Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Thơ mỗi ngày
Một bạn văn
vừa cho biết, "lẩn", mới đúng.
Trong bài Biển,
của Gấu, “lẫn” mới đúng.
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì
thầm của biển...
22/01/2010
Tôi được đọc
bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng
ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trong email
trước tôi đã vô lễ gọi ông là "Gấu Nhà Văn", vì đọc Tin Văn liên tiếp
suốt mấy ngày liền, khiến tôi nhập tâm.
Thực tình,
tôi thích cái bút danh đó.
Khi tôi chụp
hình con hải âu, tôi cứ nghĩ nó là hình ảnh của chính mình. Ai ngờ, tôi
lại gặp
một con hải âu khác khi đọc bài thơ Biển
của ông. Khi nhớ quê hương, kẻ thì
"thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...
Ui chao mới
đó mà đã hơn một năm.
Please take
care and forgive. NQT
Mấy bài thơ
sau đây, của Charles Simic, trong Master
of Disguises, là để tặng… Gấu, nhân lễ Phục Sinh!
The
Invisible One
You read
today about a child
Kept for
years in a closet
By his crazy
parents
On a street
you walked often.
Busy with
your own troubles,
You saw
little, heard nothing
Of what was
said around you,
As you made your way home
Past loving
young couples
Carrying
flowers and groceries,
Pushing baby
carriages,
Hanging back
to scold a dog.
Kẻ vô hình
Bạn đọc báo
bữa nay về một đứa trẻ
Bị nhốt nhiều
năm trong một tủ áo
Bởi bố mẹ khùng
Ở con phố mà
bạn thường đi bộ qua
Bận bịu với đủ
thứ chuyện của riêng bạn
Bạn ít nhìn,
chẳng nghe gì hết
Về những gì
xẩy ra quanh bạn
Khi bạn trên
đường trở về nhà
Vượt qua những cặp vợ
chồng yêu thương thắm thiết
Ôm hoa, tạp phẩm
Đẩy xe con nít
Chùn bước lại
một tí để la con chó.
Private
Miseries
More than
this crippled veteran playing the banjo,
I have no
right to grumble,
More than
this old woman cracking open her purse
To give him
a quarter,
Lest they
both take offense and beat me
On the head
with one of his crutches.
My own
anguish must remain unspoken,
Hidden
behind a firm stride and a smile.
One day I
knelt down and cursed God
For all the
suffering and injustice he consents to.
Since then,
I have felt even more alone.
Like a
lifelong widower forever unconsoled
I pass the
homeless huddled in doorways
Upon a
winter morning and dare not
Grouse about
my own sleepless night,
And my cold
feet that make me hurry past them.
Những nỗi khốn
khổ mình ên
Hơn cả cái
anh cựu binh VNCH,
già què, đang
từng tưng với cây đàn băng dzô
Tớ đếch có
quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà
già đang cố mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ
cho ông lính Ngụy già què
Cứ để cho họ
cảm thấy bị tổn thương và đập vào đầu tớ
Với
một trong những cây nạng
Cái nỗi thống
khổ của riêng tớ phải được nín khe,
Và được giấu
ở bên dưới bước đi mạnh mẽ, và nụ cười.
Một bữa tớ
quỳ xuống và nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau
khổ và bất công mà ông ta cứ nhè tớ mà trút xuống
Kể từ đó, tớ
cảm thấy cô đơn còn hơn bao giờ hết
Như một bà
goá cả đời không hề được an ủi.
Tớ đi qua một
đám người vô gia cư láo nháo ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và không dám
Càu nhàu về
một đêm mất ngủ của riêng tớ
Và đôi chân
lạnh giá của tớ càng khiến tớ vội vã đi qua họ
And Who Are
You, Sir?
I'm just
a
shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't
spoken to me once.
The one with
the eyes of a goat
Grazing
alone
On some high
mountain meadow
In the long
summer dusk.
Nhưng Ngài là
Ai, hử Ngài?
Tớ chỉ là một
tên già lê lết
Nói chuyện bằng
bụng
Về một ông
trời
Chưa từng nói
với tớ một lần
Kẻ có đôi mắt
dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng
cỏ trên núi cao
Vào một hoàng
hôn dài mùa hè
Carlos
Fuentes: Women
on
Sister Benedicta &
Anna
Akhmatova & Simone Weil
The
word martyr,
etymologically speaking, means witness.
Nếu
có thể coi Osip Mandelstam là ngoại lệ, thì Anna Akhmatova (1889-1966)
quả đúng
là nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, thế kỷ 20. Đàn ông yêu bà, nhưng họ
không hiểu
được bà. Tất cả đám đực rựa thì cũng bẽn lẽn thú nhận điều này: Anna
kiêu ngạo hơn,
thông minh hơn họ. Bên dưới dáng mảnh mai, là một ý chí sắt đá. Mảnh
mai và ý
chí sẽ mang đôi cánh đến cho những dòng thơ tuyệt vời của bà, có thể cô
đọng,
biểu trưng bằng bài thơ sau đây, nung chảy nhà văn và độc giả, ở một
khoảnh
khắc đốn
ngộ, vừa trần thế, vô thường, vừa thiên thu, vĩnh viễn: “Thời của chúng
ta ở trên
mặt đất này thì đang bỏ chạy/Vòng vây xiết chặt lại/Nhưng anh ta-người
bạn không
biết của nhà thơ-/Thì một lòng một dạ và sẽ sống hoài hoài”. Niềm tin
khủng khiếp
vào thơ ca là vinh quang của Anna Akhmatova, thì
cũng là nhà tù của bà . Quyết tâm chọn con
đường của riêng mình, thoát ra ngoài sự kìm kẹp của Zhdanov và “chủ
nghĩa hiện
thực xã hội”, bà bị lăng nhục và truy lùng bởi Stalin. Nhà độc tài thèm
là 1 nghệ sĩ này nhìn thấy ở Akhmatova một sức mạnh kép, nguy hiểm,
ngoài vòng
cương tỏa, không thể nào chịu nổi. Bà là cả hai, một phụ nữ, và một nhà
thơ, một
người có thể lèm bèm về cái gói nho nhỏ quyền uy của mình: "Tôi lấy từ
phía tả, và từ phía hữu… Và mọi thứ - trong sự im lặng của
đêm”, bà viết, và cảnh
cáo nhà độc tài, mi ngu quá, làm sao hiểu, cái vòng nguyệt quế, bài
đồng ca, khúc hát nối vòng tay lớn
của thi ca thì ở "bờ bên kia của địa ngục". Vào năm 1935, thơ của bà bị
biếm bởi
chế độ, và bà được dán nhãn một con “điếm”, con mụ “phản cách
mạng”. Thơ
của bà thì nằm trong ký ức của những người đọc bà vào lúc đó. Nhưng
chiến tranh
có cách của nó để tái lập vinh quang và sự nổi tiếng: tiếng nói của bà
rền rĩ cùng
với những âm vang sâu thẳm của truyền thống văn học Nga, và sự kháng cự
của dân
tộc. Bà trở thành vị nữ thần thi ca. Sùng bái. Quá sùng bái. Những bài thơ và bài nói
chuyện của bà
về sự chiến đấu, bảo vệ thành phố của bà, Leningrad, trong khi bị vây
hãm đã làm
bà nổi tiếng, đem đến cho bà những hoan hô, xưng tụng, giải thưởng.
Nhưng bà biết,
“như ma cà rồng, tên đao phủ luôn luôn kiếm ra nạn nhân của nó, nếu
không,
làm sao nó sống sót”. Tên đao phủ đợi trong bóng tối. Khi chiến tranh
chấm dứt,
Stalin tự hỏi liệu người đàn bà sáng ngời, độc lập này xứng đáng – liền
lập tức,
ngay khi có thể - bị tước đoạt hy vọng bà có được sự tự do của mình
qua những đóng
góp của bà trong chiến thắng. Tên độc tài ra lệnh trưng thu vinh quang
và tự do
của bà. Bà mất căn phòng của bà, và thu nhập, như là nhà văn. Bà sống
trong nghèo
khổ, đói lạnh. Bà từ chối và cám ơn sự từ thiện của bè bạn. Và để làm
mất đi những
nghi ngờ kéo dài, liệu tự do sáng tạo chỉ có được với cái giá cao
nhất của nó,
con trai của bà bị đầy đi tập trung cải tạo. Được ra trại vào năm 1956,
con trai và
mẹ không còn nhìn nhận ra nhau, và cũng chẳng còn gì để nói với nhau.
Người con
chuyển cho mẹ mọi sự giận dữ về những đau khổ của chính mình.
“Hãy hỏi những người cùng thời với tôi,” Anna Akhmatova viết, trong
“Bài
thơ không có anh hùng/nhân vật”, “Và tôi sẽ nói cho anh hay/Làm thế nào
chúng tôi
sống trong nỗi sợ vô thức/Làm thế nào chúng tôi dạy dỗ những đứa con
cho tên đao
phủ/Cho nhà tù, và cho phòng tra tấn…”.
Với một lý do tốt lành, bà nói, “Tôi không
thường xuyên viếng thăm hồi nhớ/ và nó luôn luôn làm tôi kinh ngạc.”
Thật là một
điều khôn ngoan đối với bà, khi lắng nghe thật gần sự trưởng thành của
cây trường
xuân, và tự thuyết phục mình, “một người nhỏ bé nào đó đã quyết định
sống”.
Khi
Anna Akhmatova mất, người tưởng niệm bà xếp hàng dài qua những đường
phố phía bên
ngoài Hội Nhà Văn ở Moscow.
Đây là di chúc của bà:
“Tôi tin chắc
là, ngay cả bây giờ chúng ta không hoàn toàn hiểu bản đồng ca kỳ
diệu của
những thi sĩ mà chúng ta sở hữu, tiếng Nga thì trẻ trung và uyển
chuyển, chúng
ta chỉ mới bắt đầu làm thơ: chúng ta yêu nó và tin tưởng ở nó”
Người
ta nói bà luôn luôn bước, với bước dài, vững vàng, thanh thản. Người ta
nói, bà
chẳng bao giờ để cho mình bị đánh gục bởi những toan tính làm nhục bà.
Carlos
Fuentes
Bắc
Kít theo Gấu, chưa từng có thứ thơ này, thứ thơ làm nên một Osip
Mandelstam, một Anna Akhmatova. Bắc Kít chỉ có thơ "Cách Mạng" [lấy
mạng
người], xúi người ta
đi vô chỗ
chết, và thơ tán gái, thơ tìm… lá diêu bông, thí dụ, nhưng sợ Đảng
quá, thì
bèn phải lồng mùi máu vào trong đó, anh ở đầu Trường Sơn, đánh Mỹ Ngụy,
em ở cuối
Trường Sơn, lo tiếp tế..
Đừng
nghĩ là Gấu cường điệu, bạn thử tìm 1 bài thơ, chỉ 1 bài,
của đám thi sỡi Bắc Kít, ở ngoài cái
câu phán của Gấu.
Rekviem
(1935-40)
Requiem
Kinh Cầu
Anna Akhmatova
(Anna
Andreevna Gorenko)
(1889-1966)
Ở đỉnh cao của thời Khủng Bố
Stalin, nhà thơ Nga Anna Akhmatova -
đã là một tiếng nói mãnh liệt của thế hệ của bà - bắt đầu trước tác một
vòng
thơ tang mà bà gọi là Kinh Cầu.
Tuy luôn sống trong nguy hiểm, và bị cấm in
thơ, nhưng bà từ chối rời nước Nga. Kinh
Cầu được đọc thầm, từ tai người này
qua tai người khác, cho tới khi được xb tại Munich vào năm 1963, nhà
thơ không
biết điều này.
Tuy chỉ là kể lại những nỗi đau đớn cá nhân, tiếp theo sau cái
chết của chồng, và con trai bị cầm tù, nhưng đây là một trong những bài
thơ chứng
tích vĩ đại nhất của thế kỷ.
Nhà thơ Joseph Brodsky đã viết
về Kinh Cầu: "Ở vào một vài
giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực
tại, bằng
cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc
giấu diếm, ở
trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt được.
Theo
nghĩa đó, cả thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
[Kinh Cầu được "Thư Viện Công Cộng
New York" coi là một
trong 100 tác phẩm của thế kỷ, bản in 1996. Trên đây là lời giới thiệu
của Thư
Viện nói trên]
It seems
that the voice we humans own
Will never
sound, never celebrate,
Only a wind
from the age of stone
Keeps on
knocking at the black gate.
And it seems
to me that under the sun
I alone
remain-this honor's mine,
Simply
because I was the first
Who wanted
to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova
Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có
đó
Nó sẽ chẳng
bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ
ăn mừng
Chỉ là tiếng
gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ
lên chiếc cổng đen
Và hình như
chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm
vinh quang của tôi
Giản dị, ấy
là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly
rượu độc
Plus heureux
que moi, vous vous êtes résignés à notre poussière natale.
Hạnh phúc
hơn ta, tụi mi đành ôm mớ bụi quê hương.
Vous avez,
en outre , la faculté de supporter tous les régimes, y compris les plus
rigides.
Ngoài ra, tụi
mi có tài, chế độ nào cũng bợ đít được hết, ngay cả thứ khốn kiếp nhất.
Ciroran: Sur
deux types de société [Về hai thứ xã hội]
trong Histoire
et Utopie [Lịch sử và Không tưởng]
Russia
Miền
Đông Hoang Dã
Có 1 cái gì đó
rất giống nhau, giữa Bắc Kít và Nga xô. Gấu tìm hiểu mãi, không ra, cho
đến khi
tới được Trại Tị Nạn Thái Lan, đọc 1 bài viết của Tolstaya, thì mới ngộ
ra là Cái
Ác Bắc Kít có gì tương tự với Cái Ác Nga. Tưởng như vậy là êm, nhưng
không phải.
Phải đến khi đọc bài viết Dưới Cái Nhìn Đông
Phương của Steiner, thì mới vỡ ra thêm, là tại sao cũng Ác, mà một
xứ đẻ ra
những Joseph Brodsky, Anna Akhmatova, Osip Mandelstam… một xứ một mống
như vậy
cũng không.
Còn một cái Ác
giống nhau nữa, “liên can” đến cái gọi là quốc lủi.
TV giới thiệu
bài viết về món quốc lủi của Nga: Burned
to death with vodka.
Và tất cả những
bài phỏng vấn những người sống sót trại tù Norilsk, trên tờ Granta.
Chừng 10 mạng.
GRANTA 64 WINTER
1998. RUSSIA: THE WILD EAST
SURVIVORS
Angus Macqueen
INTERVIEWS
BY ANGUS MACQUEEN AND LIANA POMERANTSEVA
Angus
Macqueen
On my
child's small globe of the world there is only one town marked on the
north
coast of Siberia: Nordwik. It stands a gentle twirl across from Moscow,
and
half an inch from the white expanse of the polar ice-cap. Nordwik,
however, no
longer exists. When I went in search of it for a BBC film on the
Siberian
prison camps, I found nothing but a couple of rusting hulks and a main
street
of deserted and decrepit wooden huts. Nobody has lived there for almost
half a
century. Its presence on a modern children's globe is a tribute to the
American
map-makers who, I suspect unknowingly, have preserved for our children
the
outline of Stalin's Gulag.
The most
mysterious aspect of this is how the map-makers picked little Nordwik,
and not
its giant neighbor along the remote Arctic coast: Norilsk. Just half an
inch to
the west, and with large reserves of nickel, copper and platinum,
Norilsk
recently became one of the biggest prizes in the smash-and-grab that
was
Russia's privatization programme after the fall of Communism. Instead
of
feeding the Red Army's secret armaments industry, nickel is now being
traded on
the London metal exchange.
For years, I
had looked at better maps than my son's, and dreamed of visiting this
town in
the middle of nowhere, this so-called St Petersburg of the north. But
under the
Soviets it was a closed city; its metals were mined for the military
and its
rockets pointed over the North Pole at the great enemy in the west. The
only
foreigners who went there went unwillingly, as part of the huge
population of
prisoners transported for weeks across Siberia by railway and then,
during the
two months of summer thaw, by barge up the Yenisei River. Through
black, bitter
winters, and mosquito-plagued summers, they were set to work mining in
the
permafrost.
Today
Norilsk is just a commercial flight away from Moscow. It remains a
secretive
city, though. When I arrived, an Arctic snowstorm obscured its
Stalinist splendors
as effectively as any amount of old-style Soviet censorship. Many of
these
buildings are indeed reminiscent of St Petersburg (another city built
by
slaves). They are eloquent reminders that Stalin aimed not simply to
exploit
but also to colonize and develop Siberia. The GULAG (the acronym for
the
General Directorate of Camps), with its millions of prisoners, was at
the
forefront of his attempt to industrialize the country. The closure of
the camps
after Stalin's death in 1953 did not halt Norilsk's growth. Many
thousands of
the newly released prisoners, having nowhere (and no one) to return to,
stayed.
Thousands of other Soviets-non-prisoners-were attracted to the city by
high
wages and generous subsidies. Norilsk flourished on amnesia. Books and
films
commemorated the idealists who had braved the appalling conditions to
create
this miracle of Soviet industry. The nickel factory is still named
after the
first camp commandant, a man who shot prisoners in the back of the head
at
random.
With the end
of Communism, the subsidies have dried up. The owner of the nickel,
copper and
platinum deposits is a Moscow bank and it has little interest in
subsidizing
people and amenities that it does not need. The Red Army no longer
builds
tanks, and the price of nickel has dropped threefold since the end of
the Cold
War. The town needs to shrink. Three hundred and fifty thousand people
must,
the economists say, become fifty thousand. It is an easy enough
calculation, on
paper. But what to do with the people? There are neither trains nor
roads out
of Norilsk. Many cannot afford the air fare out, which is the
equivalent of six
months' pension. It has become a town of poverty and unemployment, and
in these
conditions freezing winters that last for ten months-poverty kills.
Perhaps
Norilsk, like Nordwik, is destined one day to be nothing more than a
name on an
out-of-date map. The interviews on the following pages record the
memories and
fears of the dispossessed. As one woman, the daughter of a prisoner,
said: 'We
have nowhere to go and nothing to go with. We are in a camp again.'
AM
GRANTA
THE LAST
EIGHTEEN DROPS
Vitali
Vitaliev
18 giọt cuốc
lủi cuối cùng
Gấu có hai kỷ
niệm về đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít. Có nhiều, nhưng hai
kỷ niệm
này, không hiểu sao, ăn đời ở kiếp với Gấu, và tạo
những thói quen, hoặc nỗi ám ảnh không làm sao rứt bỏ.
Một, là về
món cháo, Gấu kể vài lần rồi. Hồi đó, ở với ông Bác, ở Phú Thọ. Ông làm
hiệu
trưởng một trường làng, chắc thế. Hai ông bà chỉ có 1 cô con gái, Chị
Phúc. Bà
chị này tốt lắm, Gấu đi sao, nửa thế kỷ sau về gặp lại, thấy bà vẫn
vậy. Bà
nói 1 câu về Gấu, mày vẫn như ngày nào, khác hẳn mấy đứa ở lại.
Gấu nhớ lần
đó bị sốt, bà Bác bắt ăn cháo, hết sốt rồi, bà bảo chưa hết sốt, vẫn
phải ăn
cháo. Gấu đói đến lả người, và sau đó, sợ món cháo suốt đời, không biết
kiếp
sau, nếu có, có còn sợ món cháo không!
Còn cái kỷ
niệm kia, một cách nào đó, ảnh hưởng đến cách viết của Gấu, cứ nhỏ giọt
tí tí,
không thành bài, thành bản.
Kỳ tới kể tiếp.
Mémoirs
Ghi
chú
trong ngày
Phóng viên :
Pensez-vous que le général De Gaulle pourrait en quelque sorte, à un
certain
moment, arbitrer le conflit ?
HCM :
Arbitrer ? Qu'est-ce que vous comprenez par le mot arbitrer ? Nous ne
sommes
pas des… des équipes de football ! (cười…)
Tuyệt.
Một cách nhẹ
nhàng và hài hước, rất ngoại giao, để… remettre chacun à sa place, y
compris De
Gaulle, La France et la journaliste.
Source
Ai cần mi làm…
trọng tài?
Thấy me-xừ “Ê
Khánh Trường”đi một đường bênh Bác Hồ,
trên diễn đàn Forum.
Chắc cũng tính làm trọng tài, trong cuộc chiến
giữa hải
ngoại và trong nước nhân cái băng video cho thấy Bác xài tiếng bồi để
trả lời tụi
Tây mũi lõ.
Vấn đề ở đây,
nhân cái băng video, là, trình độ tiếng Tây của Bác như thế, không thể
đọc Mác
Xít được, và cái cảnh Bác khóc ròng khi đọc Lê nin, ngộ ra con đường
cứu nước bằng
thuốc độc Mác Xịt Lê Nin Nịt, sợ… nhảm.
Hơn thế nữa,
tất cả những tác phẩm của Bác viết bằng tiếng Tây, sợ cũng không phải
chính Bác
viết, hoặc Bác viết, nhưng được mấy bậc đàn anh ở Paris lúc đó, “hiệu
đính”, hoặc
chính họ viết, dùng cái tên chung là Nguyễn Ái Quốc, nhưng khi họ đã đi
xa, thì
đều thuộc về Bác.
Nhưng quan
trọng hơn hết, vẫn chính là cái vai trò trọng tài của Tây, khi cô Đầm
gợi
ý, giả như De Gaulle làm trọng tài cho cuộc chiến, thì sao?
Tay “Ê KT” này,
chỉ thấy cái tuyệt của 1 trò chơi chữ, mà lại không thấy cái khốn nạn
của cả 1
đất nước rơi vào tay một đám vô lại, vô học?
Một cuộc phỏng
vấn như thế, phải thật chững chạc. Chữ dùng thật thẳng thắn, thật rõ
ràng, không
thể hiểu sai đi được, nhất là vào thời điểm được phỏng vấn. Nó giống
như 1 văn
kiện ngoại giao, nói với toàn thế giới ý nghĩa của cuộc chiến….
Đọc bài viết
ngắn này, cho thấy, ngay cả một me-xừ giỏi tiếng Tây như tác giả bài
viết cũng không hiểu
được cái sứ mệnh “học tiếng Tây để làm người Việt”, ở những nhà văn
thời hậu
thuộc địa như Salman Rushdie, thí dụ.
Bởi vì quá cả
số phận 1 đội banh bị phù thuỷ trọng tài đạo diễn, cuộc chiến Mít chẳng
có đội
banh, chẳng cần trọng tài, mà chỉ là một cuộc nội chiến giữa hai miền,
không lẽ
ông Tây mũi tẹt không biết?
Tây Du.
-Lúc này anh
không còn lấy tên là anh “Ba”, mà là Paul Tất Thành.
Cái nhìn tự
tin, dáng dấp đúng điệu công tử Paris, anh đang dạo chơi trên cầu
Alexandre III
-Đơn xin vô
học trường thuộc địa như một nội trú của anh Paul
As
for me, I prefer to smell French shit for five years, rather than
Chinese shit for the rest of my life.
Ta
thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời
Câu trả lời
đếch cần mi làm trọng tài, sợ nhảm, hoặc trong lúc phởn, Bác trả lời
“tưới, vãi”, bởi
vì như trong cuốn tiểu sử Greene của Norman
Sherry,
cho thấy:
Tháng Ba,
1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam, Ho [HCM] ký hòa ước với
Tây, thừa
nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống. Viễn ảnh một Việt Nam
độc lập
trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái. Ông chửi đám bộ hạ
phò Tầu:
Mấy bồ có hiểu
nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây
dù sao
cũng mũi lõ, họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng
hết thời
ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Nhưng thú vị
nhất là đọan do chính nhà văn Tô Hoài viết, sau đây, trong Bút
Ký:
Thế là đã rõ
Việt Minh bán nước ta cho Pháp rồi
Cái bọn mà
mày cứ động mở mồm ra là chửi hoạt đầu, núp đít Tây Tầu, nói thẳng ra
là Việt
Quốc, Việt Cách... lại đánh Tây...
Nhà
xb Gallimard. Tủ sách Découvertes. 1999
Như hình ảnh
cho thấy, Bác H đâu còn là Mít, mà là “Người Của Đệ Tam Quốc Tế”, và
những tài
liệu sau này, khui ra từ Cẩm Linh cho thấy, Người lãnh lương của Cẩm
Linh, và
như thế Người là một anh Xịa Đỏ.
Ho Chi Minh
Visiting
President Ho Chi Minh, I found him very courteous, and he explained the
difficulties which had made him refuse my previous visit. He took me
for a walk
in the countryside surrounding his HQ. One had to keep a weather-eye
open for
American bombers. A helicopter approached and I wondered whether it was
American, but it proved to be one of 'ours' and landed. A very pretty
European
girl appeared and began to walk off on her own. "Is she safe". I asked
Ho Chi Minh and he called after her, "Come back. You don't know what
our
boys mightn’t want to do with you."
[Thăm Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, tôi nhận thấy ông rất lịch sự. Ông giải thích những khó
khăn khiến
ông từ chối lần thăm trước của tôi. Ông dẫn tôi làm một vòng dạo quê,
quanh Tổng
Hành Dinh của ông. Mọi người lúc nào cũng phải trông chừng máy bay Mẽo.
Một chiếc
máy bay lên thẳng sà xuống, tôi nghĩ thầm, dám tụi khốn đó nhưng hoá ra
là của
"phe ta". Chiếc lên thẳng đậu xuống mặt đất, và một em Âu Châu xinh đẹp
xuất hiện, cứ thế làm một đường tự biên tự diễn, vung va vung vẩy đi
một mách,
không thèm ngó ngàng mấy đồng chí công an hay cận vệ...
"Này,
liệu con bé có yên ổn không đấy", tôi hỏi ông Hồ. Ông gọi với
theo cô gái: "Quay lại đây, con ngốc!
Mày không sợ mấy
thằng bỏi của chúng tao làm thịt mày hả?"].
Graham Greene: Một Thế Giới Của
Riêng Tôi, Nhật Ký Mơ, A World of
My Own, A Dream Diary, [nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1992].
Bài
viết ngắn trên, chắc là phịa, hoàn toàn phịa. Nhưng nó có nguồn của nó,
là 1 sự
kiện thực, được Greene kể lại trong Tẩu
Vi Thượng Sách, Ways of Escape.
Greene
ra Hà Nội xin gặp Bác, Bác phán OK, nhưng đợi hoài đợi hoài, cuối cùng
G phải
phịa ra 1 cái tin gì đó, như là 1 cú đe dọa, mi không gặp ta là ta sẽ
gì gì đó,
và Bác hoảng quá, bèn tiếp liền!
Trên
TV có viết về cú này, và về lần tiên trong đời Greene được hít tô phe,
trong những
ngày chờ gặp Bác.
Source
|
|