Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
30.4.2011
Thơ mỗi ngày
Thủ Thiêm
Gấu có những
kỷ niệm khủng khiếp về cái đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít.
Có những
kỷ niệm, là của ông bố của Gấu. Thí dụ cái chuyện bà nội của Gấu, chồng
chết sớm,
nuôi đàn con, có nồi thịt, bắt con ăn dè ăn xẻn thế nào không biết, nồi
thịt biến
thành nồi ròi.
Vô Nam, phải
đến sau 30 Tháng Tư, Gấu mới được tái ngộ với cái đói, những ngày đi tù
VC.
Thê lương nhất, và cũng
tiếu lâm nhất, có lẽ là lần Gấu Cái đi thăm nuôi, lần đầu,
sau mấy tháng mất tiêu mọi liên lạc với gia đình.
Cái tật viết
tí tí, không bao giờ dám viết ra hết, kỷ niệm, hồi nhớ, tình cảm… nhất
là thứ kỷ
niệm tuyệt vời, nhức nhối.... là do cái đói gây nên!
Nhân
Gió-O 10
năm
Sư Tử Hà
Đông
A
bedtime story for grownups
Over the
weekend, “Go the — to Sleep,” which was due to hit stores in October,
began climbing the Amazon best-seller list on the strength of
pre-orders. After a reading on Saturday, Mr. Mansbach was surprised to
see it rank in the top 200 on Sunday. By Tuesday, it rose to No. 3, and
then briefly peaked at No. 2 on Wednesday. On Thursday, it was ranked
No. 5.
Notes About Brodsky
Milosz
ON PASTERNAK
SOBERLY
I did not find in Pasternak's
work any hint of his philosophical
opposition to the official Soviet doctrine, unless his reluctance to
deal with
abstractions-so that the terms "abstract" and "false" were
for him synonymous-is a proof of his resistance. The life of Soviet
citizens
was his life, and in his patriotic poems he was not paying mere lip
service. He
was no more rebellious than any average Russian. Doctor Zhivago
is a
Christian book, yet there is no trace in it of that polemic with the
anti-Christian concept of man which makes the strength of Dostoevsky.
Pasternak’s Christianity is atheological. It is very difficult to
analyze a Weltanschauung
which pretends not to be a Weltanschauung at all, but simply
"closeness to life," while in fact it blends contradictory ideas
borrowed from extensive readings. Perhaps we should not analyze.
Pasternak was
a man spellbound by reality, which was for him miraculous. He accepted
suffering because the very essence of life is suffering, death, and
rebirth.
And he treated art as a gift of the Holy Spirit.
Tôi không kiếm thấy trong tác
phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự
chống đối triết học của ông, với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái
sự ngần
ngại khi phải đối đầu với những trừu
tượng
– và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông, là đồng
nghĩa – và đây
là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công dân Xô Viết là
cuộc sống
của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi trò chơi chân
thực. Ông
chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga Xô.
Dr Zhivago là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên
chẳng thấy có tí dấu vết nào của thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos,
về 1
quan điểm con người chống-Ky-tô.
Ky Tô giáo của Pasternak
là vô thần học. Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại, đối với
ông, thực
tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì ở nơi
thâm sâu
của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh. Và ông coi
[treat]
nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Czeslaw Milosz
"Tôi
trở nên khiếp đảm bởi nghệ thuật", D. M. Dylan Thomas mở đầu "Hồi tưởng
& Hoang tưởng". Với ông, khả năng thấu thị, nhìn thấy cái chết,
trước
khi nó xẩy ra, ở một cậu bé, chính là "phép lạ" của nghệ thuật, (ở
chúng ta). Và ông trở nên khiếp đảm, bởi nó.
"Nghệ thuật là những ngã ba ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi mộng
mị,
tình yêu, và cái chết gặp gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một
điều, rằng
nghệ thuật luôn luôn là suy tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự sống.
Điều ngược
lại cũng hoàn toàn đúng.
Cách đây vài năm, tôi đi thăm Lydia,
người chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria,
ọp ẹp, tối thui. Chủ nhà, một người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng
còng, mang
đôi giầy cụt lủn, lủng lẳng bị chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời
dùng cà
phê. Một cái hũ cà phê, loại uống liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu
chuyện nhạt
thếch. Tôi không làm sao liên hệ bà với Boris, người sáng tạo ra
Zhivago, và
Lara. Sau cùng, bà hỏi tôi có muốn đi xem mấy bức họa của ông thân
sinh. Một
cách biết ơn, tôi nói vâng. Tôi đi theo đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá
lên lầu.
Bà mở cửa căn phòng. Một luồng mầu sắc và ánh sáng làm tôi chới với,
nghẹt thở.
Đúng là một phòng tranh tuyệt vời. Tôi nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi
Boris trẻ.
Sàn ngổn ngang những khung, giá vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi theo, suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên
tài
Leonid Pasternak. Có đến vài phút đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức
họa.
Chân dung một người đàn bà đẹp, dáng mơ mộng, đang chải tóc. Tôi yêu
liền ngay
nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi đó mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi mất mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà
quay đi.
Chẳng có gì đáng kể, ngoại trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi có
cảm giác
những bức họa đã hút sạch bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn
nhà của
cô con gái.
"Tôi nghĩ chắc là bà đã có bảo hiểm những bức họa?"
"Không, nếu bị đánh cắp, cái gì có thể thay thế?"
Trở lại bếp, bà cho tôi coi những bức hình gia đình, hầu hết là của
Boris và
con cháu của ông. Một trong những đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong
những
tình huống thật là kỳ bí, đáng sợ; bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ
mạnh, nó
lăn quay ra chết, vì đứng tim, ngay trên đường phố Moscow,
đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không thể không nghĩ đến một điều, cái chết của nhân vật
giả tưởng
Zhivago đã "ứng" vào người cháu trai. Thiên tài Pasternak đã biến đứa
cháu thành một cái bóng, y hệt như cô con gái Lydia
đã trở thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Và Thomas kết luận, đâu có gì là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp
đảm vì
nghệ thuật ? "Không phải cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng
đâu
đó, từ những trang sách vang lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".
Nguồn
Nikolaï
Boukharine en 1921. Conscient dès 1927 que Staline liquiderait la
“Vieille
Garde bolchevique”, “l'enfant chéri du parti " comme il avait été
surnommé, voulut servir Staline jusqu'au bout.
Bukharin năm
1921. Biết rất rõ, Stalin sẽ làm thịt đám Cựu Vệ Binh Bôn-xê-vích, "đứa
con cưng
của Đảng", như nick của ông, quyết định hầu hạ Xì tới cùng.
Le 13
novembre, dans Troud, N. Boukharine
déclare: «Chez nous aussi, d'autres partis peuvent exister. Mais voici
le
principe fondamental qui nous distingue de l'Occident. La seule
situation
imaginable est la suivante: un parti règne, tous les autres sont en
prison.»
Ngày
12.111927, B. tuyên bố trên tờ Troud:
“Ở xứ ta thì cũng vậy, các đảng khác cũng
có thể có. Nhưng đây là nguyên tắc của… Bắc Kít chúng ta, và nó phân
biệt Mít với
Tây Phương. Chỉ có thể có một hoàn cảnh như thế này: Đảng VC Bắc Kít
cầm quyền.
Các đảng khác, vô tù”.
Chúng nó làm
CS.
Chúng ta làm tù nhân
TTT
Nhà
tù thay đổi Koestler. Nó không khiến tinh thần ông nở rộ như trong
trường hợp của
Solzhenitsyn, hay của Mandela, nhưng nó chiếu sáng cho ông về cái tính
người mà
Âu Châu cần và thiếu. “Ý thức bị kiềm chế tác động như một loại độc
dược chậm,
ngấm ngầm biến đổi toàn bộ tính tình con người,” [“The consciousness of
being
confined acts like a slow poison, transforming the entire character,”]
(1) ông
viết. “Và, bây giờ, nó dần dần hé ra cho tôi thấy, trạng thái tâm lý nô
lệ thực
sự nghĩa là gì". [“Now it is beginning gradually to dawn on me what the
slave mentality really is.”] Vào lúc đó, những vụ án trình diễn ở
Moscow đang
diễn ra, với uỷ viên bộ chính trị trung ương Đảng là Nikolai Bukharin
thú tội
trước nhân dân về những tội ác mà ông không làm, không phạm, và xin
được nhà nước
khoan hồng bằng cách làm thịt ông! [LCD dám phải trình diễn màn này, để
đổi lấy,
nhà nước VC sẽ khoan hồng cho vợ con ông, thí dụ như vậy!] Ông anh/em
rể của
Koestler, một bác sĩ, bị buộc tội chích cho bệnh nhân vi trùng tim la.
Koestler bắt đầu nhìn ra tình anh em ruột thịt giữa chủ nghĩa CS và chủ
nghĩa
Phát Xít. Ông bye bye Đảng.
Carlos
Fuentes: Women
on
Sister Benedicta &
Anna
Akhmatova & Simone Weil
Triết gia Đức gốc Do Thái
Simone Weil là đệ tử của Alain. Và lời
phán của ông thầy, xuống đệ tử, hãy
suy
đi nghĩ lại mọi điều, dựa vào việc đọc mỗi năm một triết gia hay một
nhà thơ,
như Plato và Homer. Alain không nghĩ ông là Cộng Sản hay xã hội. “Tôi
thuộc phe
Tả đời đời, một phe Tả chẳng bao giờ hành xử quyền lực, như bản chất
của nó,
thể nào cũng đưa đến lạm dụng.”
Simone Weil chẳng những suy đi nghĩ lại mọi chuyện mà còn quyết định
biến tư
tưởng của bà thành hành động, đưa chúng vào thử nghiệm ở trên đường
phố, ở
xưởng thợ, ở mặt trận. Khi còn là sinh viên, bà có biệt danh là “Thánh
Nữ Đỏ”,
và bà biểu lộ khuynh hướng tả phái của bà bằng cách đi tới nhà máy,
xưởng thợ
cùng làm việc với công nhân, chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha,
và sau
đó, dục bỏ “chủ nghĩa ái quốc của Nhà Thờ”, và luôn cả những tiếng nói
của Ky
Tô Giáo Pháp, hô hào: “Thà Hitler còn hơn là Mặt Trận Bình Dân”. Nhưng
Simone
Weil cũng dục bỏ Liên Xô Cộng Sản, khi bà biết về những vụ thanh trừng
của
Stalin. Và bà cho biết niềm tin
của mình:
“Chẳng bao lâu, những nhà cách mạng thứ thiệt sẽ được nhìn nhận bởi vì
chỉ họ là
những người không nói tới cách mạng. Chẳng có gì vào thời đại này xứng
đáng một
cái tên như thế”. Và bà càng dấn mình vào môi trường lao động và chính
trị thì
bà càng thấy mình gắn bó với Chúa, qua những thuật ngữ như trọng lực và
ân sủng.
Tuy nhiên, bà luôn luôn là một tín hữu Ky Tô ở bên ngoài Nhà Thờ, mà bà
tin là,
chỉ là một cấu trúc độc đoán, thư lại. Bà muốn mình ở với Chúa, và,
hành động tự
do. Và bà sẽ ở với Chúa vì bà tin tưởng “Chúa không sáng tạo gì hết
ngoài tình
yêu tự thân, và những phương tiện, cách thức để yêu.” Chúa thì thực,
Simone
Weil nói với chúng ta, bởi vì tình yêu của tôi không phải là tưởng
tượng. Và vì
lý do này, bà cảm thấy mình là chủ của ước muốn tự do của riêng mình.
Sự chấp
nhận hay từ bỏ Chúa tùy thuộc ở sự tự do của bà. Vào ngày 15 Tháng Tư,
1943, bà
mất vì nhịn ăn tại một bịnh viện Anh. Bà bị từ chối không được gia nhập
lực lượng
kháng chiến Pháp, và vì vậy, bà từ chối, không sử dụng phần ăn quá phần
ăn hàng
ngày ở trại tập trung, mặc dù sự kiện, vi trùng bịnh lao đang ăn tươi
nuốt sống
bà. Cả đời tôi, tôi tin tưởng ở Simone Weil, kể từ ngày tôi đọc tiểu
luận tuyệt
vời của bà, “The Iliad, Poem of Might”, [Iliad hay là bài thơ của Sức
Mạnh], và
ghi vào ký ức của tôi, những bài học mà bà rút ra từ Homer: “sự kiện là
chẳng có
gì tránh được phần số…. đừng bao giờ ca
ngợi sức mạnh, hay thù hận kẻ thù, hay khinh khi những kẻ khổ đau.”
Simone
Weil
TTT
chẳng đã tiên đoán ra được, trước khi khăn gói quả mướp lên đường đi tù
cải tạo,
miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này. Câu nói của ông
đúng
vào những ngày 30 Tháng Tư 1975, khi nhìn VC tiến vào Sài Gòn, thì
cũng
đâu có khác gì Weil, khi nhìn những đoàn quân Nazi tiến vào Paris:
Her observation, at the very moment of the occupation of Paris
by German troops, that this was a great day for Indo-China (for all
people
under French colonial rule). G. Steiner: Sainte Simone -
Simone Weil]: Đây
là ngày trọng đại, ngày hội lớn, cho xứ Đông Dương, cho tất cả những
dân tộc bị
Pháp biến thành nô lệ
For Weil, the "crimes" of
colonialism related
immediately, in both religious and political symmetry, to the
degradation of
the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a
classical or
scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked by
cant or
taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble. She
believed
that contradiction "experienced right to the depths of one's being
means spiritual
laceration, it means the Cross." Without which "cruciality"
theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To
take
seriously, existentially, the question of the significance of human
life and
death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or
futility of
political action and social design is not merely to risk personal
health or the
solace of common love: it is to endanger reason itself. The two
individuals who
have in our time not only taught or written or generated conceptually
philosophic summonses of the very first rank but lived them, in pain,
in
self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein
and
Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit
shadows.
Steiner
Đối với
Simone Weil, những “tội
ác” của chủ nghĩa thực dân thì
liền lập tức mắc míu tới băng hoại, thoái hóa, cả về mặt tôn giáo lẫn
chính trị
ở nơi quê nhà. Nhiều lần, một Weil lập ngôn – những lập ngôn này dù
được trích
ra từ văn chương cổ điển hay kinh thánh, thì đều như mũi dao - cắt tới
tim vấn
nạn, thứ thường xuyên che đậy bằng đạo đức giả, cấm kỵ. Bà không chùn
bước
trước mâu thuẫn, điều không sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn là
‘kinh
nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một
cõi xé
lòng, và, đây là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến như thế, thì, những
cuộc
thảo luận thần học, những định đề triết học chỉ là ba trò tầm phào giữa
đám
khoa bảng. Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn, câu hỏi về ý nghĩa đời
người và
cái chết trên hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi hỏi về đáng hay
không
đáng, một hành động chính trị hay một phác thảo xã hội, những tra vấn
đòi hỏi
như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá nhân, cho sự khuây khoả
của một
tình yêu chung, mà nó còn gây họa cho chính cái gọi là lý lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói,
viết,
hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng cấp số
1, nhưng
đều sống chúng, trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong
sự từ bỏ
niềm tin Do Thái giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil.
Đó là
vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như
nhau.
*
But
perhaps the deepest sense of Milosz’s political impact lies elsewhere;
following in the great Simone Weil’s footsteps, he set forth a model of
thought
linking metaphysical passion with responsiveness to the plight of the
simple
man.
Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì
nằm ở một
nơi nào đó; theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra
cho mình
một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số
phận của
một con người bình thường.
Trí tuệ và những
bông hồng
Ở
S. Weil có khía cạnh Antigone, và điều này tránh cho bà trở nên hoài
nghi, và tới
gần sự thánh thiện.
Tôi đọc, với ngưỡng mộ, và nản quá nản quá, cuộc đời Weil. Sự kiêu ngạo
của bà
đánh tôi đau hơn là sự thông minh của bà!
Tôi vừa đọc Weil viết về Iliade, Viễn tưởng dởm. Làm sao mà bà
có thể
viết, thế giới Hy lạp bắt đầu bằng hùng ca và chấm dứt bằng Phúc Âm? Có
gì là
chung, giữa Achille và phần còn lại, và những ngư phủ Judée?
Sự quan tâm
sâu xa của tôi đối với những người
Do thái, và tất cả những gì liên quan tới Do thái. Những trường hợp.
Tất cả.
Simone Weil. Kafka. Những hình tượng của một thế giới khác, Chỉ
có họ có
sự bí ẩn. Những người không phải là Do Thái, thi đều quá hiển nhiên.
Cioran
Hai lầm lỗi
lớn nhất trong thế kỷ 20 là Holocaust và Gulag. Danh từ Gulag đồng âm
với
Archipelago (Arkhipelag Gulag) đến từ chủ trại tù Solovki, Gulag đầu
tiên trên
đảo Kolovetsky, tên Degtyarev, ông này chuyên bắn và giết tù nhân được
tặng biệt
danh “nhà giải phẫu trại tù”.
Nhà văn Solzhenitsyn nghe danh từ Gulag từ
tù nhân
khoa học gia Dimitry Likhachev ở nhà tù Silovki.
Việt Nguyên: [Chôm] Từ bàn viết Houston
Mấy chi tiết
trên, là từ bài viết của Michael Scammell, trên tờ NYRB, số mới nhất 28
Tháng
Tư, 2011. TV giới thiệu.
Gấu sợ rằng, cái tay Vịt Nguyên này, chôm từ TV, mà vờ
luôn, không phải Gấu, mà là Michael Scammell, người điểm cuốn Voices from the
Gulag, do Solz biên tập.
Chôm nhanh
thật!
Tay này, qua
tờ Người Vịt cho biết, là 1 bác sĩ, không hiểu có phải bác sĩ phẫu
thuật không?
Holocaust và
Gulag mà là hai “lỗi lầm” ư?
Chắc cũng giống
như “chôm" thôi mà!
Tay chủ báo,
biệt danh “Ông Số 2”, cũng nhanh chân lẹ tay lắm, không thua gì cộng
tác viên!
NQT
Circles of
Hell
Michael
Scammell
Voices from the Gulag
edited by
Aleksandr Solzhenitsyn
and
translated from the Russian by Kenneth Lantz.
Northwestern
University Press, 414 pp., $29.95 (paper)
Gulag Voices: An Anthology edited by
Anne
Applebaum.
Yale
University Press, 195 pp., $25.00
The Victims
Return: Survivors
of the Gulag After Stalin
by
Stephen
F. Cohen.
Publishing
Works, 216 pp., $22.95
Gulag Boss: A Soviet Memoir
by Fyodor
Vasilevich Mochulsky,
translated from the Russian and edited by Deborah Kaple.
Oxford University Press,
229 pp.,
$29.95
Cái từ "quần đảo",
trong cụm từ "Quần đảo Gulag", ở đâu mà ra?
Trước giờ, Gấu cứ nghĩ, từ
"quần đảo" này, là để chỉ những đảo nho nhỏ,
là những
trại tù, ở rải rác trên đại dương lớn lao, là nước Nga khổng lồ.
Thì đúng như
thế, nhưng chưa bao giờ Gấu này băn khoăn, ai là người đầu tiên nghĩ
ra, vì đinh
ninh, Sozhenityn chứ còn ai vào đây nữa.
Michael
Scammell, tác giả cuốn tiểu sử Koestler, cũng nghĩ như vậy.
Trong bài điểm một
số tác phẩm về Gulag, Những Tầng Địa Ngục, Circles
of Hell, trên NYRB, 28.4.2011, ông nghĩ, nó từ trí tưởng tượng của
Solz mà ra, để ăn
nhịp với từ Gulag.
Từ này cũng rất ư là quái đản, bởi vì không ai có thể ngờ được,
cái bóng khủng khiếp của nó phủ lên cả nửa trái đất, còn nửa kia, thuộc
về
Holocaust, và cả hai, bi giờ, đi vô từ điển, không viết hoa, trở thành
1 từ thông thường, để bao gồm tất cả những hình thức tương tự, những
“hậu duệ”
của chúng.
Trong bài viết, ông cho
biết, chủ nhân đích thực của từ “quần đảo”, trong cái nhịp đầy đủ
bằng tiếng Nga của nó, Arkhipelag Gulag, là từ một câu nói phét của 1
ông trùm
sa đích, a sadistic boss, tên là Degtyarev, Trùm Solovski, một trại tù
Gulag lớn
nằm trên quần đảo Solovetsky Islands, Bạch Hải, White Sea, không xa Bắc
Cực,
Arctic Circle.
Kiệt tác
của Degtyarev, là tuyển chọn những tù
nhân đích thân hành quyết, và xử bắn. Vì vậy mà
hắn có cái nick là “Bác sĩ Phẫu thuật của Trại”, ‘camp surgeon’. Hắn
còn
nhiều nick khác nữa, [chắc không thua Tướng Givral, bạn của GNV] thí
dụ:
Chỉ
huy trưởng
Lực Lượng Quần Đảo Solovetsky [Commander of the Forces
of the Solovetsky Archipelago].
Khi
Solz. nghe được nick này, từ một nhà
khoa bảng ngữ văn nổi tiếng, Academician Dmitry Likhachev, một cựu tù
Solovski,
ông tóm liền vì là một ẩn dụ tuyệt hảo cho đề tài, và đi vào cái tít
cuốn sách,
thật ăn nhịp với từ Gulag.
*
Qua Những
tầng địa ngục, Scammell cho biết,
Solz được gợi hứng viết The Gulag
Archipelago, một phần là vì số lượng thư khổng
lồ, và những hồi ký mà ông nhận được, sau sự xuất bản không trông mong,
chờ đợi,
the unexpected publication, vào năm 1962, ở Liên Xô, cuốn tiểu thuyết
viết về
trại tù lao động của ông, Một ngày
trong đời Ivan Denisovich.
Ông dựa vào trên
hai trăm accounts [tạm dịch: “hồ sơ”], để viết nó, và những cuộc phỏng
vấn, nhiều
như là ông có thể, những cựu tù, sau khi ‘chôm’được, từ nhà khoa bảng
Likhachev,
cái hình ảnh tuyệt vời “quần đảo”.
Cả bộ sách khổng lồ là sự
lập đi lập lại của
từ này, hình ảnh này, như D.M. Thomas, người viết tiểu sử Solz cho
thấy. (1)
Nhưng Solz
không thể nào nêu tên những cựu tù, khi viết và cho xb Gulag.
Và Voices
from the Gulag, là một bản đính kèm của Gulag.
Vào năm 2001, Solz đã cho xb chứng thực, testimony, của 7 trong số
những người đó,
trong 1 cuốn nhan đề Pozhivshi vs GULAGe
[tạm dịch qua tiếng Anh –Scammell viết – là “Survivors of the Gulag”,
Những kẻ
sống sót Gulag, và bây giờ, được dịch qua tiếng Anh, “Voices from the
Gulag”.
Tại
sao phải nêu tên?
Bởi
vì:
Những người đã chết đều có thực.
TTT.
Đâu
có phải ‘tự nhiên’ mà "ông số 2" chôm câu thơ của TTT.
Phải là thi sĩ như "ông số 2", mới nhìn ra "ông số 1"!
Đã
có thời,
Gấu thèm cái số đỏ của “ông số 2”: cùng học 1 trường, truờng Nguyễn
Trãi, Hà Nội,
cùng promotion, cùng vào làng… văn một thời, có đủ hết, chẳng thiếu 1
thứ.
Ui chao, hóa
ra ông cũng cần 1 thứ mà không làm sao có được, là chỉ độc nhất 1 câu
thơ, của
"Ông Số Một”, để làm cái tít cho một bài viết chửi VC, về cái sự Đại Ác
của
chúng!
Những người “đã
sống”, đều có thực!
Một câu thơ,
mà khủng đến như thế!
Cũng ý đó,
Steiner, vinh danh Solz, qua bài viết De
Profundis:
Each
indignity visited upon a human being, each torture, is irreducibly
singular and
inexpiable. Every time a human being is flogged, starved, deprived of
self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is
an
additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the
irreparable
fact of individual agony with anonymous categories of statistical
analysis,
historical theory, or sociological model-building. Consciously or not,
anyone
who offers a diagnostic explanation, however pious, or even
condemnatory,
erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the
death by
torture of this man or that woman, of the death by hunger of this
child.
Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As
happens
with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows
that if we
are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter
their
names, by the million, in an incessant requiem of nomination.
Mỗi một sự sỉ
nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp
riêng lẻ
không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh
đập, bị
bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra
trên tấm
dệt đời. Đây
là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm
cho sự phi nhân không còn có tính cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối
của từng cá nhân, bằng đủ thứ
phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử, hay xây
dựng mẫu
mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời
giải thích
chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi nữa,
cũng làm
tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể không thay
đổi được
về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái chết vì đói
khát của em
bé nọ …
Cụm từ khó
hiểu nhất, của đoạn trên, là “to
depersonalize
inhumanness”. Theo Gấu, nó liên quan đến cụm từ sự “tầm phào của cái
ác”, của
Arendt, và nó cũng giải thích sự khác biệt giữa hai chế độ VNCH và VC
Miền Bắc.
Những
phát giác sau đây, có tính cách riêng tư, và là kinh nghiệm cá nhân mà
G đã trải
nghiệm, thời gian làm cho “chế độ mới” sau 30 Tháng Tư, đâu được vài
tháng, trước
khi bị đá đít, từ văn phòng bên trong Bưu Ðiện, Sài Gòn, ra vỉa hè làm
1 tên viết
mướn.
Nó
cũng giải thích tại làm sao một ông thủ tướng 1 nước Tây Phương, thí
dụ, phải tự
mình làm đơn xin từ chức, khi để xẩy ra những vụ việc nghiêm trọng,
trong khi Tấn Dũng VC
nhà ta thì cứ mặt dầy, chẳng “tôi xin lỗi”, và “tôi xin tự biếm” - tự
biếm,
không phải tự thiến, như phê bình gia-tên hoạn quan!
Hà,
hà!
(1)
NQT
& Quyên @ Cali,
2003
Ẩn dụ
Lò Cải Tạo, cái sườn
của tất cả những gì được viết ra ở đây.
[Mô phòng: Ẩn dụ Quần Đảo,
cái sườn tác phẩm, trở đi trở lại, và là tít của nhiều chương: Những
Con Tầu
của Quần Đảo, Những Bến Tầu của Quần Đảo, Từ Đảo tới Đảo, Quần Đảo Mọc
Lên Từ
Biển.
D.M Thomas: Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta].
Hãy cẩn
thận, về điều này:
Anh chiến đấu vì cái gì - và có thể nhờ vậy, anh sẽ có được nó.
Châm ngôn Nga.
D.M Thomas trích dẫn, sđd
Tribute to Solz
Câu châm
ngôn Nga, 1 cách nào đó, là 1 ẩn dụ tuyệt vời về cuộc chiến Mít.
Anh chiến đấu vì cái gì:
Vì lý tưởng
nước Mít là Một [C'est un UN, như Bác H phán]
Anh sẽ có được:
Lò Cải Tạo.
Một nước
Mít băng hoại, của một lũ ác nhân
Hãy cẩn thận!
Cẩn thận cái
gì nữa!
Gấu đọc Dr
Zhivago, bản tiếng Việt của Mặt Trận
Bảo Vệ Văn Hóa gì gì đó quên mẹ nó mất rồi. Bản của NHH là dịch lại,
với cái
tên Vĩnh Biệt Tình Em, nhân dịp cuốn
phim chiếu ở Sài Gòn, hình như vậy.
Đúng là 1 cuốn sách gối đầu giường của Gấu.
Bà cụ thân sinh của nhà thơ TTT cũng quá mê cuốn này. Hai bà cháu có
khi gần
như thức suốt đêm để… khen Lara.
Nhờ đọc cuốn
sách, khi điểm cuốn Sau Cơn Mưa của
Lý Hoàng Phong, bài đọc sách đầu tiên trong đời, hẳn vậy, khi TTT kêu
Gấu viết
cho tờ Dân Chủ của Vũ Ngọc Các, Gấu
bèn coi cô Hà trong đó, cũng là 1 Lara mũi tẹt, và SCM chỉ là một phác
thảo của Dr Zhivago của Mít.
|
|