Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy
trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu
trang Tin Văn.
Email
Nhìn
lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
Chân Dung Nga
Enrique
Vila-Matas
Luận
về tiểu thuyết
|
THE SOUL
We know
we're not allowed to use your name.
We know you're inexpressible,
anemic,
frail, and suspect
for
mysterious offenses as a child.
We know that
you are not allowed to live now
in music or in trees at sunset.
We know-or
at least we've been told-
that you do not exist at all, anywhere.
And yet we
still keep hearing your weary voice
-in an echo, a complaint, in the letters we receive
from Antigone in the Greek desert.
Adam
Zagajewski
Linh hồn
Chúng tớ biết
chúng tớ đếch được phép sử dụng tên của bạn.
Chúng tớ biết
bạn thì không thể diễn tả được,
thiếu máu, mảnh
khảnh, đáng ngờ,
trước những xúc phạm bí ẩn, như một đứa trẻ.
Chúng tớ biết
bạn bây giờ không được phép sống
trong âm nhạc,
hay trong cây cối vào lúc mặt trời lặn.
Chúng tớ biết
– hay ít ra, chúng tớ được bảo -
Bạn chẳng hề hiện hữu, ở bất cứ chỗ nào.
Và tuy nhiên
chúng tớ vẫn nghe tiếng nói quan hoài của bạn
– trong một tiếng vang, một lời phàn nàn,
trong những lá thư chúng tớ nhận được,
từ một nàng Antigone, ở sa mạc Hy Lạp.
30.4.2012
Dương Thu Hương: “30 tháng
Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”
Phỏng vấn của Đinh Quang
Anh Thái
Dương Thu
Hương: (thở dài) Ðiên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có
hai lần
khóc.
Lần thứ nhất
khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi
người trong
đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi
xuân của
tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa
rộng của
miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất
bản
trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều
có tác
phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương
tiện
thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người
miền Bắc
là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà
nước quản
lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ
được tin
tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc.
Còn toàn
bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ
được nghe một
tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ
vì nó
chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam
người ta
có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ . . . nếu người ta muốn.
Ðó mới là
chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua
chế độ
man rợ. Ðó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Ðó là bài học đắt giá
và nhầm lẫn
lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.
Lần thứ hai
tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam
khác đến
đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được.
Vì khi ở
trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là
một dân
tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong
một phái
đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị
khinh bỉ.
Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà
già Nga bụng
to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán
hàng họ mắng
cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống
nồi, hàng
đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước. Khi đứng ở khách sạn Peking
nhìn xuống
đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ quần áo
complet gớm
giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn toàn vỡ mộng
và tôi
khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi Nga người
ta sung
sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại vớ vẩn
thế”.
Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của người Việt
Nam.
Man rợ thắng
Văn minh.
Hiển nhiên,
trước mắt thì ai cũng thấy như thế. Nhưng đấy là mặt nổi của vấn đề.
Ngay cả bà
DTH, cũng không thể nhìn sâu hơn, để mà nhận ra, là, đâu có phải tự
nhiên mà
thanh niên Miền Bắc nhỏ máu đầu ngón tay viết đơn tình nguyện vô Nam.
Nhà văn Bùi
Ngọc Tuấn nhìn "sâu" hơn, coi tình trạng man rợ của Miền Bắc, là nằm
trong chính
sách “pha lê hóa”, ông bị nhà nước bỏ tù, mà còn phải cám ơn nhà nước,
bởi nếu không, làm
sao lấy được Miền Nam?
BNT viết:
Trong chiến tranh, việc
gìn giữ hậu phương là vô cùng quan trọng. Hậu
phương là gốc rễ, là cội nguồn, là căn cứ bảo đảm sống còn cho tiền
tuyến, cho chiến đấu và chiến thắng.
Khẩu hiệu: Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn cũng vẫn chiến đấu tới thắng
lợi hoàn toàn đã thể hiện rõ quyết tâm của miền Bắc giành chiến thắng
bằng bất kỳ giá nào. Sự có mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng
quân đội các nước đồng minh như Nam Triều Tiên, Úc,... tại miền Nam
Việt Nam đã đẩy miền Bắc Việt Nam vào những năm tháng cực kỳ gay go
gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực, vật lực, hy sinh tất cả cho cuộc chiến.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha
lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những
người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản,
những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại
tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã
hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện
pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người
khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.
Giả như Miền Bắc văn minh
như... Miền Nam, thì liệu có "thoát" cuộc chiến "lầm lẫn"?
Giả như đúng
là man rợ thắng văn minh, thì kể từ 30 Tháng Tư 1975, đất nước thống
nhất, xứ Mít
có đủ mọi khả năng, cơ hội, cứ phăng phăng mà tới văn minh, vậy mà đi
lùi đến
như hiện nay, là sao?
Rồi còn cái đám
tinh anh Miền Nam, được Miền Nam cho đi du học, như là 1 cái nguồn dành
cho hậu
chiến, chúng quá rành chế độ văn minh của Miền Nam, tại sao cho đến giờ
chúng vẫn
bợ đít… man rợ?
GCC nhìn
khác bà DTH: Cuộc chiến Mít là giấc mơ đẹp nhất của dân Mít. Dân Mít
được Thượng
Đế cho có mặt ở trên cõi đời này, là để thực hiện nó, dòng dã theo suốt
chiều
dài lịch sử Nam Tiến của nó.
Bạn có thể
giải thích lịch sử Nam Tiến của dân Mít, như là 1 cuộc chạy trốn man
rợ, mà nguồn
gốc của nó là Cái Ác Bắc Kít, như trường hợp Nguyễn Hoàng bỏ chạy Miền Bắc, tìm chốn vạn đại dung thân.
Cái khốn kiếp,
chỉ xẩy ra sau ngày 30 Tháng Tư 1975.
Làm gì có
hàm hồ, lầm lẫn của lịch sử.
Mặc dù cái bề
ngoài phỏng giái, cởi mở, đám Trùm VC hiện thời, về mặt chính trị,
chúng bảo thủ
đến tận lỗ đít, như bất cứ 1 tên Trùm VC, kể từ khi thống nhất đất nước.
Đứng đầu
là anh y tá dạo, giao liên ngày nào, Anh Cu Dzũng, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ
Tướng VC, và Chủ Tịt Nước
Trương Tấn Sang, dưới trướng là một lũ lâu la bộ hạ, chỉ 1 dúm này đã
tàn bạo dẹp tắt lực lượng hô hào dân chủ phát sinh từ trong nước,
chẳng mắc mớ liên
hệ gì với hải ngoại, có tên là Khối 8406,
lấy hứng từ Charter 77,
của Czechoslovakia. Thành lập từ năm
2006, lực lượng này thu
hút hàng ngàn người công khai ủng hộ, và có vẻ như còn hàng ngàn người
khác, không
công khai ra mặt, trước khi nhà nước VC chặt đầu nhóm, bằng cách thẩy
cả chục đấng
bày trò vô tù. Thêm vào đó, nhà nước VC mò tới những vị thầy chùa, thầy
tu,
linh mục, khi họ đòi hỏi mở rộng cánh cửa tôn giáo, mấy năm gần đây,
chúng bèn
cộng thêm cả những người yêu nước, kêu gọi dân Mít đứng lên chống lại
đàn anh Tẫu
ngày nào.
Tuy nhiên, dù rủi ro, hiểm nguy chờ đợi, những nhà hoạt động Việt Nam
tiếp tục lớn giọng đòi hỏi đa
nguyên chính trị, vạch mặt tham nhũng, hối lộ, đòi cho bằng được tự do
ngôn luận
–biết trước con đường đi vô tù, hay, nếu may mắn, chạy trốn ra được hải
ngoại, như là những
nhà tị nạn chính trị.
Với những
quan sát viên trường kỳ theo dõi Việt Nam, đám chóp bu sợ điều này xẩy
ra, cũng chẳng kém.“Chúng theo dõi sát sao
chuyện xẩy ra, và
‘no nắng’”, Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về chính sách ngoại giao của
VC ở Đại
Học George Mason, phán. “Trong quá khứ Mít VC dùng vai trò của mình ở
ASEAN để
thúc đẩy Miến Điện thay đổi, nhưng bây giờ Miến thay đổi nhanh hơn Việt
Nam”. Bắc Bộ Phủ
ở Hà Nội đi sai một nước cờ: Trước đây, những quan tâm về nhân quyền
ở Miến Điện ảnh hưởng đến vai trò và tính hợp pháp quốc tế của tổ chức
ASEAN, vì
vậy, đóng cửa bảo nhau,Việt Nam và những nước khác trong khối kín đáo
yêu cầu
Hội Đồng Quân Nhân Miến lỏng bàn tay sắt. Mít VC đâu ngờ, đùng 1 phát,
Miến
quay 1 cú 180 độ, và với một Miến Điện càng
ngày càng bớt “Cớm Trị”, Bắc Bộ Phủ như ngồi trên chảo lửa. “Nếu nhân
quyền
khởi sắc ở Miến thì VC cũng phải làm sao được như họ, thế
mới khổ cho nhà nước VC", theo Carl
Thayer, một chuyên gia về Việt Nam ở Australian Defense Force Academy.
Bắc Bộ
Phủ còn sợ mất mẹ nó cái vai trò trung gian số 1 của họ, giữa Mẽo và
Tẫu.
“Mít VC
sợ biến thành kẻ bị phỉ nhổ, so với Miến Điện, được thương yêu, trong
khối
ASEAN”, Thayer phán.
Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng
Quê của Kafka
Bạn
đọc Y Sĩ Đồng Quê, và
tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của
một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận
miền
nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có
ngựa, nên phải
mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh
cô hầu
gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la
lớn: "Ta
bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất,
với cỗ
xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng"
("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an
earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của
một vua
Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp
của mình ở
trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của
cô con
dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
Cái chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong đời tôi, Oscar
Wilde
đã từng tuyên bố.
Nhưng Lucien de Rubempré là ai?
Một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.
Varga Llosa, "chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời tuyên
bố của
Wilde, là
phải được hiểu theo nghĩa 'thực tại ở đời", theo nghĩa đen!
Bởi vì có những nhân vật giả tưởng còn thực hơn cả sự thực!
Viên
y sĩ đồng quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế! (1)
Cô gái Rose hình như đã
nói ra những điều kiện thực sự của tờ
khế ước, của Kafka: "Bạn chẳng thể nào biết điều bạn đang tìm, trong
chính
căn nhà của mình".
Tội lỗi ngồi thu lu đằng sau "cánh cửa ọp ẹp của cái
chuồng heo đã bỏ hoang từ bao nhiêu năm tháng...".
Theo nghĩa trên, Tolstaya
phán, chủ nghĩa CS không từ trên
giời giáng xuống đầu dân Nga, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang
vắng
của lịch
sử.... (1)
Với xứ Mít, thì nó là Cái
Ác Bắc Kít, và có thể còn là Kẻ Thù
Truyền Kiếp của nó, là Anh Tẫu Phía Bắc, mà, trong khi chống nó, để
“tồn tại”, “sống
sót”, Cái Ác Bắc Kít nẩy sinh, và cứ thế sinh sôi nẩy nở, cho đến ngày
30 Tháng
Tư 1975, bùng nổ ra và trở thành điều mà
Milosz gọi là “anus mundi”, cũng đã từng xẩy ra tại xứ sở Ba Lan của
ông. (2)
(1)
Tatyana
Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại
Cấm, và
chỉ được đọc qua bản dịch, Những
Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21),
cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư
duy
chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những
tầng sâu
hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã
từng bảo
nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu
man rợ đó
đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà
khẳng định,
nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống
dai như
thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một
cuộc
cách mạng Nga!
(2)
Anus Mundi có nghĩa là
hậu môn của thế giới.
Theo Milosz,
một người Đức
đã viết ra định nghĩa này, để chỉ xứ Ba Lan, vào thời điểm 1942.
Nhưng Anus Mundi lại làm cho người đọc liên tưởng tới từ Anno Mundi,
tiếng La
Tinh, có nghĩa là "vào năm của thế giới" [in the year of the world],
tức khi thế giới bắt đầu.
Milosz định
nghĩa Anus Mundi: The cloaca of the world.
Như chúng ta đã biết, chỉ có loài vật thượng đẳng mới
có cơ quan sinh dục
riêng, hậu môn, nơi để bài tiết, riêng. Với loài hạ đẳng, chỉ có
cloaca, tức hậu
môn, dùng cho cả hai việc, làm cơ quan sinh dục và làm nơi bài tiết.
Xứ sở Balan vào năm 1942, là anus
mundi, là theo nghĩa đó.
Khi Gấu mượn
từ này của Milosz, trong bài viết về Nếu Đi Hết Biển của Trần
Văn Thuỷ, là theo nghĩa của từ Anno Mundi, năm bắt đầu thế giới, và còn
theo
nghĩa năm Thượng Đế từ bỏ chúng ta, của triết gia người Do Thái,
Emmanuel
Levinas.
Và Gấu coi đó là năm 1975, đối với Việt Nam.
Hậu môn của
thế giới.
Năm Thế Giới.
Năm "Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người". [TCS].
Năm chân lý "nước Việt Nam là một", bị lường gạt.
Bị làm nhục.
1975: Năm Cái Ác Bắc Kít biến thế giới thành Bãi Đánh Hàng!
Cuộc chiến Mít
chẳng có tí ngu xuẩn, lầm lẫn lịch sử, mà còn bắt buộc phải xẩy ra, nếu
không
thì phải làm cho nó xẩy ra, bằng 1 “coup monté”, nghĩa là, bằng mọi
cách phải nhử Mẽo ngu nhẩy vô Miền Nam rồi làm cho nó sa lầy, cho đế
quốc Đỏ rảnh tay ở
những khu vực khác. Đây là 1 sự thực lịch sử, GCC sợ bà DTH chưa nhìn
ra đâu, hà,
hà!
Cú dàn dựng
để dụ Mẽo nhảy vô Miền Nam, là vụ đầu độc tù Phú Lợi, và từ đó mọc ra
Mặt Trận
Giải Phóng.
Lần mới qua
Cali thăm bạn Tháng Tám 2011 vừa rồi, GCC gặp Nguyễn Quốc Thái, từ Việt
Nam qua chơi. Anh là 1 trong những ông Trùm, của tờ Trình Bày, cũng 1
đám Bắc Kít
di cư không quên Hà Nội. Anh bây giờ tỉnh táo lắm rồi, thành ra thôi bỏ
chuyện
cũ, nói chuyện mới. Anh cho biết, ở trong nước, có 1 tay [anh nói tên,
GCC quên
rồi], cũng băn khoăn, bức xức như GCC về vụ Phú Lợi, và bèn mò đi tìm
những người
còn sống, VC nằm vùng, bị tó vô Phú Lợi, hỏi cho ra.
Mấy tay sống sót bèn cho biết,
làm đếch gì có, chúng tớ bữa đó tham ăn, trúng thực, ỉa chảy, Diệm sợ
quá, bèn
cho xe cứu thương cấp tốc chở vô nhà thương, thế là Đảng bèn hê lên
Diệm đầu độc
VC nằm vùng!
Hà, hà!
Còn cái vụ Mẽo
ngu nhẩy vô Miền Nam, ngu như thế nào, thì đã có Graham Greene bật mí
cho chúng
ta biết, qua cuốn Người Mỹ Trầm Lặng.
Bạn đọc cuốn này, kèm cuốn tiểu sử của ông do tay Sherry viết, kèm theo
cuốn tự
thuật, Ways of Escape, do chính ông
viết, là hết… ngu, hết ngây thơ hết lầm lẫn.
Hà hà!
*
“Tôi là một
kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như
vậy,
trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một
khi bị
ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không
thể nào
tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà
làm nữa!”
Ở Lò
Luyện
Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng
thiện
nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh
ta tới,
được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam.
Anh ta sẽ
bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả
một trái đất
sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh
ta về
Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về
tên thực
dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu
Mẽo đến
cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu
thuyết. Cả hai
tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có
một câu
chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá
nhân,
cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị
kỷ, nằm
nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ
Trầm Lặng,
những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và
cùng với
nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn
bà thực,
đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà
mà Pyle
đang chôm từ Fowler.
Gừng càng
già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới
của anh
chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được
xuất bản,
đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:
“Tôi cầu
mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi
hiểu rất
rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh. Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi
anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về
thế
thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo
của anh đấy,
Pyle ạ.”
ĐQAT: Từ đó
bà lao vào cuộc đấu tranh?
Dương Thu
Hương: Ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã là một ngã rẽ trong đời tôi. Ðúng
ra, ngã rẽ
này đã bắt đầu từ năm 1969 khi lần đầu tiên tôi gặp những toán tù binh
người miền
Nam ở Quảng Bình. Lúc đó tôi làm công tác ở các binh trạm và những tù
binh lần
đầu tiên tôi gặp không phải là người Mỹ mà chính là người Việt Nam,
cũng đầu
đen mắt đen, cũng lùn và da vàng mũi tẹt như tôi, và nói tiếng Việt Nam
như
tôi. Cho nên tôi mới hồ nghi rằng tất cả những điều người ta nói đây là
cuộc
chiến tranh chống quân xâm lược thì đó là láo toét. Tuy nhiên vì lúc đó
là chiến
tranh và tất cả đều lao vào một guồng máy và bị cỗ xe khổng lồ nó cuốn
đi. Cho
đến năm 75, với thời gian (giọng ngậm ngùi, xúc động), tất cả mọi ngờ
vực trong
tôi đã chín muồi. Năm 75, tôi hiểu rằng đây là thời điểm quyết định và
là ngã rẽ
dứt khoát trong tư tưởng của mình.
Note:
Những người
Việt Nam, nói tiếng Việt Nam như bà DTH, những người tù binh mà bà gặp
ở Quảng
Bình, năm 1969, không phải là người Việt Nam, mà là… Ngụy.
Tất cả cuộc
chiến Việt Nam, mấu chốt của nó là ở đó: Phải đẩy Miền Nam vào thế kẻ
thù, bằng
cách nhử Mẽo vô, phải làm sao chúng hết còn là người, mà là Ngụy.
Theo nghĩa
đó, Mẽo chính là cứu tinh của VC.
Mẽo là cơ
may độc nhất để hoàn tất cuộc chiến Mít, theo nghĩa thống nhất nó, dưới
sự thống
trị của Bắc Kít.
Cái tởm lợm
của cuộc chiến Mít là ở chỗ đó, nó là giấc mơ đẹp nhất theo đúng "đại
tự
sự lịch
sử" của giống dân Mít, bị Cái Ác của một
miền đất biến thành 1 sự thực lịch sử ghê tởm nhất.
BBP tìm đủ mọi cách để nhử
Mẽo vô Việt Nam, một công đôi ba việc, công, hoàn tất nhiệm vụ chủ
nghĩa Đỏ giao phó trên mặt trận toàn thế
giới, tư, thống nhất đất nước, bắt 1 nửa đất nước làm nô lệ cho chúng.
Có thể nói, cả thế giới,
cả nhân loại, bị Bắc Kít cho vô tròng!
Sáng ngủ dậy
biến thành Bắc Kít!
Tribute to Khoa Hữu
The life of
Lillian Hellman
Profile in
courage
Lillian
Hellman, a popular playwright and bestselling author, was a minor
player in
American intellectual circles. So why is she still such a divisive
figure?
Tribute to Fang Lizhi
Facing
History
Thời
Không Mặt
The human face disappeared
and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos,
'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks
gloried in
facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ
xưa, kẻ nô
lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy.
Người CS
hãnh diện trong "không mặt".]
TTT 2012
TK: Rồi anh
trở thành biểu tượng của giới trẻ?
MT: Vừa biểu
tượng của giới trẻ, vừa chống Cộng nữa. Mình bèn thôi, mình không chống
Cộng nữa,
mình biên truyện tình thôi.
TK: Tại sao
anh không chống Cộng nữa?
MT: Bởi vì
chúng nó cứ bảo mình là Xịa (cười)!
TK: Tiểu
thuyết của anh ăn khách vì sao?
MT: Hoàn
toàn có mục đích viết cho độc giả bình dân coi với những truyện tình
tay ba.
TK: Anh có
tiếc gì không?
MT: Không
bao giờ tôi tiếc cái gì cả. Đối với tôi những cái tôi viết ra không có
cái nào
được cái nào không được cả, đại khái hết.
TK: Anh đọc
gì?
MT: Lecture
thì nó lung tung lắm. Bởi vì mình không chủ trương đi theo văn học Pháp
gì cả.
Bạ cái gì mình đọc cái đó mà thôi.
TK: Về cái ảnh
hưởng, cái khuynh hướng, anh có thấy ngay không?
MT: Thấy chứ.
Thấy ngay chứ. Thanh Tâm Tuyền là người thơ. Còn tôi chỉ là người
romancier, có
người đọc. Có nhiều người thích đọc.
TK: Thanh
Tâm Tuyền ra hải ngoại thì sao?
MT: Bình thường.
Mai Thảo trả
lời Thụy Khê.
Theo GCC,
Mai Thảo chưa từng được coi là biểu tượng của giới trẻ.
Biểu tượng
Chống Cộng, cũng khó nói.
Cái tính Chống
Cộng của Mai Thảo có thể đại chúng, phổ thông, nếu lấy những tác phẩm
đầu tay của
ông, như Đêm Giã Từ Hà Nội, Viên Đạn
Đồng Chữ Nổi so với những
tác phẩm cũng đầu tay, cùng thời kỳ như Bếp Lửa, Tôi Không Cô
Độc của TTT.
Với TTT, là
vấn đề của “cái gọi là” yếu tính của tiểu thuyết. Thứ tiểu thuyết ý
thức hệ, từ
đó, tiểu thuyết xã hội, hiện thực chủ nghĩa, dấn thân, nhập cuộc, hiện
sinh...
Thành thử, làm sao mà MT có thứ nhân vật "vấn nạn", "problématique”,
như 1 Tâm trong Bếp Lửa, theo nghĩa của Lukacs, trong Lý
Thuyết về Tiểu
Thuyết, lại càng không có nhân vật như 1 Kiệt ở trong Một Chủ
Nhật Khác,
thứ nhân vật “phải chết”, và cái chết của họ được coi như là một hành
động
thanh hóa, thanh tẩy, catharsis.
Cũng không
thể coi TTT là người thơ, còn MT, tiểu thuyết gia được. Tiểu thuyết của
MT là để
cho đàn bà đọc, thế giới của nó, là thế giới phòng trà, tiệm nhảy, là
cuộc tình
tay ba như
chính ông xác nhận, làm sao so được với Bếp
Lửa, Một Chủ Nhật Khác. Đó là sự thực. Bây giờ, đâu có ai đọc tiểu
thuyết
MT, không ai còn nhớ, dù chỉ cái tít, trong khi chúng ta vẫn còn nhức
nhối với
1 Bếp Lửa của 1954, Hà Nội, với Một Chủ
Nhật Khác, với anh chàng Kiệt sĩ
quan VNCH, bỏ đi rồi lại chạy về, để chết, bị bắn lầm, như là 1 Cộng
Quân, lấy cái
chết của
mình thanh hóa cuộc chiến, tẩy sạch hận thù?
Đây là 1 đề
tài lớn, GCC "cưu mang" từ lâu, nay xổ ra hết!
Hà, hà!
Ghi
chú
trong ngày
Vào khoảng cuối thập niên 60 thế kỉ trước,
tác phẩm đầu tay
của nhà văn ly khai Tiệp Khắc Milan Kundera được nhà thơ Louis Aragon
(1897-1982) qua mặt công an mang về Pháp, cho chuyển dịch rồi xuất bản
dưới
nhan đề tiếng Pháp là La Plaisanterie (Trò đùa - 1969). Tác phẩm tố cáo
chính
sách mị dân và hành vi lừa bịp của một số nhà lãnh đạo nước Cộng hòa Xã
hội chủ
nghĩa Tiệp khắc thời ấy, được giới phê bình khen ngợi và độc giả ưa
thích trong
bầu khí chiến tranh lạnh. Tiếp theo là mấy tác phẩm Pháp dịch La Vie
est
ailleurs (Cuộc sống không ở đây), Le Livre du rire et de l’oubli (cười
cợt và
quên lãng), L’Immortalité (Bất tử)…, khiến tác giả, bấy giờ không được
xuất bản
sách của mình trong nước và chưa được phép xuất ngoại, đã phải mỉa mai
lên tiếng
tự trào, gọi mình là “một thứ nhà văn Pháp quả tình quái lạ là viết
bằng tiếng
Tiệp”. Cho tới năm 1975, ông mới được phép di cư sang Pháp. Nhập quốc
tịch nước
này năm 1981, rồi nảy ý biến mình thành một nhà văn Pháp, vứt bỏ tiếng
mẹ đẻ để
nối tiếp sự nghiệp văn chương của mình bằng tiếng Pháp. Các tác phẩm
thực hiện
tham vọng này gồm: La Lenteur (Chậm rãi), L’Identité (Nguyên bản) và
L’Ignorance
(Lạc lõng) lần lượt ra đời.
Đọc ba tác phẩm viết
thẳng bằng tiếng Pháp vay mượn, chúng
tôi nhận thấy ngay ngôn ngữ và bút pháp ở đây xem ra hết sức ngọng
nghịu, què
quặt, thiếu máu: tác giả không ngừng tư duy theo lối bẩm sinh rồi phát
biểu qua
mớ ngôn ngữ chưa thuần. Khiến chúng tôi không khỏi nhại thầm lời tự
trào trước
kia của đương sự, nghĩa là “một thứ nhà văn Tiệp quả tình quái lạ là
viết bằng
tiếng Pháp”. Vậy mà cũng có không ít phê bình gia Pháp hùa nhau ca
tụng, lờ đi
những nhận xét không mấy tốt lành nhưng rất chính xác mà chúng tôi vừa
nhắc
trên đây.
TTD
Note: Những nhận xét về
Kundera, theo GCC, ông Tây mũi tẹt, hiện
ở Tây, nên gửi thẳng cho mẫu quốc của ông, hay cho những tờ báo Pháp.
Ông viết bằng tiếng Mít, Kundera & mẫu quốc của ông làm
sao đọc?
Còn những gì ông phán về dịch đối với dân Mít, theo Gấu cực
nhảm.
Lý do là do ông… bỏ
chạy cuộc chiến!
Chứng cớ, GCC đã từng lôi ra, khi ông đề nghị dịch cụm từ “tình
yêu trái phá” qua tiếng Tây là cú sét đánh [coup de foudre], qua tiếng
Anh là “yêu
từ cái nhìn đầu tiên” [love at the first sight].
Ông đâu có biết trái phá nó nổ ra làm sao đâu?
Cái thứ tiếng Tây của
Kundera, theo GGC, ông nhận xét những
gì gì “ngọng nghịu”, có thể đúng, vì rõ là, nó phải khác, thứ tiếng Tây
của Tây,
lẫn của ông Tây mũi tẹt không rành về văn học.
Không
mê văn học như một người sáng tác, đúng hơn.
Cũng chưa từng viết
tiểu thuyết hay tiểu luận văn học.
Chứng cớ, mấy cái tít tác phẩm của Kundera, ông
dịch đều nhảm cả!
Le Livre du
rire et de l’oubli: Cuốn sách của tiếng cười và sự lãng quên
La
Vie est
ailleurs: Cuộc sống thì ở đâu đó. Dịch “Cuộc sống không ở đây” là không
được, bởi
vì, nếu 1 người nào đó, dịch ngược trở lại là khác hẳn cái tít nguyên
thuỷ
[tiếng Tây ở đây].
La Lenteur:
Sự chậm rãi.
L’Identité:
Căn cước [Nguyên bản là cái chó gì?]
L’Ignorance
làm sao mà là Lạc Lõng được?
Đâu có phải Tây mẫu quốc
của ông ngu đến mức không nhận ra "cái
gì gì ngọng nghịu" đâu. Vậy mà họ đưa Kundera vô toàn bộ Pleiade, ngay
là khi ông
còn sống, tức là phải có lý do.(1)
V/v đạo đức,
K hơn hẳn TTD:
K đếch có về nước lèm bèm
nhảm như TTD. Ông chọn nước Pháp để chết.
Còn
TTD bỏ
chạy giờ thấy êm, bò về, lên tiếng chê bai hết mọi dịch giả.
V/v văn học.
Một cách nào đó, 'lối
viết' của Kundera được tóm gọn vào câu sau đây, của ông:
"the struggle of man against power is the struggle of memory against
forgetting.": Cuộc chiến đấu của con người chống lại quyền lực là cuộc
chiến đấu của hồi ức chống lại sự lãng quên.
TTD làm sao hiểu nổi 1 câu như trên?
Khó lắm!
V/v tiếng Tây ngọng của
Kundera.
GCC bệ cả 1 đoạn sau đây,
để
trả lời anh Tẩy mũi tẹt: (2)
Những cuốn
sách lớn được viết bằng một thứ tiếng nước ngoài" (Great books are
written
in a kind of foreign language. Proust, Contre Sainte-Beuve, Daniel W.
Smith và
Michael A. Greco dịch qua tiếng Anh). Theo nghĩa đó, bất cứ một bản
dịch nào
cũng có phần "tồi tệ, lủng củng", nhất là khi đụng tới một hệ tư tưởng
khác, thí dụ như hệ tư tưởng Âu Châu, mà G. Steiner là một trong những
người đại
diện đích thực của nó. Trong một bài viết khác, Steiner khẳng định:
"Chẳng
có dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức luận".
Ngôn
ngữ ngoại, mà Proust nói, theo triết gia Gilles Deleuze giải thích, còn
là hiệu
quả của văn chương đối với ngôn ngữ. Nó mở ra một thứ ngôn ngữ ngoại
bên trong
một ngôn ngữ… một ‘trở nên-khác’ của ngôn ngữ. G. Deleuze trích dẫn
Kafka, khi
để cho một nhà vô địch bơi lội nói: "Tôi nói cùng một ngôn ngữ với ông,
vậy
mà tôi không hiểu dù chỉ một từ ông nói." (I speak the same language as
you, and yet I don’t understand a single word you’re saying).
Hay đoạn
này: (3)
La
première édition de La Plaisanterie parut à Paris dans un
français
pathétique, loin du style sobre de Kundera.
À cette époque, Kundera
avait réussi à imposer l'idée d'Europe centrale comme contexte de son
œuvre. Le
roman connut alors un grand retentissement (il s'en vendit plus de cent
mille
exemplaires). De son côté, la première édition de La Plaisanterie
parut
à Paris dans un français pathétique, en contradiction avec le style
sobre et
rationnel de Kundera. Et lorsque La vie est ailleurs fut
traduit pour la
première fois en espagnol, on s'étonna que le roman, qui mettait en
scène un
poète, soit écrit dans une « langue platement prosaïque ». Un poète fut
donc
chargé de récrire l'intégralité du texte dans un espagnol plus fleuri.
La
première édition anglaise fut elle aussi complètement défigurée: on y
supprima
un chapitre sur le folklore morave (curiosité est-européenne dont le
lecteur
occidental n'avait que faire!) et l'ordre des chapitres fut chamboulé
afin de
rendre le texte plus compréhensible. De toute façon, un écrivain venu
de 1'«
au-delà communiste» était forcément un incapable sur le plan artistique
qui
n'utilisait la fiction que comme moyen de protestation voilé contre le
système.
Cette « surinterprétation » des œuvres littéraires d'« Europe centrale
»
reflétait l'égocentrisme grossier d'un lecteur occidental politiquement
manipulé. Milan Kundera l'affirma haut et fort et, en imposant la
notion
d'Europe centrale, il mena contre cette façon de lire un combat
victorieux.
Đó là việc
các nhân viên được Nhà xuất bản và Công ty văn hoá và truyền thông giao
phó trọng
trách duyệt xét các dịch phẩm sắp được ấn hành lại thường là
hạng dịch giả mà
trình độ văn hoá và hiểu biết ngoại ngữ chưa đủ tầm mức cần thiết.
TTD
Nghe ra có ý
thèm ghế, tranh ăn?
Một bài ngắn, viết không
nên thân, vậy mà lên lớp hoài!
NQT
Roland
Barthes có câu này cũng rất khủng, và áp dụng vô đây, thật tuyệt:
Mỗi
nhà văn
ra đời là mở ra trong người đó vụ án văn chương.
(Chaque écrivain qui nait ouvre
en lui le procès de
la littérature.
- R. Barthes. Le degré zéro de
l’écriture)
Áp dụng
vô K,
hay Linda Lê… viết văn tiếng Tây, mới thấy
rõ ý câu của Barthes.
Cái vụ án văn
chương với K, nằm trong câu phán của ông. Với Linda Lê, là cái xác chết
của 1 đứa
bé Mít ở trong bà.
Trường hợp
Sebald viết văn bằng tiếng Đức cũng có gì xem ra áp dụng được ở đây.
Tiếng Đức
của ông khác hẳn dòng chính, đến nỗi nước Đức cũng ngần ngại không dám
nhận vơ ông
là nhà văn Đức!
Hà, hà!
Khi ông Tẩy
mũi tẹt bỏ chạy xứ Mít, qua Tây, sáng sáng ngồi bàn cà phê Quán Chùa ở
Paris, kế
ngay bàn Sartre, dịch Camus, gửi về cho tờ Văn đăng từng kỳ, thì GCC tiếng Tây
ăn
đong, đọc bập bẹ Người Xa Lạ, Buồn
Nôn, đọc chạy đua
với chiến tranh, khi đó còn "chưa" hứa hẹn những điều khủng khiếp, chạy
đua với
Thần Chết, thèm ghê là thèm, giá như mình giỏi tiếng
Tây hơn chút nữa, thì đỡ khổ biết bao.
Chỉ đến khi về già thì mới
ngộ ra chân lý,
rằng, nếu mi giỏi tiếng Tây hơn tí nữa, hay đẩy đến tận cùng luận lý,
nếu
mi học tiếng
Tây để bỏ chạy, như tên khốn đó, thì suốt đời mi đếch có tổ quốc, dù
Tây, dù Mít,
và sợ rằng, mi mất mẹ con tim, linh hồn Mít của mi.
Cái vụ án văn chương với
Kundera lớn
lao hơn nhiều, nhưng dù thế nào, thì cũng từ “phát giác” của ông, về
hồi nhớ và
cuộc chiến đấu của nó, theo tờ Books:
L'EUROPE RÊVÉE
DE KUNDERA
Âu Châu trong mơ của Kundera
L'écrivain tchèque entre ce mois-ci
dans la Pléiade. Installé en France depuis 1975, Milan Kundera est
partout
célébré pour avoir ressuscité une Europe centrale dont l'identité avait
été
annihilée par la logique bipolaire. Mais sa vision de l'histoire est
idéalisée.
VACLAV BELOHRADSKY. Literarni
Noviny.
L’idée d'Europe
centrale aura été le premier grand thème lancé par Milan Kunndera, avec
un
succès surprenant. Avant que l'écrivain tchèque ne s'en mêle, les
éditeurs de
l'Ouest traitaient les œuvres issues de la région comme de simples
témoignages
sur le communisme, pas nécessairement d'une grande importance
littéraire, mais
que le « monde libre » se faisait un devoir moral de publier.
Note: Đây là 1 bài viết lạ, và hay, về
Kundera, từ 1 tác giả ở quê hương của ông.
Lolita
vs BHD
Cali
Tháng Tám 2011
HTL vs CVD
|
|