|
Paradise
Motel
Millions
were dead; everybody was innocent.
I stayed in
my room. The President
Spoke of war
as of a magic love potion.
My eyes were
opened in astonishment.
In a mirror
my face appeared to me
Like a
twice-canceled postage stamp.
I lived
well, but life was awful.
there were
so many soldiers that day,
So many
refugees crowding the roads.
Naturally,
they all vanished
With a touch
of the hand.
History
licked the corners of its bloody mouth.
On the pay
channel, a man and a woman
Were trading
hungry kisses and tearing off
Each other's
clothes while I looked on
With the
sound off and the room dark
Except for
the screen where the color
Had too much
red in it, too much pink.
Charles
Simic
Phòng Ngủ
Thiên Đàng
Ba triệu Mít
chết
Mọi Mít đều ngây thơ,
Đếch tên nào có tội
Gấu ngồi
trong phòng
Ba Dzũng, Tông Tông Mít,
Giao liên
VC, y tá dạo ngày nào
Lèm bèm về
Cuộc Chiến Mít
Như là Thần
Dược Sex
Gấu trợn mắt,
kinh ngạc
Trong gương, Gấu nhìn Gấu
Chẳng khác gì
một con tem bị phế thải tới hai lần
Gấu sống được,
nhưng đời thì thật là khốn nạn
Ngày đó đó, đâu
đâu cũng thấy lính
Ui chao Mít di tản đầy
đường
Lẽ tất nhiên tất cả biến
mất,
Chỉ nhìn thấy bóng dáng 1 tên VC
Lịch sử Mít
liếm góc mép đầy máu của nó
Trên băng phải
trả tiền,
Một người
đàn ông và một người đàn bà
Trao đổi
những
cái hôn thèm khát
Xé nát
quần
áo của nhau
Gấu trố
mắt nhìn
Âm thanh
tắt
và căn phòng tối
Trừ màn
hình,
Đỏ như máu
Hồng như
Đông
Phương Hồng
To Dreams
I’m still
living at all the old addresses,
Wearing dark
glasses even indoors,
On the
hush-hush sharing my bed
With
phantoms, visiting in the kitchen
After
midnight to check the faucet.
I’m late for
school, and when I get there
No one seems
to recognize me.
I sit
disowned, sequestered and withdrawn.
These small
shops open only at night
Where I make
my unobtrusive purchases,
These
back-door movie houses in seedy neighborhoods
Still
showing grainy films of my life,
The hero
always full of extravagant hope
Losing it
all in the end?-whatever it was-
Then walking
out into the cold, disbelieving light
Waiting
close-lipped at the exit.
Charles
Simic
Gửi Những Giấc
Mơ
Gấu vẫn sống
ở tất cả những địa chỉ cũ
Đeo kính râm
ngay cả ở trong nhà
Kín đáo “se” giường với những hồn ma
Sau nửa đêm mò xuống bếp kiểm tra cái vòi nước.
Gấu tới lớp
học trễ
Và khi tới lớp
Đám bạn quí
chẳng tên nào nhận ra Gấu
Gấu ngồi chỗ
đếch phải của Gấu,
Bị cầm tù, và
bèn rút dù.
Những tiệm
nhỏ này chỉ mở cửa vào ban đêm
Đó là nơi Gấu
mua những món đồ chẳng ai để ý
Những rạp
chiếu bóng này, ở phía sau nhà
Trong khu xóm
xơ xác
Vưỡn còn chiếu
những cuốn phim sần sùi về đời Gấu.
Nhân vật chính
thì luôn đầy hy vọng ngông nguồng
Sau cùng mất
hết trơn? – Thôi thế thì thôi, sao cũng được.
Và bèn bước
ra ngoài ánh sáng lạnh, không chút tin tưởng
Môi mím chặt,
đợi “exit”.
Evening Walk
You give the
appearance of listening
To my
thoughts, O trees,
Bent over
the road I am walking
On a late
summer evening
When every
one of you is a steep staircase
The night is
slowly descending.
The high
leaves like my mother's lips
Forever
trembling, unable to decide,
For there's
a bit of wind,
And it's
like hearing voices,
Or a mouth
full of muffled laughter,
A huge mouth
we can all fit in
Suddenly
covered by a hand.
Everything
quiet. Light
Of some
other evening strolling ahead,
Long-ago
evening of silk dresses,
Bare feet,
hair unpinned and falling.
Happy heart,
what heavy steps you take
As you
follow after them in the shadows
The sky at
the road's end cloudless and blue.
The night
birds like children
Who won't
come to dinner.
Lost
children in the darkening woods.
-Charles
Simic
Đi dạo vào
buổi chiều tối
Tụi mi làm
ra vẻ
Lắng nghe Gấu
suy tư,
“Ôi lũ cây bên
đường,
Nhớ rừng,
Cùng thi
nhau vươn cao
Như muốn trút
hết nỗi buồn lên trời.”
Từng đứa mi
cố rạp mình xuống mặt đường, như nấc thang,
Theo bước Gấu
đi
Vào một chiều
tối muộn
Và đêm thì đang
chầm chậm xuống
Những chiếc
lá cây ở trên cao thì giống môi của bà má Gấu
Suốt đời run
rẩy, không thể nào quyết định,
Bởi là vì
trong tí gió
Như có những
giọng người
Hay là một cái
miệng đầy tiếng cười tắc nghẹn
Một cái miệng
như miệng bà Âu Cơ chứa cả lũ Mít
Bất thình lình
bị một bàn tay bụm chặt
Mọi vật yên
tịnh
Ánh sáng của
một buổi chiều tối khác
Lang thang
phía trước mặt
Buổi chiều tối
của thời xa xưa chắc là trước 1975, trong những cánh áo dài lụa
Chân trần, tóc
xỏa xuống,
Trái tim hạnh
phúc, những bước chân nặng nề nào bạn bước đi
Khi bạn theo
chúng vào những vùng tối
Bầu trời ở
cuối con lộ thì không có mây, màu xanh
Những con
chim đêm thì giống như những đứa trẻ
Ham chơi bỏ bữa ăn tối.
Những đứa trẻ
thất lạc trong những khu rừng tối xẫm .
Chế Lan Viên
thường nhắc câu này của Tế Hanh, không ghi xuất xứ :
Sang bờ tư
tưởng ta lìa ta,
Một tiếng gà
lên tiễn nguyệt tà.
Câu thơ diễn
tả tâm trạng người nghệ sĩ thời Pháp thuộc bước sang đời Cách mạng sau
1945, phải
“lột xác” để sáng tác, lìa bỏ con người trí thức tiểu tư sản, mong hòa
mình với
hiện thực và quần chúng. Câu thơ có hai mặt : tự nó, nó có giá trị thi
pháp,
tân kỳ, hàm súc và gợi cảm. Là câu thơ hay. Nhưng trong ý đồ của tác
giả, và
người trích dẫn, thì là một câu thơ hỏng, vì nó chứng minh ngược lại
dụng tâm
khởi thủy. Rõ ràng là câu thơ trí thức tiểu tư sản suy thoái.
Gậy ông đập
lưng ông. Đây là một vấn đề văn học lý thú.
Đặng Tiến tưởng
nhớ Tế Hanh
Tuyệt!
MUMMY'S
CURSE
Befriending
an eccentric young woman,
The sole
resident of a secluded Victorian mansion.
She takes
long walks in the evening rain,
And so do I,
with my hair full of dead leaves.
In her
former life, she was an opera singer.
She
remembers the rich Neapolitan pastries,
Points to a
bit of fresh whipped cream
Still left
in the corner of her lower lip,
Tells me she
dragged a wooden cross once
Through a
leper town somewhere in India.
I was born
in Copenhagen, I confide in turn.
My father
was a successful mortician.
My mother
never lifted her nose out of a book.
Arthur
Schopenhauer ruined our happy home.
Since then,
a day doesn't go by without me
Sticking a
loaded revolver inside my mouth.
She had
walked ahead of me and had turned
Like a lion
tamer, towering with a whip in hand.
Luckily, in
that moment, the mummy sped by
On a bicycle
carrying someone's pizza order
And cursing
the mist and the potholes.
Charles
Simic
Lời Rủa Xả của
Mắm Mỳ
Gấu làm quen
với một thiếu phụ kỳ kỳ
Cư dân độc
nhất của một lâu đài Victorian,
Tách biệt hẳn ra một nơi.
Em bước những
bước sải, trong chiều mưa,
Và Gấu thì
cũng bắt chước,
Trong khi đầu tóc bù xù, đầy lá chết.
Trong đời,
em đã từng là ca sỡi opera
Em nhớ những
cái bánh ngọt giầu sang Neapolitan
Và lấy ngón
tay chỉ 1 tí kem bánh,
Còn dính lại
ở 1 góc môi dưới
Em cho Gấu biết
đã từng vác thánh giá gỗ
Như đao phủ HPNT (1)
Xuyên qua một
thành phố toàn những người cùi,
Đâu đó bên Ấn Độ.
[Này, đừng
liên tưởng tới Mậu Thân, Huế, nhe!]
Anh sinh tại
xứ Bắc Kít, đến luợt Gấu tâm sự
Cha anh là một
vì giáo sư thành công
Mẹ anh không
hề một phút cất mắt ra khỏi trang sách
Sartre tiêu
huỷ gia đình hạnh phúc của anh
Kể từ đó, một
ngày chẳng thể trôi qua,
Mà không có
anh,
Loay hoay với 1 khẩu súng lục,
Lên đạn rồi,
Ở trong mồm.
Em bước sải,
vượt quá Gấu và rồi xoay người lại
Như một người
chuyên thuần phục sư tử,
Bay vút lên
với cây roi trên tay.
Phúc làm
sao, đúng lúc đó, một Mắm Mỳ đi qua
Trên chiếc
xe đạp,
Mang bánh pizza cho ai đó
Vỗ đồm độp,
chửi,
DM, sương mù, và ổ gà.
(1)
GCC đọc đâu đó, hình như
trên HL, HPNT đã từng thố lộ, có 1 em học sinh ngày
nào, ở hải ngoại, lâu lâu tiếp tế thuốc thang, tiền bạc, và thăm hỏi,
Thầy vưỡn
vác Thánh Giá như ngày nào?
Mummy: Xác Ướp.
Không phải Má Mì [Mom].
Bản tiếng Việt của GCC, dùng theo cả hai nghĩa.
Thơ Dịch
“Official
Inquiry Among Grains of Sand”
“Một
cuộc điều tra chính thức
giữa những
hạt cát”
APRIL 19,
1995
“Điều tra chính
thức giữa những hạt cát”
PEARL LONDON:
Ông có nói,
trong nhiều cách, ở nhiều nơi, những bài thơ thành công, thì vô danh
một
cách lạ
thường. Và trong bài thơ ông gửi cho chúng tôi, “Điều tra chính thức
giữa những
hạt cát”, ngay dòng đầu, ông viết:
“Bạn thì trọn
vô danh”. Liệu có thể
coi đây là 1 suy tư về “incognito”?
CHARLES
SIMIC:
Bài thơ này
bắt đầu như thế nào, thật khó mà biết được,. Tôi có 1 mẩu “Điều tra
chính thức”,
và tôi nhớ, vợ tôi có nói, “Làm sao nhà đầy cát? Khu này là rừng New
Hampshire?” Tôi nhìn quanh nhà, và quả thế thực. Nhà đầy cát.
Vô lý quá.
Nhà mình xa biển. Vợ tôi nói, “Chắc là chó tha về”. Điều này cũng quái,
vì gần
nhà đâu có cát. Bạn thấy đấy, thế là bất thình lình có 1 liên kết điên
rồ giữa
“điều tra chính thức” và “giữa những hạt cát”. Bài thơ là lạ bắt đầu
như thế đấy.
Và rồi nó từ từ có 1 hình dáng, bạn cũng chẳng thể biết bạn đi đâu, với
nó. Cái
ý của tôi, về, mọi bài thơ sau cùng thì vô danh, là, sau nhiều, nhiều
ấn bản -
bạn sẽ chỉ còn chừng ba, hoặc bốn; tôi có thể có hơn thế - và bài thơ
tiến triển;
bạn khám phá ra những điều ẩn náu, bạn không thể nhìn thấy. Bạn viết ra
bài thơ,
nhưng có thể nói, bài thơ, ngôn ngữ của bài thơ, hoàn cảnh, một cách
nào đó, tự
chúng viết ra chúng. Nói 1 cách khác, bạn là một
kẻ nào đó, khám phá ra bài thơ, trong một
tình cảnh mà qua đó, nó phát triển. Thật khó nói, nhưng rõ ràng là,
điều
xẩy ra
trên trang giấy thì thật là thú vị. Tôi nhìn, và, hà, hà, hừ, hừ, nó có
thể đi
[bài thơ thành hình] như thế đấy! Bạn biết không, thì cứ để cho nó đi
như thế đấy
- Tớ đếch cần. Tới ấn bản tiếp, chúng ta sẽ tìm hiểu coi, nó nghĩa là
gì.
Thế rồi một
ngày đẹp trời, bạn lôi nó ra, nhìn vô, và phán, “Nhảm, bài thơ chẳng đi
chó đâu.
Mình bị bịp, có gì lầm lẫn ở đây”. Và bạn ngưng. Thế rồi bạn lại có 1 ý
nghĩ mới,
và cứ thế, cứ thế.
London:
Ông nói vài
lần, và, ở vài nơi, “thơ hay vinh danh cái ở đây và cái lúc này”. Tuy
nhiên,
ông không nhắc tới nơi chốn, địa danh, ông không chua thêm ngày tháng.
Trong
thơ ông, thời kỳ Việt Nam, Việt Nam đâu
phải như thế. Ðầy đau thương
nhưng như
thế đâu phải?
Simic:
Vậy đó. Ðề
tài của tôi thì luôn luôn là lịch sử đương thời… Lý do tôi không nêu
tên là vì
tôi nghĩ, tên chẳng có nghĩa gì cả.
London:
Chúng ta trở
lại với sự vô danh.
Simic:
Bạn biết đấy,
nó không phải sự vô danh. Nếu bạn đọc một số thơ cổ điển của Tầu về
những trận
chiến, chiến dịch lớn lao, hàng ngàn người chết, đều là những chiến
binh dũng cảm, bạn nhận ra, tên tưổi chẳng là cái chó
gì. Những cái tên còn gây ra, cái
gọi là căn cước dởm. Nó làm tôi nhớ đến một thứ nhà văn viết
trinh thám, điệp viên, một kẻ nào nói, “Tớ hút điếu Chesterfield, tớ gõ
nó lên
cái mặt đồng hồ Rolex”.
London:
Như vậy là
trong cái "body" của tác phẩm của ông, cũng có vai trò của cơ may: "I
believe in the deep-set messiness of everything." Câu thơ thật tuyệt.
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Phiên
Khúc 17
30.4.2012
Whatever
Happened
Whatever
happened had already happened.
Four tons of
death lie on the grass
and dry
tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever
happened will stay with us
and with us
will grow and diminish.
But we must
live,
the rusting
chestnut tells us.
We must
live,
the locust
sings.
We must
live,
the hangman
whispers.
Adam
Zagajewski
Bất Cứ Cái
Chó Gì Xẩy Ra
Bất cứ cái
chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người
chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người
chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt
nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của
Nhất
Linh
[những chiếc
lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy
ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với
chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
Nhưng chúng
ta phải sống,
[Thằng Còi,
Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ
sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải
sống,
con châu chấu
hát.
Chúng ta phải
sống,
HPNT thì thầm
bên tai Gấu.
Trong
Tẩu Vi
Thượng Sách. Greene có kể về mối tình của ông đối với Miền Nam
Việt Nam,
và từ đó, đưa đến chuyện ông viết Người Mỹ Trầm Lặng…
Tin
Văn post lại ở đây, như là một dữ kiện, cho thấy, Mẽo thực sự không
có ý
‘giầy xéo’ Miền Nam.
Và
cái cú đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng.
Cái chuyện MB phải thống nhất đất nước, là đúng theo qui luật lịch sử
xứ Mít,
nhưng, do dùng phương pháp bá đạo mà hậu quả khủng khiếp 'nhãn tiền’
như ngày
nay!
Ui chao, lại nhớ cái đoạn trong Tam Quốc, khi Lưu Bị thỉnh thị quân sư
Khổng
Minh, làm cách nào lấy được xứ... Nam Kỳ, Khổng Minh bèn phán, có ba
cách,
vương đạo, trung đạo, và bá đạo [Gấu nhớ đại khái].
Sau khi nghe trình bầy, Lê Duẩn than, vương đạo khó quá, bụng mình đầy
cứt, làm
sao nói chuyện vương đạo, thôi, bá đạo đi!
Cú
Phú Lợi đúng là như thế!
Và cái giá của mấy anh tù VC Phú Lợi, giả
như có,
là cả cuộc chiến khốn kiếp!
Đâu
hết!
Còn dài dài!
*
Vũ Hoàng Chương vẫn
vờ làm ra người cao đạo:
Mặc cho những kẻ mài
gươm sắc
Ta chỉ mài riêng ngọn
bút này
không biết
gì đến
những việc ở miền Nam hiện nay, không biết đến thuốc độc Phú-lợi, máy
chém Mỹ
lưu động từ Tây-ninh cho đến Cà-mau, không biết đến những trận càn,
những luật
10-59…
Chế Lan Viên viết về
Vũ
Hoàng Chương, về máy chém., và đầu độc tù Phú Lợi. (1)
Như thế cú đầu
độc tù Phú Lợi, do chính anh VC phịa ra, đã được thổi phồng cho cả thế
giới loài
người đều nghe, để có cớ thành lập MTGP, để nhử Mẽo vô Miền Nam, [vì sợ
mất toàn
vùng Đông Nam Á].
Chính vì thế mà Gấu Cà Chớn phán thật chính xác là VC cố tình
gây ra cuộc chiến.
Y chang cú
Maddox ở Vịnh Bắc Bộ, do Mẽo ngụy tạo, để chấm dứt cuộc chiến do VC gây
nên.
Adam
Zagajewski
THE SEA
Shimmering
among boulders, deep blue at noon,
ominous when
summoned by the west wind,
but calm at
night, inclined to make amends.
Tireless in
small bays, commanding
countless
hosts of crabs who march sideways
like damp
veterans of the Punic Wars.
At midnight
cutters sail from port: the glare
of a single
light slices the darkness,
engines
quake.
At the beach
near Cefalu, on Sicily, we saw
countless
heaps of trash, boxes, condoms,
cartons, a
faded sign saying ANTONIO.
In love with
the earth, always drawn to shore,
sending wave
after wave-and each dies
exhausted,
like a Greek messenger.
At dawn only
whispers reach us,
the low
murmur of pebbles cast on sand
(sensed even
in the fishing town's small square).
The
Mediterranean, where gods swam,
and the
frigid Baltic, which I entered,
a skinny,
trembling, twenty-year-old eel.
In love with
the earth, thrusting into its cities, Stockholm,
Venice,
listening to tourists laugh and chatter
before
returning to its dark, unmoving source.
Your
Atlantic, busy building up white dunes,
and the shy
Pacific hiding in the deeps.
Light-winged
gulls.
The last
sailing ships, white canvas
billowing on
crosses.
Slim canoes
are manned by watchful hunters,
the sun
rises in great silence.
Gray Baltic,
Arctic
Ocean, mute,
the Ionian,
world's origin and end.
Biển
Lung linh
giữa
những mỏm đá, xanh thẳm vào giữa trưa
đáng ngại
khi gió tây vần vũ, quần tụ
nhưng yên
tĩnh vào đêm, như làm hòa với tất cả.
Không chút mệt
mỏi, ở những bãi biển nhỏ, ra lệnh
cho lũ cua,
hằng hà sa số, diễu hành bên bờ
như những cựu
binh lừ khừ của những Cuộc Chiến Punic.
Nửa đêm,
đoàn thuyền một cột ra khơi: một dải ánh sáng độc nhất
cắt đêm đen
máy khua nhè
nhẹ.
Ở bãi biển gần
Cefalu, trên Silicy, chúng ta nhìn thấy
những đống,
không đếm được, rác, lon, áo mưa
hộp giấy, một
tấm biển mờ nhạt ANTONIO
Tương tư đất,
luôn cuốn về bờ
từng đợt
sóng, từng đợt sóng, và mỗi đợt chết
mệt nhoài,
như một vì sứ
giả Hy Lạp.
Vào lúc rạng
đông chỉ những tiếng nói thầm với tới chúng ta,
tiếng rù rì
của những viên sỏi ở lại với bãi cát
(cảm thấy cả
điều này, ở những ô vuông nhỏ của thành phố cá).
Ở Ðịa Trung
Hải, nơi những vị thần bơi lội
và ở biển
Baltic cứng ngắc, nơi tôi tuồn vô,
một con cá ốm
nhom, run rẩy, hai muơi tuổi đời.
Ðắm đuối với
đất, hăm hở lấn tới tận những thành phố của nó, Stockholm,
Venice, lắng
nghe những du khách cười nói
trước khi trở
về với nguồn tối thui, bất động
Ðại Tây
Dương kia ơi, bận rộn dựng lên những đụn cát trắng
và Thái Bình
Dương e thẹn náu ở những vực sâu.
Những con hải
âu cánh nhẹ.
Ðoàn tầu sau
cùng ra khơi, buồm trắng,
cuộn sóng,
đan chéo nhau.
Ca nô mỏng
được điều khiển bởi những tay thợ săn chăm chú
mặt trời mọc
trong một im lặng lớn.
Baltic, xám
Biển Bắc,
câm
Biển Ionian,
khởi đầu và tận cùng thế giới (1)
*
Giá mà có một
ấn bản thơ dịch Adam của bác, tương tự như cuốn Istanbul, thì thú biết mấy!
Ðộc giả
Trong nước,
có người đề nghị Gấu đi 1 tuyển tập thơ dịch.
Nghĩ không
thôi, là đã thú rồi!
Trân trọng,
NQT
Ui chao, giờ
thì Gấu hiểu ra, thiếu một vế - dịch Adam thì sướng, dịch Simic thì sợ
- là
không được.
Nhưng bài Biển
của Gấu mà không thần sầu ư. Nhất là "lời bàn" của 1 vị độc giả
[Sorry, cứ khoe
hoài, trong khi cấm!]
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì
thầm của biển...
22/01/2010
Tôi được đọc
bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng
ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trong email
trước tôi đã vô lễ gọi ông là "Gấu Nhà Văn", vì đọc Tin Văn liên tiếp
suốt mấy ngày liền, khiến tôi nhập tâm.
Thực tình,
tôi thích cái bút danh đó.
Khi tôi chụp
hình con hải âu, tôi cứ nghĩ nó là hình ảnh của chính mình. Ai ngờ, tôi
lại gặp
một con hải âu khác khi đọc bài thơ Biển
của ông. Khi nhớ quê hương, kẻ thì
"thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...
Ui chao
mới
đó mà đã hơn một năm.
Please take
care and forgive. NQT
phiên. khúc
nắng
phố. nắng nắng.
đổ. tràn xuống. những con đường. xe. chạy
phố. nắng nắng.
lóa. những ô cửa kính loáng. nắng
phố. nắng nắng.
ôm. hâm hấp những cao ốc. ngất. ngư
trưa phố. nắng
những bàn chân. chậm
những nơi đến
khác. nhau
nắng. phố tỏa
màu đóa. ngột
những chiếc
honda. vụt mùi. xăng
mùi nắng.
hàng quán. rong. chiếc nón. lá
che mặt. những
đôi mắt không. dám nhìn
cuộc sống.
gió. vượt biên. bụi len lỏi vào. những
khẩu trang.
ngất ngư phố. nắng
nắng. sàigòn
phố. nắng. cũ soi. bạc thếch
có chợt bóng
mát. khi tà áo thướt. vội
có chợt bóng
mát. bởi hàng me. gốc phượng
nắng. sàigòn
còng lưng trần. chiếc xe ba gác. trĩu
dốc cầu. đứng
thẳng nắng. những giọt. mồ hôi
nắng. lẫn
trong. mưa đứng dong. mắt
khô ran phố.
nắng. chiếc xe đạp. vệt. đẫm
lưng nắng.
cũ phố. sàigòn cũ. ký ức cũ
phố. nắng lộng.
mới toanh. khu shoping
bến đợi.
subway sâu. lòng đất tiếng. rít
của những
chuyến xe điện. nắng. óa trên những
bậc thang.
và dừng lại. điểm cuối cùng. của
nắng. chỉ
còn phố. tiếng kèn đồng. cùng lời than. vãn
đi. về. của
những chuyến xe
Đài Sử
Tks
óa trên những bực thang, hay
lóa...
?
NQT
óa.
Tks
TV/Độc giả
CRAZY ABOUT
HER SHRIMP
We don't
even take time
To come up
for air.
We keep our
mouths full and busy
Eating bread
and cheese
And
smooching in between.
No sooner
have we made love
Than we are
back in the kitchen.
While I chop
the hot peppers,
She wiggles
her ass
And stirs
the shrimp on the stove.
How good the
wine tastes
That has run
red
Out of a
laughin mouth!
Down her
chin
And onto her
naked tits.
"I'm
getting fat," she says,
Turning this
way and that way
Before the
mirror.
"I'm
crazy about her shrimp!"
I shout to
the gods above.
Charles
Simic
Khùng vì tôm
của em
Hai đứa đâu
có thì giờ
Để mà thở
Hai cái mồm lúc nào cũng đầy và bận
Đợp bánh mì,
phó mát
Không
đợp thì hôn
Mần một phát, chưa kịp
thở,
là đã bò xuống bếp
Trong khi tớ
lăng xăng chặt ớt
Thì em lắc mông
Cời cời mấy
con tôm trên lò
Ui, rượu vang
mới thơm làm sao
Chảy dài một
đường đỏ từ cái mồm đang cười toét
Tới cằm,
Tới luôn hai vú trần của em
“Chắc là em mập quá mất”,
em nói
Ngúng nguẩy
trước gương
“Tớ khùng vì
tôm của em rồi”,
Gấu la lên với
Ông Giời,
Ở
phía bên
trên đang ngó xuống.
DESCRIPTION
OF A LOST THING
It never had
a name,
Nor do I
remember how I found it.
I carried it
in my pocket
Like a lost
button
Except it
wasn't a button.
Horror
movies,
All-night
cafeterias,
Dark
barrooms
And pool
halls,
On
rain-slicked streets.
It led a
quiet, unremarkable existence
Like a
shadow in a dream,
An angel on
a pin,
And then it
vanished.
The years
passed with their row
Of nameless
stations,
Till
somebody told me this is it!
And fool
that I was,
I got off on
an empty platform
With no town
in sight.
Charles
Simic
Miêu tả một
món đồ mất
Nó chẳng hề
có tên
Mà tớ thì cũng
đếch nhớ bằng cách nào tìm thấy nó
Tớ bỏ nó vô
túi
Như 1 cái nút
áo bị mất
Chỉ có điều nó
đếch phải cái nút áo
Phim kinh dị
Quán cà phê
mở suốt đêm
Xe cút kít u
tối
Phòng bi da
Mưa cắt phố
Nó sống 1 cuộc
sống thầm lặng chẳng ai để ý tới
Như cái bóng
trong một giấc mộng
Một thiên thần
trên cây đinh ghim
Và rồi nó biến
mất
Những năm
qua đi với
Những nhà ga
không tên
Cho tới khi
một người nào đó biểu tớ, nó đó!
Không ai khùng
như tớ
Ga vắng tênh
vậy mà xuống tầu
Chẳng
nhìn
thấy một thành phố nào trước mặt.
Resignation
by J. D.
McClatchy
September
24, 2007
I like trees
because they seem more resigned
to the way
they have to live than other things do.
—Willa Cather
Here the oak
and silver-breasted birches
Stand in
their sweet familiarity
While
underground, as in a black mirror,
They have
concealed their tangled grievances,
Identical to
the branching calm above
But there
ensnared, each with the others’ hold
On what
gives life to which is brutal enough.
Still, in
the air, none tries to keep company
Or change
its fortune. They seem to lean
On the
light, unconcerned with what the world
Makes of
their decencies, and will not show
A jealous
purchase on their length of days.
To never
having been loved as they wanted
Or deserved,
to anyone’s sudden infatuation
Gouged into
their sides, to all they are forced
To shelter
and to hide, they have resigned themselves.
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình
Gấu
chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu (1)
la
pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao
mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa
Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng
với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú. (2)
Mưa Sài Gòn
- Đường Tự Do. Ảnh - Darryl Henley [net]
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Thơ GCC
RESIGNATION:
Ẩn nhẫn, cam phận
I like trees
because they seem more resigned
to the way
they have to live than other things do.
— Willa
Cather
Tôi thích
cây, vì xem ra chúng sống, ẩn nhẫn cam phận hơn, so với mọi thứ khác ở
trên đời
này
Đúng ý câu
thơ cực bảnh của GCC!
To shelter
and to hide, they have resigned themselves:
Đúng cái
kiểu ẩn nhẫn, của một anh già lưu vong, sắp sửa ngỏm ở nơi xứ người,
như Gấu!
Anh voi già
không kiếm ra nghĩa địa của loài Mít, bèn cố kiếm một chỗ nằm liếm vết
thương, ẩn nhẫn đếm
những giờ phút cuối cùng của đời mình...
Hà, hà!
Chúng ta
cùng ở một tầng lớp mà ra. Chúng ta cũng là những người ra từ một phong
trào
thơ mới. Chúng ta bắt đầu cùng có mặt trong cuộc Cách mạng tháng Tám.
Ngày nay
hầu hết những nhà thơ cũ thờ ấy đều đã sống lại, trưởng thành: Xuân
Diệu, Tế
Hanh, Huy Cận, Anh Thơ, Lưu trọng Lư, Nguyễn xuân Sanh, Huyền Kiêu. Ít
nhiều
chúng tôi đều có cái tự hào đã đóng góp gì cho thơ, cho dân tộc.
Chế Lan Viên
viết về Vũ Hoàng Chương [Blog NL]
(1)
Tình cờ, GCC
lướt Blog Tin Văn, gặp bài này, của Gấu, tất nhiên:
Dân tộc nào?
Bạn hỏi tôi
về một xứ sở mà những chi tiết về nó đã chạy khỏi tôi,
Tôi không nhớ
địa dư của nó, cũng chẳng nhớ lịch sử của nó.
Hay là tôi
nên viếng thăm nó, bằng hồi ức,
Chắc là nó sẽ
giống như một tình yêu đã qua,
Mà sau nhiều
năm, trở lại, trong một đêm, không còn thao thức
Vì đam mê,
Vì lo sợ
Vì tiếc nuối.
Tôi đã tới
tuổi mà một con người đi thăm trái tim chỉ vì lịch sự.
Đúng là một
bài thơ vừa tình mình, vừa tình nước "chẳng giống ai",
"uncompromising"]! Rushdie phán.
Đọc, Gấu lại
thèm nghe lại Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, khi ở Tù VC, mơ mòng nhìn
thấy
cái gạt nước xua đi nỗi nhớ!
Merde!
Cờ Tướng
CHESS
Jorge Luis Borges
I
In their serious corner,
the players
move the gradual pieces. The board
detains them until dawn in its hard
compass: the hatred of two colors.
In the game, the forms
give off a severe
magic: Homeric castle, gay
knight, warlike queen, king solitary,
oblique bishop, and pawns at war.
Finally, when the players
have gone in,
and when time has eventually consumed them,
surely the rites then will not be done.
In the east, this war has
taken fire.
Today, the whole earth is its provenance.
Like that other, this game is for ever.
II
Tenuous king, slant
bishop, bitter queen,
straightforward castle and the crafty pawn –
over the checkered black and white terrain
they seek out and enjoin their armed campaign.
They do not realize the
dominant
hand of the player rules their destiny.
They do not know an adamantine fate
governs their choices and controls their journey.
The player, too, is
captive of caprice
(the sentence is Omar's) on another ground
crisscrossed with black nights and white days.
God moves the player, he,
in turn, the piece.
But what god beyond God begins the round
of dust and time and dream and agonies?
-Translated
by ALASTAIR REID
ECHECS
I
Ils sont
seuls à leur table austere. Le tournoi
Alterne ses
dangers; lentes, les pieces glissent.
Tout au long
de la nuit deux couleurs se haissent
Dans le
champ agencé qui les tient sous sa loi.
Radieuse
magie où joue un vieil effroi,
Des destins
rigoureux et parés s'accomplissent :
Reine en
armes, brefs pions qui soudain s'anoblissent,
Fou qui
biaise, tour carrée, ultime roi.
Le rite se
poursuit. Il reste ; il faut qu'il reste
Même si le
pied branle à la table déserte,
Même quand
les joueurs seront cherchés en vain.
Le profond
Orient nous légua cette guerre
Dont la
flamme aujourd'hui fait le tour de la terre;
Et comme
l'autre jeu, ce jeu n'a pas de fin.
II
Tour droite,
fou diagonal, reine acharnée,
Roi
vulnérable, pions qu'achemine l'espoir,
Par les
détours fixés d'un ordre blanc et noir
Vous
cherchez, vous livrez la bataille obstinée.
Mais qui de
vous sent sa démarche gouvernée ?
La main ni
le joueur, vous ne sauriez les voir;
Vous ne
sauriez penser qu'un rigoureux pouvoir
Dicte votre
dessein, règle votre journée.
Le joueur, ô
Khayam ! est lui-même en prison,
Et c'est un
échiquier que l'humain horizon:
Jours blancs
et noires nuits, route stricte et finie.
La piece se
soumet à l'homme, et l'homme à Dieu.
Derriere
Dieu, qui d'autre a commencé ce jeu
De
poussière, de temps, de rêve, d'agonie?
J.L. Borges.
[Bản tiếng
Tây của IBARRA, Gallimard, 1970]
I
Ở cái góc nghiêm trọng của họ,
Những kỳ thủ di chuyển những quân cờ.
Cái bàn cờ cầm giữ họ tới sáng
Bằng cái la bàn cứng cỏi của nó:
Lòng thù hận giữa
hai màu cờ,
Một, cờ máu,
Và một, cờ ba que.
Trong cuộc chơi, là luật chơi,
Một ma thuật nghiêm ngặt:
Lâu đài Hô me, kỵ sĩ xám, nữ hoàng thiện chiến, hoàng đế cô đơn,
giám mục xiên xẹo, và những con tốt lao vào cuộc chiến
Sau cùng, khi những kỳ thủ đã
nhập cuộc,
Và khi thời gian đã thiêu đốt cả đám
Rõ ràng là chẳng cần gì đến những nghi thức
[Bàn giao cái con
khỉ, chúng ông lấy hết rồi,
Minh gà tồ còn gì
mà bàn giao?]
Ở phía Ðông, lửa chiến tranh
bừng bừng
Ngày hôm nay, trọn trái đất thuộc về nó,
Như cái khác, trò
chơi này là thiên thu, bất tận.
II
Hoàng đế tế nhị, giám mục xiên
xiên, nữ hoàng cay đắng,
Lâu đài thẳng thắn, và anh cu Sài láu cá –
Trên mảnh đất đen trắng của cái bàn cờ
Tất cả hăm hở tìm tòi, và sung sướng tận hưởng những chiến dịch…
Ðiện Biên, Mùa Hè Ðỏ Lửa, thí dụ.
Họ đâu có nhận ra,
Cái bàn tay thống trị của những thế lực quốc tế bửn thỉu,
Và hơn cả thế nữa,
Là những luật chơi của định mệnh.
Họ đâu có biết cái số phần cứng như gang thép,
Trấn ngự, cai quản những lựa chọn, và kiểm tra những hành trình của họ
Kỳ thủ kia ơi, mi thì cũng bị
cầm giữ bởi tính bất thường
(Câu này thuổng Omar) trên một mảnh đất khác,
Ðan chéo nhau bằng những đêm đen, và ngày trắng.
Ông
Giời di chuyển những kỳ
thủ, và tới luợt họ,
Di chuyển quân cờ
Nhưng Giời nào, ngoài Giời lại có Giời?
Thứ Ông Giời bắt đầu vòng luân hồi
Của bụi, thời gian, và những cơn hấp hối?
Note:
Bạn có thể đọc bài thơ này, và nhớ NMG.
Cả
hai cuốn trường thiên tiểu thuyết của ông, là đều lấy cảm hứng từ, và viết về, cuộc chiến bửn thỉu, với những nhân vật
- cũng bửn
thỉu - của nó. (1)
Chúng ta có 1 tên đao phủ, một tên nhà văn VC nằm vùng
[Ngữ, nghe nói, là từ NN mà ra].
Chỉ
thiếu 1 Nguyễn Huệ của Miền Nam
(1)
"Nói
chung, bộ trường thiên lấy khung cảnh thời Tây Sơn, thế kỷ 18 và khởi
đầu là sự
nghiệp của anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và
chấm dứt
khi Nguyễn Huệ mất. Đây là thời gian có nhiều biến động. Quan trọng là
qua những
biến động đó, cái thử thách dành cho người đương thời, nhất là những
nho sĩ, những
người viết lách, những người có trình độ trí thức cao, phong phú lắm.
Mỗi người
một thái độ phản ứng khác nhau."
"Một thời đại mà tất cả biến động của lịch sử và cái phức tạp của đời
sống
hiện ra trọn vẹn, giống như những phức tạp hiện ra trong thời kỳ cộng
sản ở Việt
Nam vậy, giống nhau lắm. Và vì giống như vậy, thay vì trực tiếp viết về
cộng sản,
tôi chuyển qua hai thế kỷ trước viết về thời Tây Sơn. Có nhiều hoàn
cảnh mà tôi
suy từ thời mình bây giờ sang thời trước."
NMG
Realism,
in
a narrower sense, was a method of gaining reality for the novel. (2)
Canetti: Realism and New Reality
Chủ
nghĩa hiện thực, theo một nghĩa hạn hẹp, là
một phương pháp kiếm tí thực tại cho tiểu thuyết.
WISLAWA
SZYMBORSKA
1923-2012
Szymborska's
poetry is strongly influenced by modem science. She assumes that the
borderline
between us and the rest of nature is tenuous. On the other hand, she
knows that
our inveterate habits incline us to look at animals and insects with a
feeling
of our special privilege. Thence her ironic poem.
SEEN FROM
ABOVE
On a dirt
road lies a dead beetle.
Three little
pairs of legs carefully folded on his belly.
Instead of
death's chaos-neatness and order.
The horror
of this sight is mitigated,
the range
strictly local, from witchgrass to spearmint.
Sadness is
not contagious.
The sky is
blue.
For our
peace of mind, their death seemingly shallower,
animals do
not pass away, but simply die,
losing-we
wish to believe-less of awareness and the world,
leaving-it
seems to us-a stage less tragic.
Their humble
little souls do not haunt our dreams,
they keep
their distance,
know their
place.
So here lies
the dead beetle on the road,
glistens
unlamented when the sun hits.
A glance at
him is as good as a thought:
he looks as
though nothing important had befallen him.
What's
important is valid supposedly for us.
For just our
life, for just our death,
a death that
enjoys an extorted primacy.
Translated
from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire
Czeslaw
Milosz giới thiệu
Thơ của
Szymborska ảnh hưởng nặng bởi khoa học hiện đại. Bà cho rằng đường biên
giữa chúng
ta và phần còn lại của thiên nhiên thì mỏng, mảnh. Mặt khác, bà biết,
con người
có thói quen nhìn xuống những sinh vật khác - loài vật và côn trùng
– với
vẻ kẻ cả của họ.
Từ đó, là bài thơ hóm hỉnh sau đây.
Nhìn từ bên
trên
Trên mặt đường
dơ dáy có một con ong chết.
Ba cái chân
nhỏ của nó thu gom lại thật là cẩn thận ở trên bụng
Thay vì một
cái chết - hỗn loạn, điêu tàn, hoang mang, nhược tiểu, da vàng [bạn tha
hồ phịa
thêm ra]… -
thì là một cái chết ngăn nắp,
gọn gàng, sạch sẽ….
Sự kinh hoàng,
ghê sợ của cảnh tượng thì được giảm thiểu đi, tối giản đi,
“chỉ có tính địa phương,
cục bộ, từ 'cỏ nội hoa hèn' cho tới 'bèo dâu
quen thói'…”
Cái buồn ở đây
thì không gây nhiễm
[Đếch có
chuyện “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”!]
Bầu trời thì
xanh.
Vì sự bình
an của tâm hồn của chúng ta,
cái chết của một con ong thì là cái thớ gì.
Loài vật thì
làm gì có chuyện "đi xa", chúng giản dị chết, mất đi
– chúng ta đành phải tin như vậy
-
thế giới, hay tí nhận thức về thế giới
Để lại – Có
vẻ như vậy đối với chúng ta – sàn diễn bớt bi thương
Những linh hồn
nhỏ bé, khiêm tốn… của chúng
không hành hạ, ám ảnh những giấc mơ của chúng ta.
Chúng giữ một
khoảng cách,
chúng biết chỗ, thân phận bọt bèo của chúng
Và thế là đây
là con ong nằm chết ở trên mặt đường
mặt trời chói
chang trên thân thể trần trụi của nó,
thế mà nó cũng
đếch thèm than thở!
Một cái nhìn
thoáng qua,
Thì tốt chứ
không có hại, cho tâm hồn của bạn
Với ý nghĩ
như thế này này:
Con ong nằm
chết như thể chẳng có số mệnh quan trọng mẹ gì giáng lên nó.
Cái gọi là
quan trọng thì chỉ quan trọng với lũ con người chúng ta
Cho cuộc đời
của chúng ta
Chứ không phải
cho cái chết
Thì cũng của
chúng ta!
Chết là hết.
Đừng quan trọng
nó quá nhe, Gấu Cà Chớn!
Cái ý chót,
Sébastien Chamfort có 1 câu thơ, được Beckett “không” dịch được [thuổng
ý của
Thầy Tiên Chỉ Xứ Mít, VP], ra tiếng Anh như sau đây:
Bi kịch có 1
cái cực khó chịu, cực bất tiện, về mặt đạo đức, đó là, nó đặt nặng sự
quan trọng
vào cuộc đời và vào cái chết.
Le théâtre tragique
a le grand inconvenient moral de mettre
trop d’importance à la vie et à la mort.
Bản tiếng
Anh của Beckett:
The trouble
with tragedy is the fuss it makes
About life
and death and other tupppenny aches.
Bạn thấy, có
sự "lệch pha" giữa hai câu thơ.
VP vin vào đó, phán, thơ đếch dịch
được, thơ dịch
đếch phải thơ, trong khi “cả nhân loại”, coi, cả hai đều là thơ, và, có
người
còn phán, họ là 1 cặp vợ chồng!
Note: Tập Collected, mua lâu
rồi, second-hand, nhưng cũng “bày đặt đọc”, mới
đây thôi.
Khi mua,
thì chỉ vì trong có bài thơ TTT thuổng, để viết về cô con
gái, được in trong Thơ Ở Đâu Xa.
Tập Selected, vừa mới tậu mua, cùng với
số báo Time đặc biệt Tưởng Niệm Marilyn
Tuyệt nhất
là mấy câu thơ Beckett, GCC cực mê, thấy ở bìa sau cuốn mới mua, cũng
“bắt chước”
GCC, đi 1 đường thổi um lên:
je suis ce cours de sable qui
glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the
receding mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Note: To K & O:
Dịch giùm.
Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt
hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la
pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú.
Và luôn thể, với bài thơ, cũng của Beckett, sau đây.
Tôi
muốn tình tôi....
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình
Gấu
chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu (1)
|
|