Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Noel 2011
Thơ
Mỗi Ngày
Bruce Weigl
The Metaphysician
in the Dark: An Interview
Nhà Siêu hình
trong Bóng tối: Một cuộc phỏng vấn
BW: Liệu là
do cuộc hành trình từ Yugoslavia, một cuộc hành trình sau cùng đưa ông
tới New
York, làm ông thành nhà thơ? Liệu kinh nghiệm di dân, 1 cách nào đó,
thúc ép ông
đề ra những câu hỏi mà chỉ thơ ca mới có thể trả lời?
Charles Simic:
Có thể. Nhưng bố ai mà biết được, who can tell? Tôi biết những gã cùng
một cái
nền y chang, trở thành kỹ sư, thợ sửa máy bưu điện. Về một mặt khác,
kinh nghiệm
di dân quả là có thúc ép tôi hỏi, và tiếp tục hỏi, một vài câu hỏi về
lịch sử thế
kỷ 20.
BW: Làm sao
mà ông hòa giải, reconcile, những hình thức lớn rộng hơn của lịch sử,
và lời cầu
nguyện về những điều ghê rợn, the litany of terrors (kể cả những điều
mà ông chứng
kiến khi còn là 1 đứa con nít trong chiến tranh ở Yugoslavia) với những
hình thức
dành riêng, độc nhất, là những hình thức nghệ thuật?
CS: Nhà thơ
Holderlin đã hỏi như vậy rồi: Tại sao thi sĩ trong thời kỳ đốn mạt? Và
Heidegger trả lời: Vào thời đại đêm đen của thế giới, hố thẳm phải được
kinh
nghiệm, và chịu đựng. Và để làm được điều này, thì phải có người xuống
hố thẳm,
reach into the abyss. Tôi tiếp tục tin là, thơ nói nhiều hơn về cuộc
sống tâm
linh của 1 thời đại hơn là bất cứ 1 nghệ thuật khác. Thơ là cái chỗ, ở
đó những
câu hỏi cơ bản khác được đưa ra, về phận người.
WITHOUT END
Also in
death we are going to live,
only in a
different way, delicately, softly,
dissolved in music;
one by one
called out to the corridor,
lonely and yet in a group,
like
schoolmates from the same class
which extends beyond the Ural Mountains
and
reaches the Quaternary. Released
from unending conversation on politics,
open
and candid, at ease, even though
shutters are being closed with a bang
and hail
will rattle on the windowsill
its Turkish
march, dashing,
as usual.
The world of appearances won't fade away
at once, for a long time it will
continue
to grumble
and curl like a wet
page thrown
into the fire. The quest for perfection
will find fulfillment casually, it will
bypass
all
obstacles just as the Germans
learned how
to bypass the Maginot Line. Paltry
things, forgotten, kites made of the
thinnest
paper, brittle leaves from past autumns,
will recover
their immortal dignity and the systems,
big and victorious, will wither like a
giant's sex.
No longing anymore. It will overtake
itself,
amazed that it chased for so long
its arctic
shadow. And we will be no more,
not having learned yet
how to live
at such an altitude.
Adam Zagajewski: Without End
TRY TO
PRAISE THE MUTILATED WORLD
Try to
praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild
strawberries, drops of rose wine.
The nettles
that methodically overgrow
the
abandoned homesteads of exiles.
You must
praise the mutilated world.
You watched
the stylish yachts and ships;
one of them
had a long trip ahead of it,
while salty
oblivion awaited others.
You've seen
the refugees going nowhere,
you've heard
the executioners sing joyfully.
You should
praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a
white room and the curtain fluttered.
Return in
thought to the concert where music flared.
You gathered acorns in the park in
autumn
and leaves
eddied over the earth's scars.
Praise the
mutilated world
and the gray
feather a thrush lost,
and the
gentle light that strays and vanishes and returns.
Adam
Zagajewski: Without End
Hãy cố mà ca ngợi thế
giới bị tùng xẻo
Hãy cố mà ca ngợi thế
giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ những ngày dài Tháng Sáu
và những trái dâu dại, những giọt rượu vang hồng
Những cây tầm ma mọc um tùm một cách có hệ thống
những trại ấp bỏ hoang của những người lưu vong.
Bạn phải ca ngợi thế giới bị tùng xẻo.
Bạn ngắm những chiếc du thuyền kiểu cách và những chiếc tầu
một trong chúng thì có một chuyến đi dài phía trước mặt,
trong khi sự lãng quên đẫm vị mặn của muối chờ đợi những chiếc còn lại.
Bạn đã nhìn thấy những người tị nạn chẳng có 1 nơi chốn nào để mà tới
Bạn đã nghe đám đao phủ hát một cách thật là sảng khoái.
Bạn nên ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ khoảnh khắc mà chúng ra cùng bên nhau
Trong căn phòng trắng và tấm màn xốn xang.
Hãy để cái đầu của mình trở về buổi hòa tấu khi âm nhạc bừng lên.
Chúng ta nhặt trái sồi ở công viên vào mùa thu
và những chiếc lá xoay xoay ở bên trên những vết sẹo trên mặt đất.
Hãy ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Và chiếc lông xám của con chim hét đã mất
Và ánh sáng dịu dàng lang thang, biến mất, rồi trở lại.
Bài thơ “Hãy ca ngợi một thế
giới bị tùng xẻo”, lần thứ nhất được
đăng trên số báo “đen” hậu-11/9, của tờ Người Nữu Ước.
When I read it I was struck,
first, by an awareness that, far from
lecturing his reader, the speaker was speaking to himself; his use of
"You" (a Zagajewski trademark) a welcome change from the
self-important I-deology of so many contemporary poets. It struck me,
then,
that he had brilliantly obeyed his own imperatives - "Remember ....
Remember .... Return .... Praise" - and had made me do the same. More
generally, I was arrested by the authority of the voice, the courage
and wisdom
of a call to praise in a time (like any other) of mutilation: praise, a
word
with Christian associations, repeated with increasing urgency in the
refrain,
acquiring the force of a liturgical response, a prayer. Behind the
distinctive
new voice, one can hear a voice heard in Auden's "Musée des Beaux
Arts" ("About suffering they were never wrong / The Old
Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful
martyrdom" in which "the torturer" plays a part.
Khi đọc bài thơ “Hãy cố ngợi ca
thế giới bị tùng xẻo”, tôi bị chấn
động, thứ nhất, từ nỗi quan hoài, thay vì đọc lên giọng ‘mấy lời’ với
độc giả
thì nhà thơ lại nói với chính mình; cách sử dụng đại từ “You”, "Bạn",
một thương hiệu của Zagajewski quả là một sự chuyển đổi thật tuyệt,
tách ra
khỏi cái thói tự quan trọng mình của rất nhiều nhà thơ đương thời. Rồi
tôi còn
bị chấn động bởi sự kiện, nhà thơ thật thông minh, thật duyên dáng tuân
theo những
mệnh lệnh của chính mình - Hãy nhớ... Hãy nhớ... Hãy trở lại.... Hãy
ngợi ca –
và tôi cũng làm như vậy.
Nói chung là, tôi còn bị chấn động hơn thế nữa, bởi giọng quyền uy, sự
can đảm
và tính minh triết của một lời kêu gọi, hãy ngợi ca vào 1 thời [như bất
cứ mọi
thời] của sự tùng xẻo: ca ngợi, praise, một từ với những gia nghĩa mang
tính Ky
tô giáo, được lập đi lập lại với cường độ của sự khẩn thiết cứ thế tăng
dần, ở
điệp khúc, đòi hỏi một sức mạnh của 1 đáp ứng mang tính tế lễ, một lời
cầu
nguyện, khẩn cầu, cầu xin, a prayer.
Đằng sau giọng thơ mới mẻ một cách thật rành rẽ, phân biệt này, chúng
ta nghe
ra một giọng thơ cũ, của một bậc thầy, của Auden, trong "Viện Bảo Tàng
Nghệ Thuật:: "Về đau khổ họ chẳng hề bao giờ lầm/Những Vị Thầy Cũ",
và, chồng lên, sự “ra đời thần kỳ, giống như là 1 phép lạ”, là, sự
"tuẫn
nạn đáng sợ, chết chóc” trong đó, “tên đao phủ, kẻ tra tấn, tên hành
hạ”, cũng
có phần đóng góp của nó, vai trò của nó....
JON STALLWORTHY đọc Eternal
Enemies: Light in the grime [Ánh sáng trong bụi bẩn, cáu,
ghét]
TLS
Dec 4 2009
ONE-MAN
CIRCUS
Juggler of
hats and live hand grenades.
Tumbler, contortionist, impersonator,
Living
statue, wire walker, escape artist,
Amateur ventriloquist and mind reader,
Doing all
that without being detected
While leisurely strolling down the street,
Buying a
newspaper on some corner,
Bending down to pat a blind man's dog,
Or sitting
across from your wife at dinner,
While she prattles about the weather,
Concentrating instead on a trapeze in your head,
The tigers pacing angrily in
their cage.
-Charles
Simic
The New
Yorker, Dec 12, 2011
Note: Gánh
Xiệc 1 Người này sao giống GCC quá!
Hà, hà!
Gánh
Xiệc 1 Người
Kẻ tung nón,
lựu đạn thực
Gã nhào lộn,
tay thể dục mềm dẻo,
Tên nhạo nhại, chuyên đóng vai Bác Hồ.
Tượng sống,
Người đi trên dây
Nghệ sĩ chui vô hòm rồi thoát ra, khoá còn trinh.
Gã lảm nhảm
bằng bụng.
Tên đọc ý nghĩ trong đầu khán thính giả.
Làm tất cả
những chuyện đó mà chẳng bị phát hiện
Trong lúc dạo phố
Mua tờ báo tại một góc đường.
Chôm cho trang TV.
Cúi bắt tay con chó của 1 người mù
Cùng Gấu
Cái dùng bữa tối
Mỗi đứa 1 đầu
bàn chiếu tướng lẫn nhau
Trong lúc Bả
lèm bèm về thời tiết
Cái đầu Gấu
lo cú bay trên chiếc đu
Những con hổ giận dữ nhào tới nhào lui trong chuồng
Simic has a
beautiful two-line poem called "The Wind":
Touching me,
you touch
The country
that has exiled you.
This is his
vision: a man lives in apparent intimacy with the world surrounding
him-touching and being touched by it and yet all the while knowing
himself to
be an exile, a stranger who can at best only pretend to be at home
here. Either
the poet or the wind could be the speaker, and still the point would be
the
same.
Robert Shaw
Gió
Mi sờ vô ta
Là mi sờ vô cái xứ sở đã biếm mi, đày mi,
Làm ngọn gió lưu vong
Charles Simic
Nước mưa ở Mẽo chua như
cứt mèo, như 1 anh Mít trong 1 truyện ngắn của
NBT than thở.
Nó cũng là 1 tên Mít lưu vong
Đây là viễn ảnh của anh
ta: một người đàn ông sống
trong 1 căn phòng, trong cái thân mật bề ngoài, với thế giới bao quanh
anh ta -
sờ và bị sờ bởi nó, tuy nhiên, anh ta biết, anh ta là 1 tên lưu vong,
một kẻ tốt
hơn hết thì phải làm ra vẻ đây là nhà của mình. Thi sĩ hay gió thì đều
có thể là
kẻ nói lên ở đây, và là gió hay là thi sĩ, thì cũng rứa.
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
The wiles
of art
Mưu ma chước quỉ của nghệ thuật
Guilt and greatness in the life of
Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz
CLARE CAVANAGH
Note:
Bài viết trên TLS, Nov 25, 2011. Clare Cavanagh, chuyên gia tiếng Ba
Lan, giáo
sư Slavic languages tại Đại học North-western University, chuyên dịch
thơ Adam
Zagajewski, Wislawa Szymborska, Czeslaw Milosz. Viết phê bình thơ cũng
bảnh
lắm. Bài viết thật tuyệt, về nhà thơ “bửn”, (1) [wiles of art: mưu ma
chước quỉ
của nghệ thuật] của thế kỷ, và nếu không bửn, chắc gì đã được Nobel văn
chương?
TV sẽ giới thiệu, tiếp theo bài về Brodsky The
Gift
(1)
Đây
là muốn nhắc tới bài viết ngắn “To Wash” của ông.
Hay như những dòng thơ sau đây, trong "A Task" (1970):
"I think I would fulfill my life / Only if I brought myself to make a
public confession / Revealing a sham, my own, and that of my epoch"
Tôi nghĩ tôi sẽ làm trọn đời mình/Chỉ bằng cách ra giữa Ba Đình/Làm 1
cú tự
kiểm trước nhân dân/ Nói lên cái nhục nhã của riêng tôi, của thời của
tôi, của
đám sĩ phu Bắc Kít chúng tôi.
Ký
tên: HC!
Hát Sau Lò Cải
Tạo
Có vài điều bất
thường
chung quanh cuốn sách:
1/ Sách bán chạy một
cách
…lặng lẽ; ngay trước khi tác giả được chọn trao giải. Người ta loan tin
số sách
đã bán ra là 56,000 cuốn trước khi nó được quàng lên bìa chiếc băng đỏ
ghi
“Giải Goncourt 2011”. Con số dự trù tái bản sau này là 400,000, một con
số
thông thường dành cho tác phẩm trúng (hai năm trước, cuốn sách của
Jonathan
Littell được in đến 600,000, sách còn dày hơn cuốn này nữa).
2/ Mặc dù vinh quang
như vậy,
chẳng thấy nhà phê bình nào nói đến nó một cách tỉ mỉ. Các tuần san có
phần
dành cho văn học như L’Express,
Le Point chỉ phổ
biến những đoạn tin ngắn. Trên Magazine
Littéraire
của tháng 11/2011 chưa thấy nói đến. Lire
cũng chỉ nói đại
khái.
3/ Đọc xong cuốn
sách, đã
xếp lại mà người đọc còn ngẩn ngơ không hiểu nổi chủ định của người
viết. Ông
ta kể ra nhiều điều, đơn cử nhiều thực trạng, nhiều chứng cứ lịch sử
nhưng nhằm
mục đích gì, khó mà nắm được. Một mình Frédéric Beigbeder trên trang ký
văn học
hàng tuần của tờ Figaro đã thử nêu vấn nạn: liệu cách can thiệp của các
cường
quốc dân chủ hiện nay, dưới chiêu bài ủng hộ và tán thành của LHQ, vào
chủ
quyền của nhiều quốc gia, có phải là một hình thức thực dân mới?
DDT:
DM
GCC chưa được đọc
"Nghệ Thuật
Làm Thịt Người Của Tẩy", nhưng dưới đây là 1 số nhận xét về nó, và nếu
đúng, nghĩa là khác với cái nhìn của DDT, thì đây là cuốn sách Tẩy đang
quá cần: Một anh Tây, viết
1 cuốn sách để nói, tôi xin lỗi, những đất nước đã từng bị chúng tôi
biến thành nô
lệ.
Nguyễn Mạnh
Côn cũng đã từng viết 1 truyện
như thế này, cái tít GCC nhớ đại khái, Chuyện một người đòi
trả nợ cho cả 1
dân tộc.
GCC
cũng đang viết về 1 thằng Bắc
Kít khốn kiếp… sám hối!
Hà, hà!
Prix Goncourt won
by 'Sunday writer'
"Nhà văn Chủ
Nhật" thắng Goncourt
A biology teacher
from Lyon
has won France's top literary prize, the Prix Goncourt,
for his
first novel.
Alexis Jenni, who
describes
himself as just a part-time author – a "Sunday writer" – was named
winner of the Goncourt yesterday lunchtime after the Académie Française
jury
voted by five to three to award his debut L'Art français de la guerre
(The
French Art of War) the prize ahead of the award-winning author Carole
Martinez.
The Goncourt is worth a token €10 but guarantees the winner sales of at
least
400,000 copies.
A journey through
France's
military history in Indochina, Algeria and at home, Jenni's 600-page
novel is
told through the eyes of Victorien Salagnon, a war veteran who becomes
a
painter, and the young man he teaches to paint in exchange for writing
his
story. ""I saw the river of blood which flows through my peaceful
town, I saw the French art of war, which never changes, and I saw the
turmoil
which always happens for the same reasons, for French reasons which
never
change," writes Jenni in the novel. "Victorien Salagnon gave me all
of time, through war which haunts our language."
Moroccan poet and
writer
Tahar Ben Jelloun, on the jury for the Goncourt, described the winning
novel as
"a great literary work which touched on the history of France" in
French paper Le Figaro. Thanks to Jenni, he said, "millions
of
young people will reflect on the war in Indochina, in Algeria, in
France
today". His fellow jury member Bernard Pivot said the novel was
"innovative, interesting, exciting [and] sublime".
Nhà thơ, nhà văn Ma
Rốc,
Tahar Ben Jelloun, trong ban giám khảo, phán, nhờ Jenni, "hàng triệu
người
trẻ ngày nay sẽ có cái nhìn về cuộc chiến ở Ðông Dương, Algeria, và ở
Pháp".
Bernard Pivot, cũng trong ban giám khảo, phán, cuốn tiểu thuyết “làm
mới, thú
vị, gay cấn” và “tuyệt cú mèo, thần sầu”!
Five years in the
writing,
L'Art français de la guerre is Jenni's third completed manuscript but
the first
which he has managed to get published, sent by post to just one
publisher,
Gallimard, which snapped it up and has already sold 56,000 copies. A
48-year-old school teacher who has vowed not to give up his job
following his
win, Jenni
told French paper Le Monde in August that "a year ago, I
thought I would never be anything other than a Sunday writer. Today, I
am
exactly where I wanted to be, but where I never thought I would arrive".
The author, who blogs
about
everyday life in Lyon on his site Voyages
pas très loin, joins recent winners of the Goncourt Michel
Houllebecq and Jonathan Littell, and past winners including Marcel
Proust and
Simone de Beauvoir. Yesterday also saw the Prix Renaudot awarded to
Emmanuel
Carrère for Limonov, the story of the Russian writer.
Bỏ ra năm năm để viết
"Nghệ thuật giết người của Tẩy" bản thảo thứ ba hoàn tất, nhưng là
bản thảo đầu tiên gửi theo Bưu Ðiện tới nhà xb độc nhất mà ông tính thử
thời vận,
nhà Gallimard. Cái việc
được Gallimard in đã quái rồi, mà lại còn vừa kịp để đợp giải, mới cực
khoái!
Ông năm nay 48 tuổi, làm nghề dạy học, và, không bỏ nghề dù thắng giải,
ông
phán, "một năm trước đây, tôi nghĩ mình đếch có thể là cái gì hết,
ngoài
là Nhà Văn Nhủ Nhật. Bữa nay, tôi đúng là cái thứ mà tôi muốn là, nhưng
trước
đây, tôi chẳng hề nghĩ mình bò tới được cái chỗ đó!"
Buồn!
Không phải
GCC buồn mà là David Remick, ký giả Mẽo, khi nghe Newt Gingrich, ứng cử
viên
Tông Tông Mẽo, phán, Palestine là 1 dân tộc “được phịa ra”: Một lời
phán thật
đáng sợ [đây là do ý đồ xấu kết hôn với sự ngu dốt, “That’s what
happens when
pandering is married to ignorance,"] nhằm ém nhẹm [làm nhỏ lại] dân tộc
và
lịch sử Palestine. (1)
Tình cờ GCC
đọc DDT cùng lúc đọc cái tin thời sự, nhưng, nếu như thế, thì cách
đọc của DDT ngược lại, nghĩa là, làm gì có chuyện Tẩy giết người mà
nói chuyện...
nghệ thuật?
Thật đáng sợ!
Sự thực, đề
tài này được nhiều người viết rồi, và thường là những tay đã từng làm
thịt dân
bản xứ, thí dụ Le Mal Jaune,
Nỗi Đau Vàng, của
Jean
Lartéguy, nhưng đây là lần đầu tiên đề tài và người viết được giải
văn học lớn của Pháp.
Truyện của
NMC, Gấu nhớ đại khái, là về 1 viên y sĩ Tây, hy sinh thân mình, [lấy
máu mình,
thuộc loại hiếm, để tiếp cho 1 ca đẻ khó, của 1 cô gái Mít]. Ông làm
như thế, để
xin lỗi cái đất nước mà Tây đã gây nên không biết là bao nhiêu tội ác,
và tội
ác này bây giờ vẫn còn ám ảnh tiếng Tẩy [through war which haunts our
language].
(1)
Republican
candidate Newt Gingrich’s characterization of the Palestinians as an
“invented”
people is an “alarming attempt to diminish the Palestinian people and
to
diminish Palestinian history,” according to David Remnick, the
Pulitzer-prize
winning editor of the prestigious New Yorker magazine.
In a conversation with Haaretz, Remnick also took a dim view of the
support
that various Republican candidates have given to positions that are to
the
right of the Israeli public and its government. “That’s what happens
when
pandering is married to ignorance," he said, “It’s out of synch and out
groove with what the arguments are. And it’s sad.”
Obsession nationale
A l'origine, jure-t-il,
la question coloniale
ne le travaillait pas pour des raisons personnelles. Mais ce qu'il
écrivait
s'est mis à entrer en résonance avec
l'actualité, et avec l'obsession nationale pour l'immi-gration, "comme
si c'était notre seul problème". Nouvelle hésitation : écrire un roman "sur aujourd'hui
ou sur hier"
? D'autres questions se sont ajoutées : "Prendre une écriture
classique ou écrire de l'intérieur, avec une voix un peu
éruc-tante et rythmée" ? "Première ou troisième personne"
? Finalement, il a décidé de ne pas trancher, et L'Art français de la
guerre se compose de deux parties qui racontent en alternance le
présent
du narrateur et le passé de Salagnon, l'ancien parachutiste dessinateur
: "C'est
pour cela qu'il est si gros", plaisante son auteur.
Một ám ảnh quốc gia, [Jenni told
French
paper Le Monde] vậy
mà
DDT viết:
"Đọc xong
cuốn sách, đã xếp lại mà người đọc còn ngẩn ngơ không hiểu nổi chủ định
của
người viết"?
The long life of Homo
sovieticus
This
week’s elections and upheavals in Russia show how hard it is, 20 years
after
the system collapsed, for the country to put away its Soviet past
Hô
Mô Xô Kít dài sao bằng Hô Mô Bắc Kít?
I SPY
John le
Carré and the rise of George Smiley
Smiley is
compared to a "surgeon who has grown tired of blood": Smiley được so sánh với 1 y sĩ giải phẫu quá mệt
mỏi với
máu.
Bộ
dạng hắn như cũng phản chiếu sự thiếu thoải mái này dưới dạng suy nhược
thể chất,
khiến cho hắn hơn bất cứ lúc nào, ngày một thêm lọng cọng, giống y
chang một
con cóc. Hắn nhấp nháy con mắt nhiều hơn, và mang thêm biệt danh Chuột
nhũi.
Nhưng cô thư ký mới vào nghề khâm phục hắn, và luôn gọi hắn là "Gấu
cưng" của tôi.
Gọi
Người Đã Chết
Căn nhà số
15 Merridale Lane thấp, theo kiểu Tudor, với những phòng ngủ được xây
cất ở khu
đầu hồi, và một nhà để xe vách bằng gỗ. Dáng nhà rất cẩu thả, bê bối,
gần như bỏ
hoang. Smiley có ý nghĩ, nhà của đám nghệ sĩ. Fennan có vẻ không hợp
với nơi
này. Fennan phải là khu Hampstead và những cô gái ngoại quốc au-pair
[cặp đôi].
Anh nhắc
then ngang mở cánh cửa vườn, và bước chầm chậm theo lối đi, lên tới cửa
trước
căn nhà, cố gắng một cách vô ích nhận ra một dấu hiệu nào đó động đậy ở
phía
bên trong những cánh cửa sổ kính dầy, khung chì. Lạnh. Anh nhấn chuông.
Elsa Fennan
mở cửa.
“Họ có điện
thoại, liệu có phiền cho tôi không. Tôi cũng chẳng biết nói sao. Xin
mời…”
Giọng có tí
“Huệ” [tí Đức, sorry K/0]
Bà ta phải
hơn tuổi chồng, Một người đàn bà mảnh dẻ, có vẻ dữ dằn, ở quãng tuổi
năm mươi,
tóc cắt ngắn, nhuộm màu nicotine. Mặc dù mảnh dẻ nhưng đây là một con
người can
đảm, bền bỉ chịu đựng, và cặp mắt màu hạt dẻ, trên khuôn mặt nhỏ, ánh
lên một sự
mãnh liệt làm kinh ngạc người đối diện. Đây là một khuôn mặt đã chịu
đựng nhiều,
đã chán chường, già nua cằn cỗi đã từ lâu, khuôn mặt của một đứa trẻ
trưởng
thành trong nghèo đói, kiệt quệ, khuôn mặt đời đời tị nạn, một khuôn
mặt của trại
tù, Smiley nghĩ thầm.
Bà chìa tay
về phía Smiley – một bàn tay thật sạch sẽ, màu hồng, gầy tới tận xương
nếu chạm
vô. Smiley xưng tên của mình.
«Như vậy
ông là người đã phỏng vấn chồng tôi, » bà nói, « về sự trung thành ».
Bà dẫn
Smiley tới phòng khách, một căn phòng thấp, tối. Không có lửa. Bất
thình lình
Smiley cảm thấy bịnh, và rẻ mạt, thật dơ dáng. Trung thành với ai, với
cái đéo
gì?
[Hà, hà, lại
nhớ CM!].
Bà chủ nhà
chẳng tỏ ra thù nghịch. Mình là kẻ xâm lăng, gây hấn, Bắc Kít ăn hiếp
Nam Kít,
nhưng bà chấp nhận là 1 kẻ bị xâm lăng, bị ăn cướp.
“Tôi quí ông
chồng của bà nhiều lắm. Ông sẽ được minh oan.”
“Minh oan?
Minh oan về cái gì?”
“Có một cái
thư nặc danh, và vì những chứng cớ nguyên nhân đầu tiên như thế, một
cuộc điều
tra là bắt buộc. Tôi được trên giao việc đó”. Anh ngưng lời, nhìn bà
chủ nhà,
thực tình quan tâm, thông cảm. “Bà đã chịu một mất mát khủng khiếp. Bà
Fennan…
Bà hẳn là kiệt sức. Hẳn là bà suốt đêm không chợp mắt”.
Bà chủ nhà
chẳng thèm đáp ứng sự chân thành cảm thông của anh.
“Cám ơn ông,
nhưng tôi thật khó mà hy vọng hôm nay ngủ bù. Ngủ là 1 thứ xa xỉ mà tôi
không
thể hưởng thụ.” Bà buồn rầu nhìn xuống thân thể ốm nhom của mình. “Cơ
thể của
tôi và tôi phải chung lưng chịu đựng hai mươi giờ nữa, một ngày. Chúng
tôi đã sống
lâu hơn, so với đa số những người khác, từ lâu rồi.”
“Còn về sự mất
mát khủng khiếp, tôi nghĩ, đúng là như vậy. Nhưng thưa ông Smiley, đã
từ lâu
tôi chẳng sở hữu bất cứ thứ chi, ngoài chiếc bàn chải đánh răng, thành
thử tôi
thực sự không quen với chuyện sở hữu, ngay cả sau tám năm có gia đình.
Ngoài
ra, còn điều này, tôi có kinh nghiệm đau khổ một mình, chẳng cần phải
phô bày
ra cho người khác thấy, chẳng phàn nàn với bất cứ ai.”
Bà lấy đầu
ra dấu mời Smiley an tọa. Với một cử chỉ thật là cổ xưa, lỗi thời, thật
kỳ kỳ,
bà thu xếp ba nếp váy của mình, và ngồi xuống, đối diện với Smiley. Căn
phòng
thật lạnh. Similey ngần ngại, tự hỏi chính mình, có nên cất tiếng, anh
cũng
không dám nhìn bà, và chăm chú nhìn một cách mơ hồ phía trước mặt, cố
gắng một
cách thật tuyệt vọng, với ý nghĩ trong đầu, làm thế nào lặn sâu vào
được bộ mặt
rách nát, lang bạt, trôi nổi qua biết bao nơi chốn, của Elsa Fennan.
Như thế thật
lâu, trước khi bà ta lại cất tiếng nói:
“Ông nói,
ông rất quí mến chồng tôi. Nhưng tôi chẳng thấy như thế, nếu chỉ xét vẻ
bề
ngoài.”
Bọ Lập
La Peau
[Làn
Da]: Một cuốn tiểu thuyết-Trùm: Un Archi-Roman
Ghi
chú
trong ngày
Trong ba phê
bình gia phán về ST, thì cả ba đều có tí vấn đề ["lợn cợn" đúng hơn].
NVK, thực sự khó mà gọi là
1 nhà phê bình, biên khảo.
Nhận xét của phê bình gia NMG về ông, chỉ là 1 ông
quản thủ thư viện, sẵn sách đó, ông copy tưới và viết thêm vài câu,
thường là
khen, bất cứ 1 tác giả, và dán cái tên của mình vô.
NVK là 1 người thật tốt bụng,
và làm quản thủ thư viện, phán về ông như vậy là quá đúng, theo GCC.
Ông HNH thì
cũng có vấn đề. Một ông ở trong nước, được Mẽo WJC
cho tí tiền qua Mẽo chơi, và cũng… viết,
"miễn cho xong một sô", như PNH phán, thì
hay làm sao nổi, và làm sao đúng: Ông biết gì về văn học hải
ngoại?
Chê làm sao
được, như người ta nói, khách đến nhà mà lại chê chủ nhà thì láo quá!
Thành thử những
gì gì "hội nhập, hội nhiệc" ở nơi nhà văn ST, là nhảm cả, đừng có tin.
Còn NMG?
Ông này cũng có gì
lợn cợn.
Bị cái "ghét tô", là đám
Chống Cộng Điên Cuồng, xém tí nữa
xin
ông tí
huyết, nếu không xin lỗi chúng, làm sao mà ông không cần đến 1 ông ST,
nhà văn "hội nhập, thoát
ra ngoài lằn ranh,
thù hằn Quốc Cộng", như… ông?
Một nhà văn
được "người ta" chứa chấp trong nhà của người ta hàng mấy chục
năm trời, không chỉ một mình mà toàn thể gia đình, không phải 1 đời mà
còn dài dài nhiều đời, phán về cái đất nước chứa chấp ông và gia đình
ông, như ông nhà văn ST, liệu có thể coi là "hội nhập" không?
Hội nhập gì mà… vô ơn đến mức như thế?
Hay là lý do
là vì không nói được tiếng của người bản xứ, nên không có được cái nỗi
hạnh phúc,
bàng hoàng “không hội nhập”, như Loseff, ông bạn của Brodsky, qua Mẽo
30 năm mà
vẫn như ngày đầu:
“Bây
giờ, đã sống ở đó 30 năm, tôi đôi khi vẫn cảm thấy một sự phấn kích lạ
kỳ, mình
đó ư, nhìn đất lạ này, với cặp mắt của chính mình, ngửi cái mùi lạ như
là mùi của
mình, nói tiếng lạ như là tiếng của mình”.
LA
MORT DE
L'AUTEUR
Trang Thơ VHC
Sebald
The Gift
Mặc
dù sức khoẻ tồi tệ (bị tim quật lần đầu vào năm 1976), ông tránh được
cái chuyện
phải quan tâm đến vật chất, như nhiều người sau ông.
Nhưng ông không làm sao tránh được sự ghẻ lạnh, xa lánh, ngộ nhận. Ông
thất bại,
không nhận ra 1 điều là, những thay đổi xã hội làm cho thơ của ông rộn
ràng ở
Nga, đã ngăn chặn cũng thứ thơ đó, tại Mẽo. Viết về thế hệ của ông,
những người
Nga lý tưởng, ông đẩy đến đỉnh cao tuyệt hảo, bằng lời như sau đây:
May
mắn bị cắt hẳn ra khỏi thế giới còn lại, họ nghĩ, ít lắm, thì thế giới
cũng “cẩm”
như họ; bây giờ họ biết, thế giới có khác họ, chỉ ở điều này: họ ăn mặc
bảnh hơn
nhiều!
Trong
thập niên sau cùng, Brodsky vươn tới đỉnh cao tuyệt hảo: Ông được
trao Nobel văn chương vào năm 1987. Sau đó ông trải qua phần lớn đời
của ông
ở Ý, lấy 1 em gốc Nga và Ý, trở thành nhà thơ nhà nước Mẽo, dời về
Brooklyn. Năm
1993, bà xã sinh cho ông một bé gái, họ đặt tên là Anna.
Như
thường xuyên xẩy ra, vào những năm sau cùng của đời mình, Brodsky được
nhìn rõ
hơn, ở những khía cạnh: một tiểu luận gia, một nhà quảng bá, tuyên
truyền hơn là
một nhà thơ. Những tư tưởng của ông, về sự quan trọng đạo đức của thơ -
được thừa
hưởng từ những nhà thơ Thời kỳ Bạc, bao gồm Mandelstam. người chết vì
thơ của mình
– sau cùng trở thành cứng ngắc, biến thành giáo điều. Bài diễn văn
Nobel của ông
rao giảng, “mĩ là mẹ của đạo hạnh”, vân vân, và vân vân. Thơ thì bất
tử, ông phán:
“Rằng những gì được sáng tạo ra hôm nay, ở trong tiếng Nga, hay tiếng
Anh, thí
dụ, bảo đảm sự hiện hữu của những ngôn ngữ này trên dòng thời gian, tới
thiên
niên kỷ kế tiếp”. Nhưng điều này không đúng, như Brodsky sau cùng thừa
nhận,
trong một bài thơ muộn màng, lớn lao, và giận dữ, “Về Ngày Độc Lập
Ukraina”,
trong đó,
|
|