|
Here's a
woman's black glove.
It ought to mean something.
A thoughtful stranger left it
On the red
mailbox at the corner.
Three days
the sky was troubled,
Then today a few snowflakes fell
On the glove, which
someone,
In the
meantime, had turned over,
So that its fingers could close
A little ...
Not yet a fist.
So I waited,
with the night coming.
Something told me not to move.
Here where
flames rise from trash barrels,
And the homeless sleep standing up.
Chiếc bao
tay bị mất
Ðây là chiếc
bao tay màu đen của một phụ nữ.
Nó phải có nghĩa
gì đó.
Một người lạ
mải suy nghĩ
Bỏ quên trên
cái hộp thư màu đỏ ở góc đường.
Ba ngày rồi
bầu trời lục đục,
Và rồi bữa
nay những miểng nhỏ tuyết rơi
Lên trên cái
bao tay, mà một người nào đó
Cùng lúc đó, lật nó lên,
Bởi vậy mà mấy
ngón tay cụm lại, gần nhau hơn
Một chút thôi…
Chưa thành một cái nắm tay.
Bởi vậy mà Gấu
đợi, cùng với đêm tới.
Một điều gì đó
biểu Gấu, ngồi im, đừng bỏ đi.
Và bây giờ, những
ngọn lửa bốc lên từ mấy cái thùng phuy chứa rác.
Và những kẻ không nhà ngủ đứng, kế bên.
THE CHAIR
This chair
was once a student of Euclid.
The book of
his laws lay on its seat.
The schoolhouse windows were open,
So the wind turned
the pages
Whispering the glorious proofs.
The sun set
over the golden roofs.
Everywhere the shadows
lengthened,
But Euclid kept quiet
about that.
Cái ghế
Cái ghế này
có thời là đệ tử của Euclid
Cuốn sách luật
của anh ta còn bỏ trên ghế.
Những cửa sổ
trường học thì mở,
Bởi thế gió lật
những trang sách
Thì thầm những
chứng minh hiển hách.
Mặt trời vàng
trên những mái nhà
Ðâu đâu những
chiếc bóng thì cũng dài mãi ra.
Nhưng Euclid
nín thinh về chuyện này
THE MUSEUM
OPENS AT MIDNIGHT
That's why
only a couple of people wait outside.
They are
strangers and the shadows of columns obscure them
even
further.
The windows
across the avenue are no longer lit.
Everyone else must be asleep or nearly so.
The guard
will be along any moment with the keys,
Or he may have come already and
unlocked the doors.
At this late
hour, they keep the museum dark,
Relying on lit candles in paintings to provide
the light.
The Egyptian death masks are waiting.
The statues
of naked Greek goddesses
And the
Dutch interiors with canopied marriage beds.
You expect the couple to keep
close together, but no.
She's off to another wing where there is a show
Of
black-and-white photographs of small children
And he wants to see the martyrs
in their torments.
It's up to
us to divine what happens next.
The woman has found a bench to sit on.
She can't
see the photos, but she believes she hears
The rustle of the girls' stiff
dresses
As they stir
slightly before the hooded camera.
Viện Bảo
Tàng Mở Cửa Nửa Ðêm
Vì vậy chỉ
có vài cặp đợi bên ngoài.
Họ là những
người lạ và bóng của những cái cột
làm họ lù mà lù mù thêm.
Những cửa sổ
dọc con phố đều không còn ánh đèn.
Mọi người hẳn
là ngủ, hoặc sắp sắp.
Người gác bảo
tàng chắc sắp tới với chùm chìa khoá.
Hoặc tới rồi
đang lui cui mở cửa
Vào giờ trễ
muộn như thế này, họ để viện bảo tàng tối thui
Trông cậy
vào mấy cây nến từ những bức tranh ban phát ánh sáng.
Những mặt nạ thần chết Ai
Cập
đang đợi
Những bức
tượng nữ thần Hy Lạp trần truồng
Những trang trí nội thất Hà Lan với những chiếc giường hôn nhân có
chân giống như chiếc ca nô
Bạn hy vọng cặp đàn ông đàn bà tiến gần đến nhau hơn, nhưng không.
Người đàn bà dời qua một cánh khác, nơi sẽ có một sô
trình bày những bức hình đen trắng của những đứa trẻ nhỏ
Còn người đàn ông thì muốn coi những kẻ tuẫn nạn đang rầu rĩ
Tùy chúng ta
tiên đoán chuyện gì sẽ xẩy ra tiếp theo.
Người đàn bà tìm thấy một băng ghế và ngồi xuống.
Bà không nhìn thấy những bức hình, nhưng bà tin là bà nghe được
tiếng
sột soạt của những chiếc áo dài cứng ngắc của những cô gái
khi chúng lết nhè nhẹ trước
cái máy chiếu phim chùm đầu.
Như hầu hết
các bài thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà thơ này là
tới nhất
(mặc dù tôi không đủ năng lực tiếng Anh để kiểm chứng), khác với
thơ dịch
Simic, khó nuốt, (xin lỗi bác, đây chỉ là cảm nhận riêng mà thôi).
Ðộc giả TV
Thơ Simic trầm
trọng hơn so với Zagajewki. Trong thơ Simic có cái quá khứ Mít. Có
thể vì
thế mà chúng ta thích đọc thơ Zagajewski hơn chăng?
Bài dưới đây mà chẳng trầm
trọng sao?
Gấu cứ nghĩ đến 1 anh cu
Gấu, của một thời
vị lai, đang đọc sử Mít, và chứng kiến cái cảnh ông cụ của Gấu bị lịch
sử cho
đi mò tôm!
READING
HISTORY
for Hans
Magnus
At times,
reading here
In the library,
I'm given a
glimpse
Of those
condemned to death
Centuries
ago,
And of their
executioners.
I see each
pale face before me
The way a
judge
Pronouncing
a sentence would,
Marveling at
the thought
That I do
not exist yet.
With eyes
closed I can hear
The evening
birds.
Soon they
will be quiet
And the
final night on earth
Will commence
In the
fullness of its sorrow.
How vast,
dark, and impenetrable
Are the
early-morning skies
Of those led
to their death
In a world
from which I'm entirely absent,
Where I can
still watch
Someone's
slumped back,
Someone who
is walking away from me
With his hands tied,
His graying head
still on his shoulders,
Someone who
In what
little remains of his life
Knows in
some vague way about me,
And thinks
of me as God,
As Devil.
Đọc Sử Ký
Gửi Hans
Magnus
Đôi khi đọc ở
đây
Tại thư viện
Tôi được đưa
mắt nhìn
Những người
bị kết án tử hình
Những thế kỷ
đã qua
Và những đao
phủ của họ
Tôi nhìn mỗi
khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa
tuyên án
Lạ làm sao,
là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi
đó mình chưa ra đời!
Với cặp mắt
nhắm tít, tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc,
chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau
cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi
thống khổ của nó
Bao la, tối,
không cách nào xuyên thủng,
Là những bầu
trời sáng sớm
Của những
con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế
giới mà tôi thì hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của
tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo
đảo,
Của một người
nào đó,
Một người
nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay
bị trói
Cái đầu xám
của người đó thì vẫn còn trên hai vai
Một người
nào đó
Trong tí xíu
thời gian còn lại của cuộc đời của mình
Biết, một
cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về
tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ
THE SEA
Shimmering
among boulders, deep blue at noon,
ominous when summoned by the west wind,
but calm at
night, inclined to make amends.
Tireless in
small bays, commanding
countless hosts of crabs who march sideways
like damp
veterans of the Punic Wars.
At midnight
cutters sail from port: the glare
of a single light slices the darkness,
engines
quake.
At the beach
near Cefalu, on Sicily, we saw
countless heaps of trash, boxes, condoms,
cartons, a faded sign saying ANTONIO.
In love with
the earth, always drawn to shore,
sending wave after wave-and each dies
exhausted, like a Greek messenger.
At dawn only
whispers reach us,
the low
murmur of pebbles cast on sand
(sensed even in the fishing town's small
square).
The
Mediterranean, where gods swam,
and the frigid Baltic, which I entered,
a skinny,
trembling, twenty-year-old eel.
In love with
the earth, thrusting into its cities, Stockholm,
Venice, listening to tourists
laugh and chatter
before
returning to its dark, unmoving source.
Your
Atlantic, busy building up white dunes,
and the shy Pacific hiding in the
deeps.
Light-winged
gulls.
The last
sailing ships, white canvas
billowing on crosses.
Slim canoes
are manned by watchful hunters,
the sun rises in great silence.
Gray Baltic,
Arctic
Ocean, mute,
the Ionian,
world's origin and end.
Biển
Lung linh giữa
những mỏm đá, xanh thẳm vào giữa trưa
đáng ngại
khi gió tây vần vũ, quần tụ
nhưng yên tĩnh
vào đêm, như làm hòa với tất cả.
Không chút mệt
mỏi, ở những bãi biển nhỏ, ra lệnh
cho lũ cua, hằng hà sa số, diễu hành bên bờ
như những cựu
binh lừ khừ của những Cuộc Chiến Punic.
Nửa đêm, đoàn
thuyền một cột ra khơi: một dải ánh sáng độc nhất
cắt đêm đen
máy khua nhè nhẹ.
Ở bãi biển gần
Cefalu, trên Silicy, chúng ta nhìn thấy
những đống,
không đếm được, rác, lon, áo mưa
hộp giấy, một
tấm biển mờ nhạt ANTONIO
Tương tư đất,
luôn cuốn về bờ
từng đợt sóng, từng đợt sóng, và mỗi đợt chết
mệt nhoài,
như một vì
sứ giả Hy Lạp.
Vào lúc rạng
đông chỉ những tiếng nói thầm với tới chúng ta,
tiếng rù rì của
những viên sỏi ở lại với bãi cát
(cảm thấy cả
điều này, ở những ô vuông nhỏ của thành phố cá).
Ở Ðịa Trung
Hải, nơi những vị thần bơi lội
và ở biển
Baltic cứng ngắc, nơi tôi tuồn vô,
một con cá ốm
nhom, run rẩy, hai muơi tuổi đời.
Ðám đuối với
đất, hăm hở lấn tới tận những thành phố của nó, Stockholm,
Venice, lắng nghe những du khách cười nói
trước khi trở
về với nguồn tối thui, bất động.
Ðại Tây Dương
kia ơi, bận rộn dựng lên những đụn cát trắng
và Thái Bình
Dương e thẹn náu ở những vực sâu.
Những con hải
âu cánh nhẹ.
Ðoàn tầu sau
cùng ra khơi, buồm trắng,
cuộn sóng, đan chéo nhau.
Ca nô mỏng được
điều khiển bởi những tay thợ săn chăm chú
mặt trời mọc
trong một im lặng lớn.
Baltic, xám
Biển Bắc, câm
Biển Ionian,
khởi đầu và tận cùng thế giới
*
Giá mà có một
ấn bản thơ dịch Adam của bác, tương tự như cuốn Istanbul,
thì thú biết mấy!
Ðộc giả
Trong nước,
có người đề nghị Gấu đi 1 tuyển tập thơ dịch.
Nghĩ không thôi, là đã thú rồi!
Trân trọng,
NQT
*
Hoàng Oanh
Từ bút hiệu
Hoài Nam (*) qua Trần Dạ Từ, thưa nhà thơ, tôi biết là một khoảng cách
lớn.
Nhưng đó là một cái biết mơ hồ thôi. Nếu được, xin nhà thơ nói rõ cho
tôi được
hiểu, đâu là những sự khác biệt của hai thời kỳ này? Xin được cám ơn
ông trước.
Nhà thơ Trần
Dạ Từ trả lời:
Các cô cậu
thiếu niên khi tới tuổi trưởng thành thường tự sửa bộ vó. Chuyện hai
bút hiệu
chắc cũng chỉ vậy thôi. Từ tuổi mười lăm - mười bẩy bước qua tuổi mười
tám, khoảng
cách là một năm. Giữa hai thời kỳ, khác biệt cũng chỉ là một từ: đã,
đang, hoặc
sẽ. Dăm ba năm vị thành niên, đã xong.
Dăm ba chục năm được coi là trưởng thành, đang xong, sẽ xong. Hoặc sắp xong, thưa cô Hoàng Oanh. Cám ơn cô.
Người hỏi, rõ
ra là thành thực, và câu hỏi, thật nghiêm túc, nhưng nhà thơ trả lời
theo kiểu
bông phèng, cho qua đi, có thể ông cũng không muốn nhắc lại quá khứ
hạnh phúc,
hay đau khổ, giữa khoảng thời gian, từ Hoài Nam qua Trần Dạ Từ.
Bởi vì đây là cả 1 vấn đề,
bút hiệu.
Và cùng với nó, tên nhân vật, trong tiểu thuyết, trong thơ.
Trong Thần Ðao
Hồ Ðại Ðởm, hay Lãnh Nguyệt
Bảo Ðao, của Kim Dung, nhân vật Ðả Biến Thiên Hạ Vô Ðịch Thủ
Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng
có mối thù bố bị Thần Ðao làm thịt, theo như thiên hạ đồn đại, và bèn
“tự thổi
mình” bằng cái nick trên, hy vọng Thần Ðao quê quá, từ Tây Vực bò xuống
Trung
Nguyên, để hai bên chơi 1 cú duel, ấn chúng võ công, và trả thù cho cha.
Gặp
nhau, đấu với nhau liền tù tì mấy trận, quí tài nhau, Hồ Gia Ðao Pháp
của
Thần Ðao còn bảnh hơn cả Miêu Gia Kiếm Pháp. Nhưng cuối cùng chính Miêu
Nhân Phượng
lại giết chết Thần Ðao. Vết thương thường thôi, chỉ xước da, do Thần
Ðao không
nghĩ Miêu Nhân Phượng chém xuống [buổi tối hôm trước, ông đã nhờ thầy
lang Diêm Cơ
nói cho Miêu Nhân Phượng biết ông bố của ông ta vì sao mà chết, và
không phải
Thần Ðao giết], nhưng do lưỡi kiếm có thẩm thuốc độc, thành ra Thần Ðao
bèn đi
luôn.
Miêu Nhân Phượng
cho rằng thứ thuốc độc giết được Thần Ðao thì cũng phải của bậc thầy,
tức của Vua Ðộc,
thế là ông bèn đi kiếm Vua Ðộc, để hỏi tội. Lúc đó, Vua Ðộc đã xuống
tóc đi
tu, lấy nick là “Vô Sân", hình như thế. Ông nói, không phải
ta, nhưng MNP không tin bèn gõ cho ông thầy chùa một cái, rồi bỏ đi. Về
nhà nhận
gói quà, với cái note, nếu mi đúng là "thiên hạ vô địch thủ", thì mở
gói quà này.
MNP mở ra, có con rắn độc đợp cho 1 phát, xưng vù liền tù tì, nhưng kế
đó, có lọ
thuốc, xoa vô là hết.
MNP kể sự tích
trên cho nữ đệ tử của Vô Sân, là Trình Linh Tố để từ chối chuyện cô này
chữa vết
thương mù mắt cho mình. Trình Linh Tố phán, khi ông đến gặp Thầy tôi,
thì ông còn
là Vô Sân. Sau này Thầy tôi tu lên thêm 1 bực, đổi nick là Vô Thường
rồi [thí dụ
vậy].
Gấu tin rằng,
có 1 sự “thay đổi lớn”, giữa, Hoài Nam chuyển qua thành Trần Dạ Từ.
Có 1 khoảng cách lớn giữa "Nguyễn Quốc Trụ là thằng củ c.. nào", như
Thương Sinh đã từng lên giọng, trước 1975 khi còn Miền Nam và
Jennifer Tran
ở hải ngoại.
Bút hiệu
không đơn giản như chuyện sửa bộ vó. Tên nhân vật trong tiểu thuyết
cũng không
đơn giản. Chúng đều liên quan tới cái ngã, giả và thật của người viết.
Trên TV
đã đi vài đường về chuyện này rồi, thí dụ, về nick Nhị của Mai Thảo. Về Tâm,
trong Bếp Lửa của TTT.
Và ngay cả
cái chuyện, khi bạn nhắc tới 1 bút hiệu này, Jennifer Tran, mà
vờ đi
bút hiệu kia, Nguyễn Quốc Trụ, là cũng có vấn đề!
[Xin lèm bèm sau].
Không phải
ai cũng biết đến bút hiệu Hoài Nam của Trần Dạ Từ. Có thể nhà thơ biết,
tại sao
có câu hỏi này, và, thay vì trả lời thực sự vào câu hỏi, thì lại trả
lời bông
phèng, “sửa bộ vó”.
Gấu sợ có cả
1 "thiên tình sử" [?] ở đây, từ HN qua TDT!
Bởi vì chính vị độc giả này cũng xác nhận: tôi biết là một khoảng
cách
lớn!
Tình cờ
đọc
1 bài trong số Granta One Hundred
của Salman Rushdie, về Heraclitus, thì Gấu mới
ngộ ra, chuyện bút hiệu liên quan đến “người ta không thể tắm hai lần
trong
cùng 1
dòng sông”, và đây có thể là cái ý mà TDT không nói thẳng ra, mà nói me
mé:
Từ
tuổi mười lăm - mười bẩy bước qua tuổi mười tám, khoảng cách là một
năm….
Poem of the
Day–Wislawa Szymborska
Autonomy
Poem of the Day–Wislawa Szymborska
by
John Higgins, Akron Beacon Journal education reporter on April 16, 2010
in Poem of the
Day,Uncategorized
I
thought I’d close out our mini-series on Postwar
Polish Poetry with
another poem by Nobel Prize winner Wislawa Szymborska about the Holothurian,
or Sea
Cucumber.
Autonomy
In
danger the holothurian splits itself in two:
it offers one self to be devoured by the world
and in its second self escapes.
Violently
it divides itself into a doom and a salvation,
into a penalty and a recompense, into what was and what will be.
In
the middle of the holothurian’s body a chasm opens
and its edges immediately become alien to each other.
On
the one edge, death, on the other, life.
Here despair, there, hope.
If
there is a balance, the scales do not move.
If there is justice, here it is.
To
die as much as necessary, without overstepping the bounds.
To grow again from a salvaged remnant.
We,
too, know how to split ourselves
but only into the flesh and a broken whisper.
Into the flesh and poetry.
On
one side the throat, on the other, laughter,
slight, quickly calming down.
Here
a heavy heart, there non omnis moriar,
three little words only, like three little plumes ascending.
The
chasm doesn’t split us.
A chasm surrounds us.
To the memory of Halina Poswiatowska
Tự Trị
Gặp nguy hiểm
dưa biển tự phân đôi,
Thí một nửa
cho thế giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo,
nó xé đôi nó ra, một nửa là tận thế, một nửa là cứu chuộc
một nửa là
trừng phạt, một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm
qua, một nửa là ngày mai
Ở giữa dưa
biển, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập
tức trở thành xa lạ với nhau.
Một rìa, cái
chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán
chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự
thăng bằng, thì OK.
Nếu có công
lý, thì là như vậy đó.
Chết như là
có thể, trong hạn vi, không vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại,
từ chút cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng
biết cách phân thân
Nhưng chỉ để
trở thành, một bên là thịt, một bên là lời thì thầm bị bẻ gãy.
Một bên là
thịt, và một bên là thơ ca.
Một bên là cổ
họng, một bên là tiếng cười,
yếu ớt, tắt
ngấm liền tức thì.
Ðây, trái
tim nặng nề, kia, kia non omnis moriar,
chỉ ba từ
nho nhỏ, như ba cái lông chim bay lên.
Lỗ nẻ không
chia chúng ta
Một cái lỗ nẻ bao quanh
chúng ta
Tưởng nhớ Halina
Poswiatowska
Note: Bài
thơ này, Gấu đọc, lần đầu, trong The Witness of
poetry, Chứng tích thơ, của Czeslaw Milosz. Khác 1 chút so với bản
trên
net.
Far from
Home
That
morning
the sky was veiled, dark –
clouds with
enigmatic
Oriental
faces
were in no
hurry.
At noon the
long blades of sunbeams
started
pacing the city's rooftops
like
scissors seeking victims.
Bonfires
flared, smoke bowed to its masters,
while
blood-the great absentee-
intoned its
Gregorian chant.
Xa Xứ Mít
Sáng nay bầu
trời bị che phủ, u tối -
những đám
mây với những bộ mặt Ðông Phương bí ẩn
thì cứ ỳ ra
đó.
Vào buổi
trưa, ánh mặt trời chém chặt mái nhà,
như những đường
gươm dài truy nã nạn nhân.
Những đống lửa
đốt lên, khói cúi đầu trước sư phụ của nó,
trong khi
máu - kẻ vắng mặt lớn- ư ử trong 10 năm TCS.
SYRACUSE
City with
the loveliest name, Syracuse;
don't let me
forget the dim
antiquity of
your side streets, the pouting balconies
that once caged
Spanish ladies,
the way the
sea breaks on Ortygia's walls.
Plato met
defeat here, escaped with his life,
what can be
said about us, unreal tourists.
Your
cathedral rose atop a Greek temple
and still
grows, but very slowly,
like the
heavy pleas of beggars and widows.
At midnight
fishing boats radiate
sharp light,
demanding prayers
for the
perished, the lonely, for you,
city
abandoned on a continent's rim,
and for us, imprisoned in our travels.
SYRACUSE
Thành phố với
cái tên đáng yêu nhất, Syracuse;
đừng để cho
ta quên sự cổ xưa mù mờ
của những hè phố của mi,
những bao lơn trề môi,
đã một
thời giam giữ những phu nhân Tây Ban Nha
cách biển
đập lên những bức tường Ortygia.
Plato gặp thất
bại ở đây, chạy trốn cùng với cuộc đời của ông ta,
điều gì có
thể được nói về chúng ta, những du khách không thực.
Nhà thờ của
mi dựng lên trên đỉnh ngôi đền Hy Lạp,
Và vẫn tiếp
tục dựng lên, nhưng thật chậm,
như những lời
cầu xin nặng nề của hành khất và góa phụ.
Nửa đêm,
thuyền đánh cá ánh lên tia sáng nhọn hoắt,
đòi hỏi lời cầu nguyện cho những kẻ
tiêu trầm, những kẻ cô đơn, và cho mi,
thành phố bỏ
hoang nơi bìa đại lục,
và
cho chúng ta, bị cầm
tù trong những viễn du của mình.
Note: Thơ
Simic trầm trọng, thơ Zagajewski thanh thoát, theo GNV.
Nhưng bài thơ viết về năm ra đời của ông, 1938, mà chẳng thú sao?
Nineteen
Thirty-Eight
That was the
year the Nazis marched into Vienna,
Superman
made his debut in Action Comics,
Stalin was
killing off his fellow revolutionaries,
The first
Dairy Queen opened in Kankakee, Ill.,
As I lay in
my crib peeing in my diapers.
“You must
have been a beautiful baby,” Bing Crosby sang.
A pilot the
newspapers called Wrong Way Corrigan
Took off
from New York heading for California
And landed
instead in Ireland, as I watched my mother
Take a
breast out of her blue robe and come closer.
There was a
hurricane that September causing a movie theater
At
Westhampton Beach to be lifted out to sea.
People
worried the world was about to end.
A fish
believed to have been extinct for seventy million years
Came up in a
fishing net off the coast of South Africa.
I lay in my
crib as the days got shorter and colder,
And the
first heavy snow fell in the night.
Making
everything very quiet in my room.
I believe I
heard myself cry for a long, long time.
Một Chín Ba
Tám
Đó là năm binh
đoàn Nazi tiến vào Vienna,
Siêu nhân lần
đầu xuất hiện trên báo hình Action Comics,
Stalin làm
thịt cựu chiến hữu,
Tiệm Dairy
Queen khai trương tại Kankakee, Ill.,
Còn tớ thì nằm
trong máng cỏ, tè ướt đẫm tã.
“Mi hẳn sẽ
là 1 đứa bé cực đẹp”, ca sĩ Bing Crosby thổi tớ.
Một viên phi
công mấy tờ báo gọi là “Corrigan Lầm Đường”
cất cánh tại
New York, nhắm California
nhưng lại hạ
cánh tại Ireland,
trong lúc tớ
ngắm nghía bà mẹ của tớ lấy cái vú đầy ứ sữa ra khỏi áo
và đưa nó xuống
gần miệng tớ.
Có một trận
bão khủng vào Tháng Chín,
nhấc lên cả
1 rạp hát ở Westhampton Beach và thẩy xuống biển.
Dân chúng lo
lắng sắp tận thế.
Một chú cá
tuyệt chủng từ 70 triệu năm về trước,
bèn xuất hiện,
và lọt lưới 1 anh thuyền chài ở phía bên ngoài bờ biển Nam Phi.
Tớ nằm trong
máng cỏ trong khi ngày tháng cứ thế kéo dài lê thê,
ngày một
ngắn
hơn, và lạnh hơn.
Và một
trận
tuyết nặng nề đầu tiên sẽ rơi xuống đêm nay.
Làm mọi
thứ
trong căn phòng của tớ càng thêm im ắng.
Và tớ nhớ
là, tớ đã khóc, đã khóc, một thời gian thật lâu.
CHC: Thay mặt độc giả Sóng,
thành thật cảm ơn anh Đỗ Quý Toàn và xin anh cho độc giả đọc lại một
bài thơ
của anh. Bài gì có câu: “hai đứa ngồi đó như hai hòn bi” ấy. Tưởng cũng
nên hỏi
anh xuất xứ bài này.
ĐQT: Bài
này được nhiều người biết vì anh Phạm Duy phổ nhạc hay quá xá. Vì anh
mà nhiều
người gọi tôi là “thi sĩ hai hòn bi”. Viết vào khoảng năm 1959 in
lần đầu
trên báo Ngàn Khơi khoảng 1960-1961. Ngày đám hỏi tụi tôi, năm
1964, tôi
đọc cho bạn bè nghe. Anh Phạm Duy có ở đó, bảo đưa anh đem về. Một tuần
sau anh
gặp tôi ở đường Lê Lợi dừng lại hát cho tôi nghe liền. Nghe chị Thái
Thanh hát
ở Đêm Màu Hồng đã lắm.
Gấu đã kể về, cả thành phố Sài
Gòn có 1 dạo khổ vì “hai hòn bi” của
nhà thơ, sáng nào cũng ra rả trên Ðài Phát Thanh Sài Gòn. (1) Bây giờ
lại
lôi ra để
mà làm khổ độc giả TV nữa, thì kỳ quá. Nhưng, cũng chỉ là tình cờ, Gấu
đọc bài
viết của Charles Simic, điểm 1 tập thơ của Elizabeth Bishop, trên số
báo NYRB,
27 Tháng 4, 2006, ông có trích dẫn một bài thơ của Bishop, xem ra có
thể so sánh
với bài “hai hòn bi”, ở cái vẻ tự nhiên của nó, nhưng với 1 độc giả
tinh ý, thì
một bên là giả đò, một bên là thực sự.
It is marvelous
to wake up
together
At the same
minute; marvelous to
hear
The rain
begin suddenly all over
the roof,
To feel the
air suddenly clear
As if
electricity had passed
through it .
From a black
mesh of wires in the
sky.
All over the
roof the rain hisses,
And below,
the light falling of
kisses.
An
electrical storm is coming or
moving away;
It is the
prickling air that wakes
us up.
If lightning
struck the house now,
it would run
From the
four blue china balls on
top
Down the
roof and down the rods
all around us,
And we
imagine dreamily
How the
whole house caught in a
bird-cage of lightning
Would be
quite delightful rather
than frightening;
And from the
same simplified
point of view
Of night and
lying flat on one's
back
All things
might change equally
easily,
Since always
to warn us there
must be
these black
Electrical wires dangling.
Without
surprise
The world
might change to
something
quite different,
As the air
changes or the
lightning comes without our blinking,
Change as
the kisses are changing
without our thinking.
Simic phán:
Ðiều mà
Bishop mê nhất trong thơ là tính tự nhiên của giọng thơ. “Phải thật có
tài mới làm
cho nó thật tự nhiên”, bà nói. Bà không
hề sợ nghe có vẻ sến, và tin vào những từ bình thường, để làm ra thứ
thơ siêu phàm.
[What she
most admired in poetry was the naturalness of tone. "It takes great
skill
to make it seem natural," she said. She was never afraid of sounding
flat,
trusting ordinary words to make sublime poetry].
Ðọc hai bài
thơ, đều là thơ tình, của Bishop và của Ông số 2, thì chúng ta sẽ thấy
ngay, một
bên làm ra vẻ tự nhiên, và một, tự nhiên.
(1)
Ông Số Hai
là một thi sĩ. Thơ của ông đã từng được phổ nhạc. Không phải nhạc sĩ
nào cũng
được hân hạnh phổ thơ của ông. Mà phải là một thứ thầy, chuyên phổ thơ
của những
nhà thơ thầy.
Bạn đọc chắc
là đoán ra nhà nhạc sĩ đại tài, nhất là trong cái việc phổ thơ.
Tuy nhiên đại
tài hay không đại tài, vẫn có lần thất bại, và nhè đúng vào bài thơ của
Ông Số
Hai. Nghĩa là chẳng ai thèm nhớ cả thơ lẫn nhạc. Hai Lúa này nhớ, có
một dạo,
đài phát thanh Sài Gòn ngày nào cũng chơi bản nhạc phổ thơ của ông.
Chuyện đó xưa
lắm rồi, từ hồi ông mới bước chân vào làng, nhanh chân cũng chẳng thua
Hai Lúa,
[ông cùng học Nguyễn Trãi, Hà Nội, với Hai Lúa, cùng năm, chỉ không
cùng lớp],
mà nếu có sau HL thì cũng chỉ chừng vài tiếng, hoặc vài ngày! Nghĩa là,
ông
cũng thuộc vào thế hệ văn học thập niên 1960 của Sài Gòn, độc nhất,
tuyệt nhất,
của văn học của chúng ta, như một nhà thơ trong nước cảm thán.
Cựu trào như
thế, mà cho tới bi giờ chẳng ai thèm nhớ một câu văn, một bài thơ nào
của
"ổng" cả!
Có lẽ chính
vì vậy, khi Khi Tôi Chết Hãy Ném Thây Tôi Xuống Biển của nhà thơ Du Tử
Táo nổi
lên như cồn, Ông Số Hai phán, bài thơ này, ai làm mà chẳng được!
Cựu trào như
thế, nhưng may mắn cho Hai Lúa, cả đời chưa từng phải nhắc tới nhà thơ
lớn này
một lần nào. Có lỡ gặp nhau, thì cũng đành gật đầu, hoặc kẹt lắm, bắt
tay cho
nó đỡ trơ, đỡ chuế, cho cả hai bên!
Vậy mà bi giờ
đành phải chiếu cố tới nhà thơ, cũng là sự vạn bất đắc dĩ!
From good to
evil is one quaver
Từ tốt tới xấu
là một cái run rẩy
Russian
Proverb
D.M. Thomas
trích dẫn, trong Solzhenitsyn, một
thế kỷ ở trong ta.
Bài thơ này,
ai làm mà chẳng được.
Đúng như thế,
và đây là một trong những chân lý của văn chương, theo đó, những bài
thơ hay
cho chúng ta cái cảm giác tuyệt vời, là, khi đọc, mình có cảm tưởng,
mình thừa
sức làm bài thơ như vầy. Nhưng từ "mình dư sức làm câu này", tới
"bệ luôn câu này về nhà mình", là cả một... sát na!
Chỉ hơi run
tay một tí thôi!
Tự Kiểm
Bỏi vì ông số
2 không cho biết những bài thơ “có lúc thét lên, nghe đọc thấy rùng
mình” của ông,
nội dung nó ra làm sao, phản chiến, thù hận Mỹ Nguỵ, phò VC… khiến kiểm duyệt của VNCH không cho xb, phải
in ronéo, và cái đám sinh viên bạn ông có HPNT trong đó không, thành ra
độc giả
cũng đành chỉ biết có vậy. Tuy nhiên những nhận xét về thơ tự do, về
nhóm Sáng
Tạo của ông, qua bài phỏng vấn, theo Gấu, nhảm, theo nghĩa, ba vạ, huề
vốn. Ðiều
này chứng tỏ ông không thể là 1 thi sĩ của cái thời của ông, như những
nhà thơ
của thời đó, như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, thí dụ, và cũng không
thể thuộc,
cũng lớp này, nhưng làm thơ trễ hơn, như Nguyễn Xuân Thiệp, vẫn thí dụ
[có thể ông
này đã từng làm thơ trước khi đi tù, nhưng nhờ đi tù mà thơ nổi hẳn
lên, đại khái
như thế]. “Hai hòn bi” thì thời nào cũng làm được, nhưng thứ thơ “khóc
thét lên,
rùng cả mình”, nếu sự thực ông có làm, thì tiếc quá, vì có ai được
thưởng thức đâu!
Ðể đỡ tiếc,
chúng ta đành đọc Milosz: Nào, bây giờ tôi có ý định nói về kinh nghiệm
thơ
trong một thời gian và nơi chốn cực kỳ chi tiết, xác định. Thời gian
1939-1945.
Nơi chốn: Ba Lan.
Thành thực mà
nói, Gấu này chưa từng gặp 1 thi sĩ bốc phét về thơ của mình như Ông Số
2 này,
thơ "nghe như thét lên, nghe rùng cả mình", cả 1 chế độ Ngụy sợ quá,
kiểm duyệt, không
cho xb, phải in lén bằng ronéo.
Trong khi đó thì rẻ rúng thơ của thi sĩ bạn thân
của mình, và chôm thơ của thi sĩ "bạn quí" của ông ta, Ông Số 1!
Có thể có người
nghĩ Gấu thù hằn ông ta! May quá, không có chuyện đó!
Cái sự chửi
như "ba dòng thác cách mạng của VC”, ở trên trang TV, là 1 cú đánh chót
của
Gấu, gọi hứng từ đám“mafia Do Thái”,
trao giải Nobel văn chương, dựa trên câu của Walter Benjamin, mọi tài
liệu về
văn minh là 1 tài liệu về dã man: Bởi vì chỉ có mỗi 1 cách, lôi cái
đống kít ở
dưới chân tượng đài văn minh dởm bốn ngàn năm văn hiến ra, quậy cho nát
bấy
lên, rồi bắt chước NH của NHT, nhét vô miệng đám tinh anh Mít, cả ở
trong lẫn
ngoài nước, may ra mới có sự thay đổi!
Tue,
July 12, 2011 11:12:44 AM
Kính bác Gấu:
Tin Văn hôm
nay quả có nhiều cái hay, bác làm việc ghê quá!
Bản dịch bài Hắc điểu của
bác,
đọc rất thấm, và "gây chấn động sâu sắc".
Như hầu hết
các bài thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà thơ này là
tới nhất
(mặc dù tôi không đủ năng lực tiếng Anh
để kiểm chứng), khác với thơ dịch Simic, khó nuốt, (xin lỗi bác, đây
chỉ
là cảm
nhận riêng mà thôi).
Giá mà có một
ấn bản thơ dịch Adam của bác, tương tự như cuốn Istanbul, thì thú biết mấy!
Bài về các
nhà văn Nga, cũng rất đáng để nghiền ngẫm.
Cám ơn bác Gấu
nhiều lắm!
Kính chúc
bác giữ bền sức khỏe, và viết.
Tks
Tôi cũng
nghĩ mấy bài dịch thơ Adam tới nhất. Có người đề nghị in rồi.
Mấy nhà văn
Nga, cũng quá cần dịch.
Ðể đối chiếu
với trong nước, và tìm ra câu trả lời, tại làm sao Nga lại có những nhà
văn, nhà
thơ như Solz, như Akhmatova… mà Bắc Kít không có lấy 1 mống.
Many Tks
NQT
V/v Simic, tôi
sẽ đi riêng 1 bài, sau. NQT
Một
bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang
cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể
là những
ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế
này: thật
khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra
khỏi một
bài thơ.
Tuyệt.
Sở
dĩ cõi thơ Mít mít đặc, chính là vì nhà thơ Mít mất mẹ mất cái tôi rồi.
Giả
đò có cái tôi, thành ra làm thơ nhạt thếch là vậy.
Bạn thử sống
thật, sống hết mình coi có làm thơ ào ào không?
Lợi
Nhuận Ðếch Cần Danh Dự
Mỹ Dung:
Thưa ông tôi chỉ một câu hỏi
trong lá thư ngắn này. Đó là điều tôi
thấy hình như các nhà văn, nhà thơ Việt Nam mình, khi lớn tuổi rồi thì
không
còn làm thơ được nữa? Hoặc giả họ vẫn còn làm thơ nhưng họ thấy không
ưng ý nên
không cho phổ biến? Nếu đúng vậy thì theo ông nguyên nhân sâu xa của nó
nằm ở
đâu? Trong khi tôi thấy các nhà văn nhà thơ tây phương, lớn tuổi họ vẫn
sáng
tác được mà có khi còn hay hơn cả thời gian còn trẻ nữa.
Nhà thơ Trần Dạ Từ trả lời:
Nhiều người khi lớn tuổi không
làm thơ nữa... Đây là điều thường
thấy ở bất cứ đâu. Ví dụ, thi sĩ Pháp Athur Rimbaud chỉ làm thơ trước
tuổi 20
rồi ngưng. Riêng tại Việt Nam, thời nào nơi nào cũng có những thi sĩ
vẫn tiếp
tục làm thơ dù lớn tuổi, làm thơ ngay cả trước khi chết, và đây thường
là những
bài thơ bậc nhất, đặc biệt nhất của chính họ. Xin mời coi lại và sẽ
thấy yên
tâm:
- Ca trù/ hát nói của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê: “Ngã lãng du thời
quân
thượng thiếu” và “Hồng Hồng Tuyết Tuyết.”
- Thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê, “Tuổi già hạt lệ như sương.”
- Tại miền Nam VN, Vũ Hoàng Chương có “Thơ xuân Năm Thìn.” Đây là bài
thơ có
chữ nghĩa xúc tích, tối tân và hào hùng nhất của thi sĩ, trước khi ông
bị cộng
sản bắt đi tù và bị giết vào tuổi sáu mươi.
- Tại miền Bắc VN, hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi trước
khi từ
trần đã làm thơ để lại như những di cảo lên án chủ nghĩa bánh vẽ và chế
độ
chuyên chế của cộng sản. Đây là những bài thơ xúc động mới lạ nhất của
họ.
- Tại hải ngoại, rất dễ thấy ‘thơ hay hơn bao giờ’ của các nhà thơ tuổi
sáu bó,
bẩy bó: Nguyên Sa, Mai Thảo, Du Tử Lê, Phạm Công Thiện, Đỗ Quí Toàn...
Đặc biệt
trong phạm vi người Mỹ gốc Việt, ta thường thấy số người lớn tuổi làm
thơ đông
hơn là lớp người trẻ tuổi.
DTL.com
Tình
cờ, GNV vớ được số báo TLS cũ, 2000, đặc biệt về văn chương Pháp, trong
có bài điểm
cuốn tiểu sử của Rimbaud, thời gian ông ngưng làm thơ: “Rimbaud và mắn
nỳ”, “Lợi nhuận
đếch cần danh dự”!
Ui
chao, không lẽ những nhà thơ Mít, nhất là đám thi sĩ Miền Nam bỏ chạy
ra hải
ngoại, không làm thơ nữa, là vì cũng… rứa?
Nếu
đúng như thế, thì chẳng thấy an tâm tí mẹ nào cả! NQT
Note: Gấu
gõ Google, ra bài sau đây, ông số 2 được nhà thơ LH
phỏng vấn. Post lại
trên TV để "tiện đường dư luận".
Có sửa một số
lỗi chính tả.
Ðọc, thấy khôn tổ cha!
Tự thổi bảnh hơn
Gấu nhiều: Bạn đâu thấy Gấu tự thổi, ở bên ngoài trang TV?
NQT
GNV chưa 1 lần
nói chuyện với Ông Số 2. Ðọc bài phỏng vấn này, thấy ông khôn quá, cả
trong cái
chuyện chửi VC, cũng khôn! Lạ là khôn như thế, sao lại dại đến mức cầm
nhầm câu
thơ của người khác? Gấu không hiểu nổi, nhưng mãi sau này thì vỡ ra:
Câu thơ, câu
văn thật tầm thường, [“Những người đã chết đều có thực”], nhưng kẻ nào
khôn quá,
là không làm sao viết ra được.
Mấy năm trước
đây, Gấu có gặp một tay, học chung lớp với ông số 2, rất rành về ông.
Ông này cho
biết, ngay hồi còn đi học ở Hà Nội, ông số 2 đã nổi tiếng là thông
minh, học giỏi
rồi. Nhưng theo tôi [ông học chung với ông số 2], ông ta học giỏi để
thi đậu, để
ra đời có 1 địa vị, nhưng bảo để làm nhà văn nhà thơ, thì không thể.
Ðúng quá!
Cái câu của
Alain khuyên học trò hàm ý đó, “đừng thành công”, ne pas réussir. Một
câu tầm
thường như vậy, nhưng nó phân biệt hai hạng người, một ra đời để thành
công, một
chọn sự thất bại. Nhà văn nhà thơ, một cách nào đó, chọn “không thành
công”.
Ðây cũng là
lý do tại làm sao nhà văn nhà thơ Mít, viết xong thời thanh xuân, là
ngỏm. Họ đều
chọn thứ khác, sau đó!
Hà, hà!
Có thể có
nguời nghĩ rằng thằng cha Gấu khùng rồi, không lẽ nhà văn, nhà thơ là
toàn một lũ “ratés”, thất bại, đến phải tự tử, thí dụ như Nguyễn Tất
Nhiên?
Không
phải như vậy. Ðây là 1 đề tài liên quan đến số phận của thơ và của thi
sĩ. Họ là
những người không đặt nặng sự thành đạt trong cuộc đời theo nghĩa tiền
bạc, địa
vị. Sống, tất nhiên, nhưng sống hơn lên một chút, quá đi một chút, theo
nghĩa
tinh thần, có thể nói như vậy.
Cái môn hướng
đạo mà ông số 2 lúc nào cũng khoe khoang ta là 1 thành viên, có thể là
1 ví dụ
có thể dùng được ở đây, như một minh họa. Theo GNV, hướng đạo dậy con
người nhập
cuộc, lăn xả vào cuộc sống, giúp đỡ đồng loại.... nhưng không hề dạy
con người
xả thân vì đồng loại. Nó rất giống rất tinh thần Taberd theo Gấu, giúp
đỡ mọi
người, nhưng đừng hại đến ta. Ông số 2 là 1 thí dụ điển hình của
hướng đạo,
theo cái nghĩa tệ nhất của nó, cuộc đời có đó, là để phục vụ ông ta!
Trước giờ Gấu
chưa từng đụng với ông số 2, và cũng đã từng nghĩ, chắc là suốt đời
không đụng đến
ông ta. Nếu không có vụ ông cầm nhầm thơ của người khác. Nhưng cái cảm
giác chán
chường ông số 2, thì xẩy ra trước đó, vào thời gian mới ra ngoài này,
tình cờ đọc
1 số báo Thế Kỷ 21, đọc 1 bài viết của ông, trong đó, ông la lớn, Sài
Gòn có người
chết đói rồi đó, ngay kế bên Chợ Bến Thành. Giọng viết giả đò thương
sót, rất ư
là tởm, phải nói như vậy. Sau này đọc 1 bài viết của Brodsky, trong có
nói về
thứ văn chương ai điếu, Gấu mới thấm.
Nhà thơ viết:
(1) As a
theme, death is a good litmus test for a poet's ethics. The "in
memoriam" genre is frequently used to exercise self-pity or for
metaphysical trips that denote the subconscious superiority of survivor
over
victim, of majority (of the alive) over minority (of the dead).
Brodsky giới
thiệu thơ Akhmatova
Như một đề tài, cái chết
là một thứ thuốc thử màu tốt, để thử
nghiệm đạo hạnh của một nhà thơ. Cái dạng văn chương ‘ai điếu’ thường
được sử dụng
như 1 thứ thực tập tự thương thân, hay là cho những chuyến đi siêu hình
làm bật
ra sự ưu việt tiềm ẩn của kẻ sống sót trên nạn nhân, của đa số (nhũng
kẻ còn đang
sống) trên thiểu số (những người đã chết).
Ðọc câu của Brodsky Gấu
mới thấm thía cái tình cảnh dơ dáng,
thảm hại của... Gấu, khi đọc thư của một nữ văn sĩ bạn văn trước
1975, trả lời
lá thư cầu cứu của Gấu, khi vừa mới tới trại tị nạn, anh đi muộn quá,
hết
mùa vượt
biển rồi.
Có thể nói, bài viết nào
của ông số 2 đều bật ra cái hào sảng
của 1 kẻ may mắn sống sót như thế.
Ông viết về thơ của ông
mới bảnh:
Tập thơ viết về Nàng,
nhưng không phải chỉ thơ tình. Có những thao thức tâm linh. Có những
rung động
siêu hình. Khi yêu mình hầu như thấy cả vũ trụ và mình trong vũ trụ.
Tập thơ Đêm Việt Nam do nhóm sinh
viên văn khoa
in năm 1966. Những bài thơ này viết từ 1963. Khi tôi xúc động trước
thời cuộc
như biến cố: hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, đám tang Nhất Linh.
Nhưng phần
lớn các bài thơ đó viết sau khi tôi đã đi nhiều về miền quê từ vụ cứu
lụt ở miền
Trung năm 1964 và tiếp xúc với những đau khổ trên quê hương. Anh ruột
tôi tử trận
năm 1963. Những người bạn khác cũng lần lượt vào nghĩa trang Quân đội.
Khoảng
hè 1966, mấy bạn sinh viên tổ chức các buổi đọc thơ ở khu đất Khám Lớn,
tức đại
học Văn khoa, ở đường Gia Long, hình như
đó là đêm đọc thơ đầu tiên trước công chúng. Tôi nhớ có Trần Dạ Từ, Tú
Kếu và
tôi cùng đọc thơ. Hình như có cả Trần Tuấn Kiệt. Những bài thơ nói về
nỗi đau khổ
không thể ngâm nga được, cho nên chúng tôi đọc, có lúc thét lên.
Có một
nhà văn
đàn anh, sau đó đã viết rằng: “Nghe
đọc thơ, anh thấy rùng mình”. Các
bạn sinh
viên đề nghị in. Tất nhiên sở Kiểm duyệt không cho in, nên họ chỉ quay
ronéo,
Nguyễn Trung vẽ bìa và phụ bản rất đẹp.
Cả hai tập
thơ trên, tôi đều không có ý định in. Cả hai đều do anh em họ làm giúp.
Sau này
là tôi cũng tiếc là mình hờ hững với thơ quá. Bây giờ muốn in
lại làm
tài liệu
cũng khó tìm hết các bài thơ mình có thể vẫn còn thích. Tôi vốn coi
chuyện làm thơ
là chuyện rất riêng tư. Mình
không nhịn được thì phải làm thơ, chứ
không phải để
làm cái gì, để cho ai cả. Đăng báo thì dễ dàng. Người ta đọc báo xong
thì quên
ngay. Góp một bài thơ cũng như tới họp mặt với bạn bè, cho vui vậy
thôi. Bây giờ
ở nước ngoài thì khác. Lắm lúc muốn đọc lại thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn,
lại
trách thầm tại sao cái ông “Đinh Thành Tinh” đó không in một tập thơ để
mình dễ
tìm. Anh chị em tản mác khắp nơi, tìm một tờ báo lắm lúc cũng khó. Như
vậy tôi
mong các bạn thi sĩ nên in thơ thành tập thì hơn.
Ðúng là giọng của 1 kẻ tự
mãn. NQT
Giả như bây
giờ mà chúng ta được đọc những vần thơ "có lúc thét lên, thấy rùng mình
đó", nhỉ!
Không phải
chỉ một ông số 2. Có thể nói, tất cả cái thứ văn học hải ngoại ngay sau
30 Tháng
Tư 1975, của đám nhà văn nhà thơ Miền
Nam chạy lẹ, viết về những người còn kẹt lại, và về VC, đều có cùng 1
cái “air”
như thế, nhất là cái giọng viết “kẻ cả làm ra vẻ xuề xòa, đàn anh”, của
ông tiên
chỉ VP. Ðúng thứ văn chương ai điếu dành cho VC và luôn cả những đấng
bạn văn của
họ không may mắn, còn kẹt lại.
Trước 1975,
GNV cũng chẳng hề có sự hiềm khích gì với VP. Ông viết, Gấu viết, chẳng
ai đụng
ai. Với Gấu, ông ta là 1 bậc tài tình với một số truyện ngắn, về con
người, và về 1 mảnh đất Gấu
gần như chẳng hề được sống ở đó. Còn những tài lạ khác của ông, tuỳ
bút, phê bình
gia, điểm sách gia, giới thiệu văn học nước ngoài… thực sự mà nói, đều
dởm cả. Dưới
cái tên Tràng Thiên, ông viết tin văn học, thực sự chỉ là những bài tóm
tắt một,
hay hai bài viết trên báo Tây, mà không phải thứ đặc biệt về văn học.
Những gì ông
giới thiệu nhóm "tiểu thuyết mới" cho thấy, ông chưa từng đọc thẳng vô
tác phẩm của
họ. Ông Mít Butor cũng đã từng chê Nguyễn Văn Trung như thế, nhưng lại
không nhìn
ra, hay vờ đi, Võ Phiến cũng thế.
Cái cảm giác
chán chường VP, là cũng xẩy ra vào ngay những ngày đầu tới xứ lạnh, đọc
tờ LV,
thấy 1 độc giả viết cho tòa soạn, nêu thắc mắc về 1 lời phán của VP,
thơ, dịch
không được, không thể dịch thơ, đại khái như thế. Vị độc giả cho rằng,
vẫn có
thể dịch thơ, làm sao nói là không thể dịch thơ.
Trong 1 số báo
sau đó, VP đi một bài viết về thơ, hình như là về bài Tống
Biệt Hành, nhưng thay vì trả lời độc giả trên, thì ông nói chuyện
thơ với bạn của ông, là NHN, về bài thơ TBH, và giảng giải cho cái kẻ
vắng mặt,
là vị độc giả, theo cái kiểu kẻ cả, mi ngu quá, lắng nghe chúng ta trò
chuyện về
thơ cho vỡ cái ngu ra!
Thái độ "mục
hạ vô nhân" này, thấy, ở đa số những nhà văn nhà thơ Mít, ngay cả ở
TDT,
qua mấy
câu trả lời trên DTL.com. [Thí dụ: "Cô sẽ thấy yên tâm": Coi độc giả
hỏi mình như đứa con nít].
Những kẻ thù
của Gấu thường chửi Gấu phách lối, cà chớn, tự thổi mình… Nhưng Gấu dám
thách tất
cả tụi chúng tìm ra chỉ một dòng của Gấu, có cái giọng “mất dậy” trên,
ở bên
ngoài trang TV.
Ngay ở TV, một
số độc giả thân quí cũng nhận ra, chỉ là bông phèng, đùa cho dzui, thực
sự Gấu
chẳng coi Gấu có ký lô nào. Một kẻ đi qua… mấy địa ngục, chỉ muốn chết
[trong địa
ngục đen], khi thoát ra, làm sao mà có giọng “ai điếu” cho được, khi
viết về người
khác?
Ông số 2 viết
về bài thơ “hai hòn bi” của ông:
CHC: Thay mặt độc giả Sóng,
thành thật cảm ơn anh Đỗ Quý Toàn và xin anh cho độc giả đọc lại một
bài thơ
của anh. Bài gì có câu: “hai đứa ngồi đó như hai hòn bi” ấy. Tưởng cũng
nên hỏi
anh xuất xứ bài này.
ĐQT: Bài
này được nhiều người biết vì anh Phạm Duy phổ nhạc hay quá xá. Vì anh
mà nhiều
người gọi tôi là “thi sĩ hai hòn bi”. Viết vào khoảng năm 1959 in
lần đầu
trên báo Ngàn Khơi khoảng 1960-1961. Ngày đám hỏi tụi tôi, năm
1964, tôi
đọc cho bạn bè nghe. Anh Phạm Duy có ở đó, bảo đưa anh đem về. Một tuần
sau anh
gặp tôi ở đường Lê Lợi dừng lại hát cho tôi nghe liền. Nghe chị Thái
Thanh hát
ở Đêm Màu Hồng đã lắm.
Gấu đã kể về, cả thành phố Sài
Gòn có 1 dạo khổ vì “hai hòn bi” của
nhà thơ, sáng nào cũng ra rả trên Ðài Phát Thanh, Sài Gòn. Bây giờ lại
lôi ra để
mà làm khổ độc giả TV nữa, thì kỳ quá. Nhưng, cũng chỉ là tình cờ, Gấu
đọc bài
viết của Charles Simic, điểm 1 tập thơ của Elizabeth Bishop, trên số
báo NYRB,
27 Tháng 4, 2006, ông có trích dẫn một bài thơ của Bishop, xem ra có
thể so sánh
với bài “hai hòn bi”, ở cái vẻ tự nhiên của nó, nhưng với 1 độc giả
tinh ý, thì
một bên là giả đò, một bên là thực sự.
Blackbird
A
blackbird sat on the TV antenna,
and sang
a
gentle, jazzy tune.
Whom have
you lost, I asked, what do you mourn?
I'm taking
leave of those who've gone, the blackbird said,
I'm parting with the day (its
eyes and lashes),
I mourn a
girl who lived in Thrace,
you wouldn't
know her.
I'm sorry
for the willow, killed by frost.
I weep, since all things pass and alter and
return, but always in a different form.
My narrow throat can barely hold
the
grief, despair, delight, and pride
occasioned by such sweeping transformations.
A funeral cortege passes up ahead,
the same each evening, there, on the
horizon's thread.
Everyone's there, I see them all and bid farewell.
I see the
swords, hats, kerchiefs, and bare feet,
guns, blood,
and ink. They walk slowly
and vanish in the river mist, on the right bank.
I
say goodbye to them and ou and the light, and then I greet the night,
since I
serve her-
and black silks, black powers.
Adam
Zagajewski
Hắc điểu
Hắc điểu
đậu
trên cây ăng ten,
đi một đường
jaz nhẹ.
Mi mất người
thân nào, tôi hỏi nó, mi than khóc điều chi?
Ta nói lời vĩnh
biệt với những người đã đi xa, hắc điểu trả lời.
Ta từ giã ngày
(mắt, mi của nó),
ta khóc than
một cô gái ở Thrace,
mi không biết
cô ta đâu.
Ta buồn cho
rặng liễu, bị sương mù làm thịt.
Ta khóc mọi
chuyện qua đi và hóa kiếp
và trở lại,
nhưng luôn luôn dưới một dạng khác.
Cái cổ họng
nhỏ của ta không làm sao giữ nổi
nỗi đau thương, sự chán chường, niềm vui thích,
và sự kiêu hãnh
gây ra bởi những sự đổi thay làm rơi lệ như thế.
Một đám tang
đang tiến về phía trước,
Cũng một, vào
mỗi chiều, ở đó, trên đường chân trời.
Mọi người thì
ở đó, ta nhìn thấy tất cả, và đi một đường vĩnh biệt.
Ta nhìn thấy
những cây gươm, những cái nón,
những chiếc khăn vuông trùm đầu, và chân trần,
súng, máu, và
mực. Họ bước chầm chậm,
và biến mất trong sương mù, ở bên hữu ngạn.
Ta nói bye
bye với họ, và mi, và ánh sáng.
Và rồi ta chào
đêm, kể từ khi mà ta là tên tà lọt của Nàng -
và lụa đen, quyền
lực đen.
Trận bão chót
Một số người
bỏ đi
Một số khác
uống, trong im lặng
Chỉ có những
trận bão Tháng Tám gầm rú
[Mùa này gió
biển thổi điên lên lục địa]
Như một tên
điên la hét trên chiếc xe cứu thương.
Cành cây đập
vào má chúng ta.
Những chếc lá alder mùi ngủ và dầu rơm
Bạn hãy lắng
nghe, lắng nghe, lắng nghe.
Mùa xuân
mệt mỏi thở ở dưới nước.
Bốn giờ sáng.
Tia chớp cuối
cùng, cô độc,
vẽ loằng ngoằng.
thật lẹ, một cái gì đó lên bầu trời.
“Không”.
Hay
“Không bao giờ”.
Hay “Hãy can
đảm, lửa chưa tắt”.
RECONSTRUCTION
The
volcanoes, once so active,
are mostly
quiet now, my friend says,
no way of
telling us what they know.
And the
dinosaurs, bone by bone,
may have
been reconstructed,
but their
stories, too, largely remain
untold,
their skulls most likely full,
he says-like
prehistoric black boxes –
of
high-pitched, indecipherable screams.
All the
theories are wrong
about what
went wrong, my friend insists,
famous for
being more interesting
than right.
He says the volcanoes
helped the
dinosaurs thrive
in the
lowlands. On a tablecloth in ink
he
re-creates the scene-a topography
of little volcanic disturbances
that kept Tyrannosaurus rex
and other
big nuisances in check.
And then
there was a turning point,
he says, a
matter of vegetation
and scarcity
and greed. An old story,
he calls it,
as if simply affirming a fact-
the
dinosaurs, when it came to food,
never knew
how much was too much,
and given
the size of their brains
kept doing a
lot of almost forgivable
stupid
things. But he's heard himself,
and
seemingly amused is quick
to point out
that forgiveness
wasn't even
a concept yet, or a word,
still eons
away from
a certain
slithering and the likes of us.
-Stephen
Dunn
The New
Yorker, July 11 & 18, 2011
Ðổi mới, Tái cấu trúc
Núi lửa, có
1 thời hoạt động mạnh
Bây giờ hầu
như nguội lạnh, bạn tôi nói.
Thành thử chúng
không làm sao nói cho chúng ta biết, chúng biết gì.
Và
những con
khủng long, từng cái xương, từng cái xương,
có thể được
tái cấu trúc,
nhưng những
câu chuyện của chúng, thì chưa được kể ra;
những cái sọ của chúng hầu hết thì đầy
ắp, bạn tôi nói –
như những hộp đen thời tiền sử -
với những tiếng la thét cực
cao, không làm sao giải mã được.
Mọi lý thuyết
thì đều sai lầm, bạn tôi nhấn mạnh,
chúng nổi tiếng
do rất ư thích thú, hơn là do đúng. Anh nói,
những núi lửa
giúp cho những con khủng
long phát triển ở những vùng đất thấp.
Trên một miếng vải mực, anh tái tạo
khung cảnh địa lý những nhiễu loạn của một núi lửa nhỏ,
qua đó quan sát Tyrannosaurus rex, và những phiền hà
lớn
khác.
Và rồi, xuất
hiện đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử
Anh bạn tôi
nói, đây là vấn đề vegetation, nôm na có nghĩa là, với sức người sỏi đá
cũng thành
cơm.
Và còn vấn đề
khan hiếm, háu ăn, do đói lâu quá nữa.
Ui dào, xưa
rồi Diễm ơi!
Bạn tôi nói vậy, để đơn giản vấn đề –
khủng long,
khi ăn, chúng không làm sao biết, thế nào là đủ;
và nếu căn cứ
vào cái sọ khổng lồ
làm sao mà
chúng không gây ra toàn những chuyện ngu đần mà vẫn có thể tha thứ
được.
Nhưng
anh như nghe thấy mình đang nói, và thích thú phán, rằng, sự tha thứ
thì
chưa được
coi như là 1 quan điểm,
hay, một từ, từ đời nảo đời nào,
so với đời của chúng
ta.
Mỹ Dung:
Thưa ông tôi chỉ một câu hỏi
trong lá thư ngắn này. Đó là điều tôi
thấy hình như các nhà văn, nhà thơ Việt Nam mình, khi lớn tuổi rồi thì
không
còn làm thơ được nữa? Hoặc giả họ vẫn còn làm thơ nhưng họ thấy không
ưng ý nên
không cho phổ biến? Nếu đúng vậy thì theo ông nguyên nhân sâu xa của nó
nằm ở
đâu? Trong khi tôi thấy các nhà văn nhà thơ tây phương, lớn tuổi họ vẫn
sáng
tác được mà có khi còn hay hơn cả thời gian còn trẻ nữa.
Nhà thơ Trần Dạ Từ trả lời:
Nhiều người khi lớn tuổi không
làm thơ nữa... Đây là điều thường
thấy ở bất cứ đâu. Ví dụ, thi sĩ Pháp Athur Rimbaud chỉ làm thơ trước
tuổi 20
rồi ngưng. Riêng tại Việt Nam, thời nào nơi nào cũng có những thi sĩ
vẫn tiếp
tục làm thơ dù lớn tuổi, làm thơ ngay cả trước khi chết, và đây thường
là những
bài thơ bậc nhất, đặc biệt nhất của chính họ. Xin mời coi lại và sẽ
thấy yên
tâm:
- Ca trù/ hát nói của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê: “Ngã lãng du thời
quân
thượng thiếu” và “Hồng Hồng Tuyết Tuyết.”
- Thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê, “Tuổi già hạt lệ như sương.”
- Tại miền Nam VN, Vũ Hoàng Chương có “Thơ xuân Năm Thìn.” Đây là bài
thơ có
chữ nghĩa xúc tích, tối tân và hào hùng nhất của thi sĩ, trước khi ông
bị cộng
sản bắt đi tù và bị giết vào tuổi sáu mươi.
- Tại miền Bắc VN, hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi trước
khi từ
trần đã làm thơ để lại như những di cảo lên án chủ nghĩa bánh vẽ và chế
độ
chuyên chế của cộng sản. Đây là những bài thơ xúc động mới lạ nhất của
họ.
- Tại hải ngoại, rất dễ thấy ‘thơ hay hơn bao giờ’ của các nhà thơ tuổi
sáu bó,
bẩy bó: Nguyên Sa, Mai Thảo, Du Tử Lê, Phạm Công Thiện, Đỗ Quí Toàn...
Đặc biệt
trong phạm vi người Mỹ gốc Việt, ta thường thấy số người lớn tuổi làm
thơ đông
hơn là lớp người trẻ tuổi.
DTL.com
Theo GNV, vị độc giả trên
hỏi thẳng nhà thơ TDT, chứ không ai khác, nhưng vì
lịch sự
nên nói lòng vòng như thế.
Bởi là vì nhà thơ của
chúng ta, sau "thuở
làm thơ yêu
em", là tịt ngòi luôn!
Thơ TDT, Gấu
hầu như chỉ nhớ, độc nhất hai cái nhớ.
Một, là hai câu, trên tờ Nghệ
Thuật, thời
gian Viên Linh phụ trách. Nhớ, có lẽ là do giai thoại gắn với nó.
Hai câu thơ
như sau, như Gấu còn nhớ được:
Ðứng trước gió,
Lúc lắc cho tình nhỏ thức
giấc.
Một độc giả
viết thư chửi tòa soạn, thơ… mất dậy. Ðây là cái cảnh nhà thơ tự sướng.
NT quá
coi thường độc giả nên mới đăng thứ thơ này.
Nên nhớ, hồi
đó, "nghiêm" lắm. Những tình cảnh NTH khốn khổ khốn nạn với Vòng Tay Học Trò, TH, Vết
Thương Dậy
Thì, TV, Mèo Ðêm, Lao Vào Lửa,
là cũng mãi sau đó.
Còn cái nhớ
kia, là bài thơ được Phạm Ðình Chương phổ nhạc, Người
đi qua đời tôi.
Cái cách trả
lời của TDT cho vị độc giả: Có thể ông biết tỏng, vị này hỏi thẳng ông,
nhưng
TDT sử dụng đòn giả đò, làm như không biết, hay đòn “gậy ông đập lưng
ông”, bạn
không nói thẳng ra thì tôi ngu gì mà trả lời thẳng, và ông đưa ra rất
nhiều trường
hợp, để chứng minh nhà thơ Mít lúc nào cũng làm thơ, nhưng thực sự mà
nói, chẳng
trường hợp nào ăn nhập đến câu trả lời, và ông cũng chẳng thèm trích
dẫn một
câu thơ, của những “đồng thi sĩ” hiện còn sống, cùng thời với ông, để
chứng
minh.
Về những bậc
tiền bối như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ… Gấu không có ý kiến. Ông
thì làm
thơ hát ả đào, ông thì làm thơ khóc bạn, những bài thơ được TDT trích
dẫn, như
thế, thì đều không liên can gì đến thơ, đến cái gọi là “yếu tính” của
thơ, hay,
“Why poetry matters”, như Tây phương thường gọi. Rimbeau làm thơ khi
trẻ, rồi
thôi, bỏ đi làm lái súng, thì kể như ông có hai cuộc đời, một đời làm
thi sĩ,
khi còn trẻ, và một đời làm lái buôn súng, khi lớn tuổi, hết còn tin
vào thơ nữa,
có thể nói như vậy.
“Nhiều người khi lớn tuổi không làm thơ
nữa... Đây là điều
thường thấy ở bất cứ đâu”, quả có thế, nhưng không đúng với những nhà
thơ thứ
thiệt. Một nhà thơ thứ thiệt là làm thơ cho tới chết thì thôi không làm
thơ.
Cái chuyện in thơ thì lại khác.
Tuy
nhiên khi TDT trích dẫn những nhà thơ VC, mà bảo rằng về già họ vẫn làm
thơ,
thì thật nhảm.
Chế
Lan Viên, Nguyễn Ðình Thi về già, không hề làm thơ. TDT không đưa ra 1
bài thơ
nào, thành ra khó nói, nhưng những bài thơ mà như Gấu này biết được
của, Chế
Lan Viên, khi về già làm, thí dụ bài ăn bánh vẽ, thì đó không phải là
thơ, mà
là sám hối, và như thế, cũng không liên quan gì đến thơ!
Ðừng
lầm thơ với cái không phải là thơ.
Tại
hải ngoại. Mai Thảo, cả đời "chạy trốn thơ", như
TTT phán, cuối đời mới làm thơ, và là thứ thơ tự thán, và cũng là 1
trường
hợp đặc
biệt. Những ông khác, DTL thì “đúng là thi sĩ,” gần như chỉ có ông này
là vẫn
có những bài thơ hay, sau 1975.
Còn mấy
ông kia đóng vai thi sĩ, chứ ít làm thơ, lâu lâu, tất nhiên cũng són ra
được 1
tí thơ, nhưng đều nhảm cả.
Có thi sĩ Mít
cả một đời làm thơ, thực.
Như DTL.
Nhưng thuần
là 1 thứ, thơ tán gái. Cũng 1 ông hoàng của tình yêu, như nhà thơ đàn
anh của ông,
là Hoàng Cầm.
Cả đời mê gái,
OK.
Như GNV! (1)
Nhưng cả 1 đời
chỉ dùng vào việc làm thơ tán gái, thì uổng đời quá!
(1) Bà xã
NDT, lần đầu gặp Gấu, khi NDT đưa về nhà giới thiệu, nhà anh khi đó ở
ngay dưới
chân Ðài LL/VTD thoại/Quốc Tế, nơi Gấu làm việc, sau khi đọc Thời
Gian, truyện ngắn đầu tiên viết cho Văn, còn trong dạng bản thảo, phán,
anh
đúng là nhà văn mê gái!
Cái câu vinh
danh thơ thần sầu, là của Brodsky, và để vinh danh Akhmatova, và thời
của bà:
Ở một vài
giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng,
bởi vì
chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành
một cái
gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu
thua
không làm sao cất giữ được.
Điều Brodsky
nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù
Phạm
Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn
của văn
chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài kia
súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt!
Khi Gấu viết
được những dòng về những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn
của VC, trong Những ngày ở Sài Gòn,
đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết
của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de
force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.
Écho
Coetzee viết về Brodsky: Thi sĩ
đòi cho thơ cái quyền giáo dục và
cứu rỗi con người. Và nếu như thế, vị trí của ông, về vấn đề này, gần
gụi với
Cổ Athens, khi họ dậy nam sinh viên [không có nữ], thế chân vạc của âm
nhạc
[nhạc làm cho tâm hồn nhịp nhàng, hài hòa: to make the soul rythmical
and
harmonious], thơ, và thể dục.
Plato đạp đổ thế chân vạc, ba còn hai: nhạc nuốt thơ, và trở thành môn
học
chính về tâm thần và tinh thần [the principal mental/spiritual
discipline].
Những quyền năng mà Brodsky phán, thuộc về thơ, có vẻ như thuộc về âm
nhạc
nhiều hơn, theo Coetzee. Thời gian là chốn đồng vọng, the medium, của
nhạc hơn
là của thơ: Chúng ta đọc thơ trên trang giấy in, nhanh cỡ nào tùy theo
chúng ta
thích hay không thích, trong khi chúng ta nghe nhạc, ở trong thời gian
của
riêng nó.
Thời gian của riêng nó, với nhạc vàng nhạc sến của Miền Nam, đúng là cái thời để yêu, để hát, và
để chết!
Gấu này đã kể, về cái lần đầu nghe Tình Nhớ, của TCS, khi nó vừa mới ra
lò,
trong đêm khuya, khi đối diện với cái giường sắt lạnh lẽo nơi Trung Tâm
Ba
Tuyển Mộ Nhập Ngũ, và tưởng tượng ra rằng, có thể đứa em trai đã từng
nằm,
chính cái giường này, trước khi bỏ đi xa.
*
Bài viết thời để yêu, để
hát, và để chết!, không hiểu có phải vì biến cố 30
Tháng Tư mà
đứng đầu liền tù tì hai tháng, trong số những bài được đọc nhiều
nhất.
Thừa thắng xông lên, Gấu bèn viết, về một thời để yêu, để hát, và - vì
không
chết - để đi tù... VC!
NKTV
*
Bài viết của TMT thật tuyệt, làm Gấu nhớ đến Hemingway. Ông khi đó, bị
báo chí
Mẽo coi là hết thời rồi, bèn lùi lũi chuồn về một xó ở Cu Ba, đối diện
biển, và
khi trở về, là cuốn Ngư ông và Biển cả. TMT bị độc giả VOA chê
ỏng chê
eo bài viết về Quán Chùa, về những đền thiêng VNCH bị tụi VC ngu dốt
phá huỷ
hết trơn hết trọi để xây Siêu Thị, bèn diện bích, nhập thất, và khi
xuất hiện
trình làng ‘tiếng dội về những tiếng dội’:
Cánh hồng rơi xuống vực
Tiếng dội vào nơi đâu
Người về nơi thăm thẳm
Tiếng dội trong hồn nhau.
TMT
Hai câu thơ đầu, chắc là từ ý
sau đây:
Writing a book of poetry is like dropping a rose petal
down the Grand
Canyon and waiting for an echo.
Viết một cuốn thơ thì cũng giống như thả một cánh hồng xuống Grand
Canyon, rồi
đợi tiếng dội của nó.
DON MARQUIS
Cụm từ ‘tiếng dội về những
tiếng dội”, Gấu thuổng của Akhmatova.
Bà trước tác một chùm thơ, đặt tên chung là “Bài hát về những bài hát”,
"Song about Songs" phải nói là thần sầu, trên TV đã post một số bài.
Nay nhân viết về Hoàng Cầm, tưởng cũng là một cách tưởng niệm ông, khi
ông
hoàng của thơ và của tình yêu, để cứu thơ và tình yêu, đành phải đầu
hàng Cái
Ác Bắc Kít, TV sẽ post toàn bộ, và cố gắng dịch.
Ý tưởng viết về nhạc sến của
Gấu, là do đọc Akhmatova mà có, có
thể nói như vậy.
Đúng ra là từ ý của Brodsky, trong bài giới thiệu tập thơ của Bà, mà
khúc trên
trích dẫn từ đó.
At certain
periods of history it is only poetry that is capable of dealing with
reality by
condensing it into something graspable, something that otherwise
couldn't be
retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen
name of
Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly
enable her
to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know.
She
was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed.
She
showed these solutions first through the prism of the individual heart
then
through the prism of history, such as it was. This is about as much as
one gets
in the way of optics any way.
Ở một vài
giai đoạn lịch sử chỉ có thơ là có thể trị được thực
tại bằng cách nén nó lại thành 1 cái gì có thể
nắm bắt được, một điều
gì mà cái đầu chịu thua không thể gìn giữ. Theo nghĩa đó, cả quốc gia
nâng niu
bút hiệu Akhmatova - điều này giải thích tính phổ thông, đại chúng của bà, và, quan trọng hơn, khiến bà có thể
nói,
nhân danh đất nước, vì đất nước, cũng như nói với đất nước, điều mà nó
không biết.
Cơ bản mà nói, bà là một nhà thơ nhân văn: được yêu thương, bị căng
thẳng,
bị chia lìa, [đấng con trai độc nhất không thèm nhìn mẹ]. Bà đưa ra
những giải
pháp này, đầu tiên là qua thấu kính của trái tim cá nhân và rồi sau đó,
qua thấu
kính của lịch sử. Ðó là tất cả những gì mà một con người có thể có
được, theo đường
hướng quang học.
Trong bài viết về Mai Thảo,
nhân biết được cái nick Nhị, nhớ tới 1
trong những tùy bút hách nhất của ông, Tiếng Còi Trên Sông Hồng, và
nhân đang đọc
Fowles, nhà văn Hồng Mao, Gấu bèn chôm 1 đoạn trong một bài viết của
ông.
Go on, run away, but you'd be
far safer if you stayed at home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior
esse
domi.)
Trong Tựa đề cho những
bài thơ, Foreword to the Poems,
John Fowles cho rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do
bản chất
của nó, vốn bà con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật;
nhà văn
chơi trò hú tim với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con
người
chẳng hề hiện hữu, những sự kiện chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia
muốn,
hoặc (một chuyện) có vẻ thực, hoặc (sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con
đường
ngược lại, hình thức bề ngoài của nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư
không
thực, nhưng nội dung lại cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là
đối với
nghệ thuật giả tưởng (tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai,
bạn đang
cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể
là những
ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế
này: thật
khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra
khỏi một
bài thơ. Go on, run away... Cho dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở
nhà vẫn
an toàn hơn.
Khi trở về với thơ, vào cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh,
trong thơ ông, là cái ấm, của quê hương. Của Nhị.
Theo nghĩa trên thì làm thơ
chính là ở nhà, không đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt.
Một
bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang
cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể
là những
ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế
này: thật
khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra
khỏi một
bài thơ.
Tuyệt.
Sở
dĩ cõi thơ Mít mít đặc, chính là vì nhà thơ Mít mất mẹ mất cái tôi rồi.
Giả
đò có cái tôi, thành ra làm thơ nhạt thếch là vậy.
Bạn thử sống
thật, sống hết mình coi có làm thơ ào ào không?
|
|