Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy
trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu
trang Tin Văn.
Email
Nhìn
lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
Chân Dung Nga
Enrique
Vila-Matas
Luận
về tiểu thuyết
|
Chúc Mừng
sinh nhật Jennifer Thảo Trần
10.3.2012
Thơ Mỗi Ngày
ANTENNAS IN THE RAIN
The
salesgirl in a shoe store on the rue du Commerce, Vietnamese,
she tells
you kneeling, I come from boat people.
I switched
on the shortwave radio: someone sobbing in Bolivia.
Christ's
face in S. Luigi dei Francesi.
One thing is
sure: the world is alive and burns.
He read
Holderlin in a dingy waiting room.
Boat people-the
only nation free of nationalism.
Bài thơ thần
sầu này, GCC cứ lần lữa hoài, không dám dịch. Cứ sờ sợ, Cứ hồi hộp.
Không hiểu
tại sao.
Lại nhớ hồi
còn con nít, ở xứ Bắc Kít, mỗi lần ăn cơm, được người lớn ban cho cục
thịt,
không dám ăn, cứ phải giấu xuống đáy bát, chờ đến giờ chót, thì mới đem
ra ăn,
và ăn thì cũng rất ư là dón dén, dè xẻn, chỉ sợ hết!
Ui chao, cái
bài thơ hay quá làm nhớ đến cục thịt hồi còn nhỏ!
Hà, hà!
To K:
Không
phải anh Gấu bad, nhưng anh sống thật với lòng mình quá, nghĩ gì là nói
liền .
Và cái tài liên tưởng thì khỏi nói .
Tks
NQT
Huế Mậu Thân
@ London
Chez
Tin Văn
TTT 2012
TTT
có hoa có cỏ và lệ đá
có tiếng xuân về gọi vang vang
có ai về gióng hồi chuông mới
khép lại một lần với lưu vong
Đài Sử
Szymborska
Ghi
chú
trong ngày
Có lẽ chưa
bao giờ trong xã hội Việt Nam sự hấp dẫn giới tính của người phụ nữ
được tinh
giản thành công về hai bộ phận cơ thể, chân và ngực, như bây giờ.
PTH
Thú thực GCC
không ngửi được câu văn trên.
Sự hấp dẫn giới tính là cái quái gì?
Văn của bà này
rất độc, theo GCC.
Lạnh và độc.
Mấy bài mở blog của bà, chửi VC mà chẳng độc
sao?
Khác hẳn
GCC.
Hà, hà!
GCC chưa hề
viết độc về VC.
Không lạnh, không độc, không thù, không hận, nhưng cay đắng, thì
có.
Thê lương, cũng có.
Câu văn trên, ít ra viết
như vầy:
Chưa bao giờ
trong xã hội VN, cái đẹp cơ thể của người phụ nữ lại được đẩy lên đến
cực điểm
như bây giờ, nhất là ở hai bộ phận, chân và ngực [trật tự của hai từ
này thì
còn tùy].
Theo GCC,
đây là sự thái quá của bây giờ, so với ngày xưa: Vào thời kỳ chiến
tranh, phụ nữ
Bắc, do phải thồ hàng nặng quá, nên người cứ lùn tịt xuống, mất cả ngực
lẫn
chân.
Tởm nhất, là
mỗi lần Sến phán, là cả một lũ thi nhau hít hà, đăng đi đăng lại, blog
này blog
nọ.
Hoa cho Bùi Hằng
Cái bài viết
của ông nhà văn Quê Choa đang được hải ngoại, trong có Bi Bì Xèo, bộ
lạc Cờ Lăng, diễn đàn Hậu Vệ... khen nức nở, dởm, theo GCC.
Dởm nhất, là
ở điểm này:
Tác giả sợ VC quá, sau khi viết lại càng sợ, bèn đóng cửa tiệm, viện
lý do "cơm áo không đùa với khách thơ".
Nhưng, điều
này mới khốn nạn, thay vì ông ta, và những phần tử tinh anh của Bắc
Kít, Trung
Kít… như ông, quay mặt nhìn vào lăng Bác Hồ, và sau đó điểm mặt Bắc Bộ
Phủ, chúng
ông sẽ cho tụi bay 1 trận, thì ông ta… nhờ, vái... Ông Giời:
Trời đã thấy rất rõ điều
đó. Họ có thể
coi khinh sự phỉ nhổ của nhân dân nhưng họ không thể không sợ trời.
Và
nhất định trời sẽ cho họ một hậu vận thảm hại. Nhất định là như thế,
lưới trời
lồng lộng, họ làm sao mà chạy thoát. Chị
hãy tin như vậy đi và hãy nở một nụ cười.
Một lũ vô thần
mà kêu Ông Giời, tiếu lâm như thế, chửi bố thiên hạ như
thế, mà cũng khen um lên.
Kêu Ông Giời,
thì cũng có nghĩa là chịu thua lũ ác, đành để cho nó muốn làm gì thì
làm.
Nhè VC mà phán,
chúng không thể không sợ trời!
Hannah
Arendt đã từng cảnh cáo đám “vừa đéo vừa run” [xin lỗi nói tục, vì
ông này
nổi tiếng trên chốn giang hồ do & nhờ viết tục] như ông Quê
Cha này rồi:
Salvation or Ruin?
Cứu Rỗi hay Điêu Tàn?
Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ
trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu
nhân dân,
tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước.
Nhưng chính
cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết
trước,
chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính
nó,
chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con
người.
[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz
Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb
Schocken
Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the
natural
course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin,
comes
unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and
the will
of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp
Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không
chịu ngồi
lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.
NQT
Source
Nhân chuyện
Quê Choa, GCC bỗng nhớ đến 1 đoạn trong Đông Ki Xốt, do Manguel kể, trong A Reading Dary, và “phiếm”:
Don Quixote,
trên đuờng hành hiệp, thấy 1 thằng bé bị chủ trói vô gốc cây, đánh đập
tàn nhẫn.
Hỏi, người chủ nói, nó bị đánh vì lười biếng, chứ không phải vì đòi
tiền luơng
chủ không trả. Don ra lệnh cỏi trói, và trả tiền lương cho thằng bé,
thì chủ than,
không mang theo tiền, chờ về nhà lấy. Thằng bé biết, nếu theo chủ về
nhà, không
có Don, thì từ chết đến bị
thương.
Và
đúng như thế, Don vừa lên ngựa đi, là thằng bé lại bị buộc vô cây ăn
đòn tiếp.
27 chương
sau đó, Don gặp lại thằng bé, và Người bèn khoe khoang với bàn dân
thiên hạ, về
vụ giải cứu, thằng bé năn nỉ Don, lần sau đừng làm chuyện như vậy nữa,
nếu
lại thấy nó gặp chuyện không may.
Anh bồi Sancho bèn tặng thằng bé 1
mẩu bánh mì,
một miếng phó mát, trước khi từ giã, và nói, hãy cầm lấy, bởi vì cái sự
rủi ro của
mi, có phần trách nhiệm ở tụi này.
Manguel “phiếm”: Cái bất công, cái ác
thì tràn lan, và chúng ta thì bất lực, không làm sao thắng nổi, đó là
‘vấn đề’.
Và ông kết luận bằng câu của Gide, khi nghe tin Gandhi bị ám sát:
“Như thể Chúa bị đánh bại”.
"It is as if God had
been defeated."
Theo GCC, câu than của
Gide, là đúng vào trường hợp nước Mít. Cả cuộc chiến đẹp đẽ
như thế, đẻ
ra lũ khốn kiếp như thế, chẳng đúng là Ông Giời bị đánh bại, là gì?
Tụi mày làm thịt tao rồi, bây giờ lại vái tao ư?
Hà, hà!
Bài viết
"Cette Guerre", "Cuộc chiến này", chưa từng in ấn của Thomas Mann làm
nhớ... TTT:
“À plus de trois mille
lieuses de distance, un Allemand s'obstine
en vain à se demander ce que peuvent penser ses compatriotes..”
Cách hơn ba
ngàn dặm, 1 trong những đứa con tư sinh của một miền đất, khăng khăng
tự hỏi, cái
lũ VC Bắc Kít, chúng nghĩ gì!
Những
nhà phê bình ở Hànội đã gọi các nhân vật trong cuốn sách này là bọn tôi
mọi nô
lệ. Họ hỏi: trong khi họ xây dựng xã hội chủ nghĩa, bọn này đi đâu?
[Tựa BL]
Vào cuối thập
niên 1930, thủ đô Paris, miếng mồi ngon của những hồ nghi và của quỉ
sứ, en
proie aux mêmes doutes et démons, như phần còn lại của Cựu Lục Địa,
nhưng còn là đất hứa, bếp lửa trí thức, un foyer intellectuel, của
những
nhà văn
chọn lưu vong, như Walter Benjamin.
GCC tưởng tượng
ra cái cảnh TTT ngồi thư viện Hà Nội, đọc Mác xít, chờ “di tản”, (1) và
cảnh GCC,
ngồi thư viện Gia Long Sài Gòn, liền sau đó, những ngày sau 1954,
chờ... cuộc chiến
hứa hẹn những điều khủng khiếp, và trong khi chờ, đọc Hồ Hữu Tường,
“Con thằn lằn
chọn nghiệp”, đọc… Trần Đức Thảo, [mấy thứ này là sách cấm, cũng như
sách Mác
Xít mà TTT đọc ở thư viện HN, bà cụ Chất biểu Gấu, nó đọc Mác Xít nhiều
quá, đến
nỗi bị ghi tên vào Sổ Đen. Nên nhớ TTT là giáo sư dậy Mác Xít ở Đại Học
Đà Lạt],
thực sự là chép, những trang tiếng Tây, như chép Kinh Phật, Bí Kíp… vì
làm sao mà
đọc, cuốn Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận
và chủ
nghĩa duy vật biện chứng). [Minh Tâm. Paris 1951].
Ui chao hồi đó
sướng thật, chỉ tiếc 1 điều, tiếng Tây tệ quá!
Và tất nhiên,
nhớ BHD!
Hà, hà!
(1)
Bếp Lửa,
"miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa
miễn
cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn
cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong
khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân
vật
trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của
lịch
sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ
nhì của tôi, Ung Thư (1970)
có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp nhận
giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết (l'existence de notre
acceptation entre la vanité et la tièdeur de mort). Cuốn sách chẳng bao
giờ được
in ra...
“Thơ Thanh
Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một
thành phố
mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh
ấy, người
ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Quỳnh Giao.
Hai cái tít Ung Thư, và Nỗi Chết Không Rời, như trên cho
thấy, là từ câu của
Malraux, G nhớ đại khái, hình như trong La Voie Royale, mais accepter vivant la
vanité de son existence, comme un cancer, vivre avec cette tièdeur de
mort dans
la main.
Tuy nhiên, cái tít Mắt
Bão, tên một cuốn tiểu thuyết mà ông tính viết, như trong thư riêng gửi
“đảo xa” của nhà thơ, cho biết, là của… Gấu!
Nhớ, lần ngồi
Quán Chùa, GCC nói với ông anh, mình sẽ viết 1 cuốn tiểu thuyết đặt tên
là Mắt
Bão, trung tâm của bạo động, nhưng bất động, đúng cái cảnh GCC ở
trên đỉnh
cồn, là Đài Liên Lạc VTD thoại quốc tế, gửi hình chiến sự trên toàn cõi
Miền Nam, đi khắp nơi
trên toàn
thế giới, tức là ngồi ở mắt bão..., ông anh gật gù, gợi ý thêm, mi phải
đọc sách... địa
lý, thì mới khui ra được những cái tít thần sầu.
Chắc là thấy
thằng em chẳng viết viếc [làm đệ tử Cô Ba mà viết khỉ gì nữa],
ông anh bèn
lấy cái tít và tính viết giùm thằng em chăng?
Chắc là không,
vì cuốn mà ông tính viết, như thư riêng gửi “đảo xa” cho thấy, thì vẫn
là thời của ông,
và Hà Nội, trước 1954.
Một câu hỏi,
có tính 'tâm linh', liên quan tới
cái việc cắt bỏ những năm tháng cải tạo của TTT, trong đời ông, khi đưa
cây thơ
TTT vô Văn Miếu.
Liệu đây là một việc làm tuyệt vời, theo nghĩa, thơ của ông, nhất là
những dòng
thơ ở đâu xa, khi hoàn thành, là hoàn toàn thoát ra khỏi cõi đó, cõi
tù, hay
hơn cả cõi đó, cõi đời?
Chúng, như hạc vàng "đi mất từ xưa", như rồng "được điểm
nhãn", "nhất khứ bất phục phản"?
Theo cái nghĩa mà Bonnefoy nói về thơ, D.M. Thomas nhận định về Dr.
Zhivago.
Hay, TTT nói về cõi thơ tù.
“ ...There is another, more recent poetry which aims at
salvation.
It conceives of the Thing, the real object, in its separation from
ourselves,
its infinite otherness, as something that can give us an instantaneous
glimpse
of essential being and thus be our salvation, if indeed we are able to
tear the
veil of universals, of the conceptual, to attain to it".
["Có một thứ thơ khác, gần đây thôi, nhắm sự cứu rỗi. Nó cưu mang Sự
Vật...
trong sự tách rời của nó ra khỏi chúng ta... trong cõi khác vô cùng của
nó... nếu
cần phải xé toạc bức màn vũ trụ, bức màn quan niệm để có cho được."
Bonnefoy
Bác
sĩ Zhivago không chính trị một cách lộ liễu, như nhiều người
tại
Tây Phương hô hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo... Nhưng
nhà cầm
quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng là một kẻ thù chết người đối với chế
độ. Bất cứ
một trang là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì hết sức lớn
lao, thực
hơn nhiều, so với bất cứ một chế độ chính trị nào, đâu
phải chỉ
cái thứ chính quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết, lao
động khổ
sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater and
more
truthful than any political system, let alone a creed built on
millions
of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless language].
D.M. Thomas: Solz, thế kỷ trong ta
Đẫm
mình trong thời gian "không lịch sử",
hay đúng hơn, lịch sử ở bên ngoài, người ta khám phá ra rằng, những
ngày, những
tháng đều không phương hướng, không mục đích, trần trụi. Tuyệt đối trần
trụi. Sự
không hiện hữu (inexistence) của cuộc sống đem đến sự bình an ở bên
trong. Cõi
thơ êm đềm ngự trị ở bên trên sự bình thản của vũ trụ. Từ đó, mỗi bài
thơ là một
thời gian khép kín, tách ra khỏi chuyển động của cuộc sống. Thời gian
bất thần,
của nỗi kinh hoàng, trở thành thời gian cô đọng; chẳng có chi khác
biệt, giữa
kìm hãm, và bay bổng.
Thơ giữa Chiến Tranh và
Trại Tù
Source
Cũng cái ý của
Quỳnh Giao, trên, Steiner viết về tác phẩm 1984,
của Orwell, và về mẫu tự cảm tính "K", của Kafka.
Bằng cách chọn
cái tít 1984, Orwell ký tên và lấy 1
mẩu thời gian cho mình.
[By opting
for Nineteen Eighty-Four, George
Orwell achieved an uncanny coup. He put his signature and claim on a
piece of
time. G. Steiner: Killing Time]
Trong
bảng mẫu tự cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn
thuộc về,
chỉ một người. (1)
Và nếu như thế, thì TTT
cũng đã xén một mẩu thời
gian, 1954, để ký tên tác phẩm của ông.
GCC có gần
như đủ sách truyện của ông này. Cuốn mới tậu gọn nhẹ, đi đâu dễ mang
theo.
Trong có bài về Kẻ Xa Lạ của
Camus, GCC chưa được đọc!
Thực sự, có
hai lý do khiến GCC vồ liền cuốn của Vargas Llosa: Ngoài bài về Camus,
còn 1 bài
về Lolita. Đọc thoáng đã thấy đã, và có thể, còn làm giầu thêm, nhiều,
cho 1
"BHD vs Lolita" của GCC sắp xuất hiện trên
Tin Văn.
Bởi vì cho đến bây giờ,
chưa ai nhìn ra, Lolita, như 1 tuổi thơ Nga đã mất
của Nabokov, như 1 BHD và xứ Bắc Kít của Gấu già!
Già mà vẫn còn nói dóc quá
xá
Thursday,
March 8, 2012 1:57 AM
FROM:
TO:
Tình cờ lang
thang trên Google tìm tài liệu về Lolita, đọc được 1 câu từ trang Tin
Văn:
"Bởi vì cho đến bây giờ, chưa ai nhìn ra, Lolita, như 1 tuổi thơ Nga đã
mất
của Nabokov, như 1 BHD và xứ Bắc Kít của Gấu già!"
Ông nói thế thì nói dóc quá xá. Cái ý đó có từ khuya rồi. Ông ít đọc mà
ông lại
coi trời bằng vung.
Ông thử gõ hàng chữ "lost childhood" nabokov lolita lên Google thì sẽ
thấy ngay 12,100 kết quả.
Trên mạng bán sách Amazon ở Canada người ta cũng đã viết công khai:
"Humbert does not actually love Lolita herself, but he loves her for
the
fact that she resembles his lost childhood love"
http://www.amazon.ca/Lolita-Vladimir-Nabokov/dp/0679723161
Ở một trang mạng khác người ta cũng viết:
"Nabokov is at pains to point out that his sorrow is not for loss of
his
estate and fortune, but for the loss of his childhood"
http://www.ardis.co.uk/fiction/nabokov.htm
Hôm nay tôi đọc cuốn "Figurations of Exile in Hitchcock and Nabokov"
của Barbara Straumann, ở trang 52 cũng có viết:
The nostalgia for a "perfect childhood" also underpins the
refrigeration of exile as a loss of childhood in Speak, Memory (and in The Real
Life of Sebastian Knight and Lolita).
Thôi đi ông. Già rồi, hết chuyện gì làm hay sao mà nói dóc quá xá vậy?
A.L
[Canada]
Phúc đáp:
Cám ơn bạn. Đúng
như bạn viết, đây là do ít đọc, coi trời bằng vung, chứ không phải là
nói dóc.
Sự thực, Gấu
chỉ tính nói đùa.
Bởi vì, trên
TV đã từng viết về Nathalie Sarraute, và cái tuổi thơ Nga đã mất của
Bà, và cái
ý nghĩ tuổi thơ đã mất của Nabokov, là Gấu “thuổng” từ đó. (1)
Chưa kịp viết
ra thì đã được bạn nhắc nhở.
Đây cũng còn
là do ỷ y. Giả như vô Google thì đã biết rồi.
Trân trọng
NQT
(1)
Kỷ Niệm
Đọc số báo đặc biệt về Đứa bé
& Nhà văn, [Phụ trang văn học của tờ Le Monde], Gấu thấy Gấu, ở trong
thằng bé chưa thành nhà văn Camus: cũng có một ông bố bỏ đi mất tiêu.
Số phận
ông bố của Camus thì quá rõ ràng, ông tử trận. Còn ông bố của Gấu thì
bị một
đấng học trò thủ tiêu, nhưng thực sự ra sao, thì chẳng ai hay. Thế rồi
Gấu lại
thấy tuổi thơ của mình sao giống của ‘em’ Nathalie Sarraute, bị một
miền đất
chôm mất!
Đọc, bồi hồi nhận ra, hình dáng
trong trí tưởng tượng về một BHD,
là từ cái tuổi thơ bị Miền Bắc giam cầm đó.
Một cách nào đó, có thể nói, BHD bước ra từ cái bóng của… Lolita.
1989. Trong một bài viết ở phía
sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút
hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau
đầu thường
trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita - đã lung
linh xuất
hiện, khi ông đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác học đã
thành
công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu
tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái
chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang
theo, tôi
thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc
Darkness at
Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất
bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô
tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một
chú nhỏ
không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền
Bắc,
Hà-nội.
Lần Cuối Sài Gòn
*
Khi gặp BHD, Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê,
thấp
thoáng ở trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc
răng
khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của
Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu,
và vừa đi
vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta
đời thuở
nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em miệt vườn làm vợ, cái xứ
Bắc Kít
trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một
em Bắc
Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD
của mi ở
trong em đó!
*
Un Exil Fondateur
Một Lưu vong, Trùm.
Dans toute l'œuvre de Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui
lui fut
volée.
Trong tất cả tác phẩm của Nathalie Sarraute vang vọng lên tuổi trẻ Nga
của bà,
bị chôm mất!
Ui chao, không lẽ đây là BHD?
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa
mémoire. On
lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est
fini
pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Và nàng có một phản ứng thật lạ: nàng làm thịt hồi ức của nàng. Người
ta chôm
mất của nàng một xứ sở, vậy thì nàng làm thịt tất cả những kỷ niệm về
miền đất
đó!
*
Un Exil Fondateur
Dans toute l'œuvre de Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui
lui fut
volée.
Il était une fois Nathalie
Sarraute. Il était cette petite fille, le front
droit, les yeux attentifs, Nathalie, quelque part en Russie.
Le début du siècle. Sa Russie est là, de tous les côtés, autour d'elle.
Par-dessus la barrière de bois peinte en vert et les gros soleils aux
pétales
jaunes et aux graines noires, il y a, dans la maison de bois découpé
comme une
dentelle, derrière la fenêtre aux rideaux très blancs, un chat noir qui
ne dort
pas, mais qui fait semblant, et, dans une grosse bonbonne sombre
transparente,
la confiture de fraises, les fraises ronndes ou pointues nagent, aussi
netttes
que des billes, dans le sirop rouuge. Sous les rayons penchés du soir,
la couche
de neige bleu et rose est l'édredon qui garde au chaud l'herrbe de la
route,
parce que la route, à Ivanovo, n'est pas de pavés ni de terre, mais
tout en
herbe.
Dans la maison, aux murs faits de troncs d'arbre tout ronds et gris
posés les
uns sur les autres, plane un silence d'une qualité inoubliable, un
silence
poudreux, céleste, et sur ce silence, les paroles se posent en douceur,
comme
en secret: «Mam, gdié ? .. », «Vot, tak ... », « Potchimou ... » ...
Et, d'un coup d'un seul, la petite fille se retrouve dans la chambre
sans vie,
sans couleur, d'un appartement, dans une rue qui n'a pas le moindre
caractère,
à Paris. Les sons y cassent les oreilles.
Alors, cette petite fille a un réflexe très étrange: elle tue sa
mémoire. On
lui a volé son pays, eh bien, elle tue les souvenirs de son pays. C'est
fini
pour elle. Elle est morte, haute comme trois pommes.
Mais elle est là, encore, avec son front droit et ses yeux attentifs,
assise
par terre, jambes repliées, dans un coin de la chambre noire et, comme
rappelle
Nathalie Sarraute qui aime bien les phrases toutes faites parce
qu'elles sont
plus humbles, «petit poisson deviendra grand ».
A partir de ce jour-là, la petite fille dépaysée, dépossédée, l'enfant
déportée, se ferme presque une fois pour toutes à plusieurs franges
d'ondes,
plusieurs franges de sensations. Elle ne perçoit plus les gens, les
choses de
la vie que dans un vide de limbes, fantomatique. Et, désormais, un seul
«phénomène» va lui parvenir, va l'atteindre, la toucher, la blesser, la
surprendre: c'est les mots qu'elle entend. Les mots qui sont dits près
d'elle.
Tout se passe comme si ces paroles « précipitaient» en
elles-mêmes,
agglutinaient en elles-mêmes, phagocytaient l'ensemble des autres
sensations
visuelles, tactiles, gustatives, et même auditives, que Nathalie
Sarraute
s'interdit, dont elle se prive volontairement puisqu'on l'a privée de
ses
confituures de fraises et du chat noir dans la fenêtre, de sa neige
rose et
bleu et du silence de son isba.
Ce ne sont pas les mêmes paroles. Ce n'est pas du russe, c'est du
français. Ce
sont des mots plus secs, aux arêtes plus coupantes, et lui chantent
moins. Et
ces paroles tombent de partout, montent de partout, comme si les gens,
ici, ne
savaient vivre que par elles, aller et venir que par elles, se sentir
être que
par elles. Nathalie est révulsée et aimantée par ces paroles, qui
occupent le
champ entier de ses facultés perceptives.
Il faut bien reconnaître que l'une des choses les plus étonnantes de la
vie,
c'est lorsque vous surprenez, dans la rue, dans un autobus, dans un
café, deux
personnes qui parrlent, qui parlent d'affilée, sans pause, de n'importe
quoi,
comme des machines, sans presque s'écouter l'une l'autre, comme si le
nœud
crucial, le nerf central du corps humain, et de la conscience, c'était
ça :
produire à tout prix des mots, et avoir à portée de la main quelqu'un
pour les
écouter. Comme si les paroles, même creuses, même inutiles et nulles,
existaient plus que les personnes, avaient pris leur place, ici bas.
Et il y a, partout, sans cesse, mille autres situations, mille autres
emplois,
des paroles: les paroles de piège, de tentative d'investissement, de
blessure
maligne, de farfouillage indiscret ...
A lire Nathalie Sarraute, oui, nous saisissons mieux qui nous sommes,
et
comment nous nous y prenons pour nous débrouiller dans nos jours. Mais,
avant
tout, nous tombons sous l'emprise de la voix unique de Nathalie
Sarraute, une
voix plutôt lente, plutôt calme, d'un rythme assez régulier, comme si
elle
«parlait pieds nus» dans un chemin de campagne, épousant les formes
vivantes du
sol.
Il semble pourtant que l'emprise de la voix de Nathalie Sarraute, il
semble,
disons carrément les choses, que notre amour de Nathalie Sarraute,
tienne à une
autre raison: c'est que dans chaque page, dans la plus petite page
qu'elle
écrit, se serrent, blottis, muets, tremblants, bruissants, souriants ou
en
larmes, tous les souvenirs qu'elle a tués, toute cette enfance qui lui
fut
volée, et que, même dans son livre nommé Enfance, elle n'a pas
dite.
Chaque fois que Nathalie Sarraute aura desserré les lèvres, elle les
aura
gardées fermées sur un secret, sur la plus grande souffrannce. Chaque
fois
qu'elle a parlé, elle s'est tue.
MICHEL COURNOT (23 juillet 1986)
Source
Gấu già, sắp
xuống lỗ, sau khi BHD đã bỏ đi xa, không chỉ một, mà tới hai lần, vào
một lúc thất thần,
[xuất thần thì cũng rứa], bỗng giải ra được cái nghi án, tại làm sao mà
vào phút cuối cùng bỏ chạy quê hương
[Sài Gòn], lại cố mang theo cuốn Lolita
của Nabokov.
Il
était une fois Nathalie Sarraute. Il était cette petite fille, le front
droit,
les yeux attentifs, Nathalie, quelque part en Russie.
Ngày xưa có
cô bé BHD, có vầng trán thông minh, có làn da
đen
nhẻm, có chiếc răng khểnh, có cặp mắt nhìn tra hỏi, tại làm sao mà mi
yêu ta, mà
đúng là mi yêu ta, nhìn cặp mắt lé của mi là ta biết liền…
Hà, hà!
Alexander
the Great
“What if we
gave countries their freedom, then conquered them again?”
Hay là chúng
ta cho tụi Ngụy tự do, rồi lại mở thánh chiến, để cứu… Đảng?
Seventeen
copies sold, of which eleven at trade price to free circulating
libraries
beyond the seas. Getting known.
—Krapp’s Last Tape
In 1969,
when news came that her husband had been awarded the Nobel Prize for
Literature, Suzanne Beckett is said to have exclaimed, “Quelle
catastrophe!” She knew her man.
“Ever tried.
Ever failed. No matter. Try again. Fail again. Fail better.”
Worstward Ho
Note: Cái tít này, Worstward
Ho, NTV đã
từng dịch là “Tiến Lên Tàn Mạt.”
Nhưng Ho, ở đây, làm liên tưởng đến Bác
Hồ, và những tiếng la trên toàn thế giới, vào thời kỳ đó, "Ho, Ho, Ho!", và như thế, cái tít
còn
tiên đoán sự tàn mạt của xứ Mít.
Lạ thay là sự liên
tưởng!
[To K. NQT]
« Đúng là 1 thảm
họa »,
Gấu Cái than, khi GCC được Nobel.
Hà, hà!
Tôi muốn
tình tôi
Je voudrais
que mon amour meure
qu' il
pleuve sur le cimetière
et les
ruelles où je vais
pleuvant
celle qui crut m'aimer
Samuel
Beckett
Bản tiếng
Anh của chính tác giả:
I would like
my love to die
and the rain
to be raining on the graveyard
and on me
walking the streets
mourning her
who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn
tình Gấu chết,
Và mưa rơi
trên nghĩa địa,
trên đường
phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa
khóc
người
tưởng
rằng người
yêu Gấu
Beckett
một thoảng nhớ
Tôi muốn
tình tôi
The death of
chick lit?
Như mọi thứ văn học ô
mai dành cho tuổi hồng,
lúc thoạt đầu thì nhộn lắm. Nhưng 10 năm không gặp là tình đã cũ, và
văn chương
cho tớ 1 cái vé đi... nhà thổ nổi lên
thay thế.
Một cách nào đó, mảng văn học dành cho thiếu nữ tuổi choai choai, kể
như quá đát.
NQT &
NTK
Café Hương
Xưa 1972
Cả 1 thời
làm đệ tử Cô Ba, nhờ bạn NTK mà còn được tí kỷ niệm tuyệt vời này!
Lần đó, hẳn
là tháp tùng ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, dự tiệc gì đó, ra về ghé
quán cà
phê.
Bởi là vì ít
khi GCC phải thắt cà vạt lắm, những ngày ở Sài Gòn.
Hương Xưa?
Hình như 1
quán ở Gò Vấp.
Bài viết của
NXT quên không giải thích “căn nhà mặt trời mọc” nghĩa là gì. Như trong
Wiki
cho biết, thì đây có thể chỉ nhà tù, nơi người tù là người đầu tiên
nhìn thấy mặt
trời mọc, hoặc, cũng nhà tù nhưng dành cho gái điếm bị giang mai, cũng
là nơi điều
trị bịnh.
The real
house
Various
places in New Orleans, Louisiana have been proposed as the inspiration
for the
song, with varying plausibility. The phrase "House of the Rising Sun"
is often understood as a euphemism for a brothel, but it is not known
whether
or not the house described in the lyrics was an actual or fictitious
place. One
theory speculated the song is about a daughter who killed her father,
an
alcoholic gambler who had beaten his wife. Therefore, the House of the Rising
Sun may be a jail-house, from which one would be the first person to
see the
sun rise (an idea supported by the lyric mentioning "a ball and
chain," though that phrase has been used as slang to describe marital
relationships for at least as long as the song has been in print).
Because the
song was often sung by women, another theory is that the House of the Rising
Sun was where prostitutes were detained while they were treated for
syphilis.
Nhưng nhà thơ
quên, và điều này thật đáng tiếc, bản nhạc này, và GI, và cuộc Mít.
GCC nghe nó đúng vào thời
kỳ này, dính “ken” đậm, và gặp lại nó, trong nhà tù VC, qua 1 anh bạn,
cũng mê bản nhạc phải nói là thật khủng khiếp. Anh này còn là nhạc sĩ
[không phải
nhạc sĩ NP, bạn GCC, đã mất, quen nhau ở nhà tù Bangkok trên TV đã từng
nhắc tới]. Chuyên chơi
nhạc phục vụ GI trong các snack bars, ghiền nặng như GI cũng vì vậy.
Anh ta thuộc lời nhạc, và đã từng thủ thỉ hát cho Gấu nghe.
Bạn nghe nó ở trong
tù VC thì mới đã.
Vừa nhớ cuộc chiến, vừa nhớ những thú đau thương mà nó mang lại,
vừa nhớ Sài Gòn, vợ con, gia đình.
Đám thanh
thiếu niên ồn ào, náo động là lũ chúng tôi đó dần dần rã ra cùng với
mùa hè kết
thúc, và rồi những cơn bão lodos chợt tới với thành phố, quất túi bụi
lên những
bến cảng vào mỗi tháng Chín, đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe
máy chậm
chân. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười
bẩy tuổi,
chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà tôi thường
ngồi vẽ,
vào những giờ phút trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật
xứng đáng
với nàng: xưởng họa của tôi. Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh
thoảng ghé,
cũng bầy đặt thử tài hội họa, này, đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy
vẽ,
trong khi nhìn với cặp mắt đầy nghi ngờ những cuốn sách của tôi, và
chuyện này
thì cũng chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu
hết đám
chúng tôi sống ở Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ,
Bông Hồng
Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.
Tình Đầu
26.6.2010
Đọc
"Istanbul" bỗng dưng thấy nhớ
Việt Nam, nhớ những ngày xưa kinh khủng.
HÂ.
Tks. NQT
|
|