẩy ra ở Đông phương. Flaubert tới phiá Đông không chỉ để
nhìn những
phong cảnh đẹp không thể nào quên được, mà còn hết sức mong muốn, được
quan sát
những chứng bệnh và những phương pháp, những thực tập y khoa lạ kỳ của
nó. Tuy
nhiên ông chẳng hề muốn phô ra cho nọi người biết những vết sẹo giang
mai của mình,
hay những thói quen lạ kỳ của riêng ông. Trong cuốn Chủ nghĩa Đông
phương thật
sáng chói của mình, Edward Said đã chú trọng đến xen mở ra cuốn sách,
tại một bệnh
viện ở Cairo, khi phân tích Nerval và Flaubert, nhưng ông quên không
nhắc đến mấy
xóm chị em ta, nơi bi kịch của họ chấm dứt ở đó; nếu ông làm như vậy
thì chí ít,
ông cũng ngăn cản những độc giả Istanbul của ông không sử dụng cuốn
sách đó để chứng
tỏ tình cảm quốc gia, hay để hàm ý, nếu không có Tây phương, Đông
phương sẽ tuyệt
vời biết mấy. Có lẽ Said bỏ đi đoạn ở xóm chị em ta, bởi vì Istanbul
chẳng hề là
một thuộc địa của Tây phương, và do đó, không phải là trung tâm điểm
của sự
quan tâm của ông (Mặc dù những người Thổ nhĩ kỳ quốc gia cho rằng bệnh
giang
mai lan tràn trên thế giới, là từ Mỹ mà ra, những du khách Tây phương
thế kỷ 19
gọi bệnh giang mai bằng cái tên “frengi” (French), do những người Pháp
mang tới,
và làm lây lan ra những nền văn minh khác. Năm mươi năm sau chuyến
viếng thăm của
Flaubert, Semsettin Sami, một người Albania, khi cho ra đời cuốn tự
điển Thổ nhĩ
kỳ đầu tiên, đã giản dị giải thích “frengi tới với chúng ta từ Âu
châu”. Nhưng
trong cuốn “Từ điển của những ý nghĩ, tư tưởng được chấp nhận” của ông,
Flaubert vẫn giữ cái nhìn của ông mà ông có, khi tự hỏi mình, như thế
nào, ra làm
sao, bằng cách nào ông dính thứ bịnh này, và ai là người đã ban cho
mình nhỉ, và
không thừa cơ hội mà viện tới một câu tiếu lâm thứ nhì, về
Đông-Tây: "Tất cả
mọi người, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác, đều có thể dính
trấu!"
Trong
những bức thư mà ông viết
với một sự chân thành, và chính xác, bị hấp dẫn bởi tất cả những gì lạ
lùng, đáng
sợ, dơ dáy, và kỳ cục, ông nói tới những “cô gái điếm của những nghĩa
địa” (tiếp
đãi, phục vụ lính tráng vào ban đêm tại nghĩa địa), những cái tổ cò
trống rỗng,
cái lạnh, những trận gió Siberia từ Hắc Hải quất mạnh
xuống thành
phố, và những đám người đông đúc của Istanbul. Như rất nhiều những du
khách khác,
ông đặc biệt mê mẩn những nghĩa địa của nó. Ông là người thứ nhất đã
chú ý tới,
và ghi nhận, những tấm bia mộ mà người ta nhìn thấy ở khắp nơi trong
thành phố
thì giống như những hồi ức của chính những người đã chết, cứ lặng lẽ,
từ từ lặn
sâu xuống dưới đất, khi chúng già đi, có tuổi thêm mãi, và chẳng bao
lâu biến mất
chẳng để lại một dấu vết.
|
|