Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Hang Dong
Son
Cảnh đẹp VN
Books, arts and
culture
Prospero
Vietnam village orchestra
A bit of Brahms between
harvests
Nov 23rd 2011,
4:42 by H.C. | BAC GIANG
Một tí
Brahmas giữa những mùa gặt

Tớ chỉ là
anh làm ruộng, tớ đếch biết tiếng Anh
Thơ Mỗi Ngày
POETRY
READING
To be a
boxer, or not to be there
at all. O
Muse, where are our teeming crowds?
Twelve
people in the room, eight seats to spare-
it's time to
start this cultural affair.
Half came
inside because it started raining,
the rest are relatives. O Muse.
The women
here would love to rant and rave,
but that's for boxing. Here they must behave.
Dante's Inferno is ringside nowadays.
Likewise his
Paradise. O Muse.
Oh, not to
be a boxer but a poet,
one
sentenced to hard shelleying for life,
for lack of
muscles forced to show the world
the sonnet
that may make the high-school reading lists
with luck. O Muse,
O bobtailed
angel, Pegasus.
In the first
row, a sweet old man's soft snore:
he dreams his wife's alive again. What's
more,
she's making him that tart she used to bake.
Aflame, but carefully-don't
burn his cake! -
we start to read. O Muse.
Wistawa
Szymborska
Ðọc
Thơ
Là võ sĩ quyền Anh
Hay đếch thèm có mặt đó
Ôi Nàng Thơ, đám đông chật như nêm,
thính giả mê thơ của chúng ta đâu
rồi?
Mười hai mống trong phòng chia nhau tám chỗ ngồi
Ðã đến giờ khởi sự cái áp phe văn hoá này rồi đấy.
Một nửa chui vô phòng, vì trời bắt đầu mưa
Còn thì là bà con. Ôi Nàng Thơ ơi.
Mấy mụ đàn bà ưa huyênh hoang,
bốc phét
Nhưng đó là ở chỗ đấu quyền Anh.
Ở đây, họ phải bịt cái miệng lại.
Ðịa ngục Dante, đấu trường bây giờ
Thì cũng “cẩm” Thiên Ðàng của ông. Ôi Nàng Thơ.
Ôi, không phải võ sĩ, mà là thi
sĩ
Kẻ bị kết án suốt đời phải “hard
shelleying”
[GCC thua, không biết nghĩa là gì!]
Vì thiếu cơ bắp để trình ra cho thế giới
Bản sonnet có thể lọt vô danh sách dành cho học sinh trung học
Nếu may mắn lọt vô. Ôi Nàng Thơ,
Ôi thiên thần cụt đuôi, Pegasus.
Ở hàng đầu, một ông già dễ
thương nhẹ nhàng ngáy đều đều
Ông đang mơ bà vợ của mình sống lại.
Và hơn thế nữa
Bả sống lại và đang ở trong bếp, lui cui nướng bánh
Ðúng thứ bánh bông lan mà ông già thích ăn
Lửa bếp cháy hừng hực, ôi, coi chừng,
đừng làm cháy bánh bông lan
của ta!
Chúng ta khởi sự đọc thơ. Ôi nàng thơ.
RAINBOW
I returned
to Long Street with its dark
halo of
ancient grime-and to Karmelicka Street,
where
drunks with blue faces await
the
world's
end in delirium tremens
like the
anchorites of Antioch, and where
electric
trams tremble from excess time,
to my
youth, which didn't want
to wait
and
passed on, perished from long
fasting
and strict vigils, I returned to
black
side streets and used bookshops,
to
conspiracies concealing
affection
and treachery, to laziness,
to books,
to
boredom, to oblivion, to tea,
to death,
which took so many
and gave
no
one back,
to
Kazimierz, vacant district,
empty
even of lamentation,
to a city
of
rain, rats, and garbage,
to
childhood, which evaporated
like a
puddle gleaming with a rainbow of gasoline,
to the
university, still trying
clumsily
to seduce
yet another naive generation,
to a city
now selling
even its
own
walls, since it sold
its
fidelity
and honor long ago, to a city
I love mistrustfully and can offer nothing
except what I've forgotten and remember
except a poem, except life.
Adam
Zagajewski

The
destruction of someone's native land is as one with that person's
destruction.
Séparation becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new
homeland.
"Home is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it
remains lost himself, even if he has learned not to stumble about in
the
foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry
confesses, although he wants no more to do with that particular pays—in
this
connection he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma
aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini" ("When you've been
thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran commented, one
of
the most persistent symptoms of our yearning for security. "Toute
nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent. Même sous la
forme du regret, elle prend un caractère dynamique: on veut forcer le
passé,
agir rétroactivement, protester contre l'irréversible." To that extent,
Améry's homesickness was of course in line with a wish to revise
history.
Sebald viết
về Jean Améry: Chống Bất Phản Hồi: Against
The Irreversible.
[Sự huỷ diệt
quê nhà của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là
tan
hoang, là rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh
đất thời
thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng
thòng, là
ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry
thú nhận,
ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ
nói
giùm: 'Khi bạn bị người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác
cái mặt
mo trở lại' - thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai
dẳng nhất
của chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có
thằng cha
công an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là
một sự vượt
thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có
cái gì
hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành
động theo
kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm
trạng nhớ
nhà của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch
sử].
L'homme a
des endroits de son pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la
douleur
entre afin qu'ils soient.
Trái tim
đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau
thương tiến
vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.
W.G. Sebald
trích dẫn, làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và
Sự
Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the Heart: On
Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis, trong
"Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, On the natural
history of
destruction", nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.
… Weiss to
attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been
motivated before
the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has
its equivalent somewhere and
can be truly compensated for, even if it be through
the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche
thought was the basis of our sense of justice and which, he said,
"rests
on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the
concept
of law itself”…
W.G.
Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory
and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Note: Ðây có
lẽ là tác phẩm tuyệt vời nhất của W.G. Sebald.
Mấy lần đi giang hồ vặt, GCC đều
mang theo nó.
Thấy an tâm.
Thư tín:
Wednesday,
November 23, 2011 6:39 AM
Thấy bác
giới
thiệu (hâm mộ) về W.G. Sebald trên Tinvăn mà...thèm. Tiếc là sách của
ông toàn
tiếng Anh mà ở Việt Nam cũng khó mà lùng cho ra. Hơn nữa, ông còn là
một nhà
thơ, làm sao để tiếp cận được tác phẩm của ông, dù chỉ chút ít?
Vẫn luôn chờ
đợi các bài dịch thơ Adam Zagajewski, Simic... của bác!
Chúc bác khỏe
và vui luôn!
Kính mến
Phúc đáp:
Ða tạ.
“Hâm mộ” là
từ của 1 vị độc giả, rất mê W.G. Sebald. Trước giờ TV giới thiệu ông,
nhưng vẫn
đinh ninh chẳng ai thèm đọc! Một vị độc giả, 1 bạn văn VC rất thân của
Gấu,
quen nhân lần về HN, chẳng đã viết mail, rất ư bực bội, làm sao mà cứ
nhắc hoài
đến… Lò Thiêu, nó có liên can gì đến giống Mít?
Chính là nhờ
vị độc giả hâm mộ Sebald mà GCC mừng quá, nghĩ thầm vậy là không uổng
công mình
lèm bèm hoài về ông, và bèn lèm bèm tiếp!
V/v W.G
Sebald, thi sĩ.
Trên TV đã từng giới thiệu
Sebald, thi sĩ.
Bài trên Người
Kinh Tế giới thiệu cuốn sắp ra lò, mới tinh về ông.
Trong
khi chờ
đợi, chúng ta đọc đỡ ở đây:
Người ghi
chú cô đơn: The Solitary Notetaker.

Khi W.G.
Sebald mất vì tai nạn xe hơi vào Tháng Chạp 2001, ông được tưởng niệm,
như là một
trong những nhà văn lớn lao của thời chúng ta. Tuy nhiên, khi cuốn đầu
của ông,
Di Dân, được dịch ra tiếng Anh vào năm 1996, rất ít người bên ngoài
nước Đức biết
đến ông. Nhưng liền sau đó, ông được đón đọc, tác phẩm liên tiếp được
dịch, lẹ
làng, đến mức kinh ngạc.
Susan
Sontag đã từng tự hỏi, trên tờ TLS, liệu
"văn chương lớn" có còn không, và bà tự trả lời, còn chứ, Sebald đó.
Tuy nhiên, kể
từ khi ông mất, có nhiều cái nhìn khác nhau về ông. Lớn lao, số một,
giọng
không giống ai, vẫn đúng đấy, nhưng đọc kỹ hơn, gần hơn, nghe ra có
nhiều vay
mượn. Tác phẩm của ông, có thể nói, một nửa là do uyên bác, nửa còn
lại, là tưởng
tượng và kinh nghiệm của riêng ông.
Nếu có một
nhà văn vay mượn rất nhiều từ những nhà văn khác, nhưng vẫn là một thứ
đồ zin,
đồ xịn, thì đúng là Sebald.
Charles
Simic, trên NYRB điểm hai cuốn mới nhất của ông, Campo Santo, một thứ
tiểu luận,
và Unrecounted, gồm 33 bài
thơ nho nhỏ, của ông, và 33 bức họa, của Jan
Peter
Tripp.
Họa: Mỗi bức
là một đôi mắt, với sự chính xác, của hình chụp: Proust, Rembrandt,
Beckett,
Borges... Chủ đề của họa: Miệng thì tốt, để nói dối, trong khi mắt, khó
nói dối.
Bất cứ mắt đang mơ mộng, hay suy tư, chúng đều vọng một tí ti sự thực,
nào đó.
Dưới mỗi đôi mắt, là một bài thơ mini. Thí dụ, dưới cặp mắt của
Maurice, chú
chó của Sebald, là:
Please send
me
the brown
overcoat
from the
Rhine valley
in which at
one time
I used to
ramble the night.
[Hãy gửi cho
tôi
cái áo
choàng mầu nâu
từ thung
lũng sông Rhine
mà có lần
tôi mặc dạo đêm].
Thơ của ông
thực sự cũng khó mà gọi là thơ. Như nhà phê bình Andrea Kohler chỉ ra,
đó không
phải là ngụ ngôn, mà cũng chẳng phải thơ. Chỉ là những cú xổng chuồng,
thoáng
chốc, của tư tưởng, của hồi nhớ, những khoảnh khắc loé sáng, ở mép bờ
của cảm
nhận.
Và đây là một
bài thơ mini thật thú vị:
Người ta
nói,
Nã Phá Luân
mù mầu [color-blind]
Máu đối với
ông ta,
thì xanh như
lá cây.

Sài Gòn ăn tối

"In her
eyes, you could sense that there was something troubling her, something
not
quite right."
Haunting eyes and a
tattered garment
tell the plight of a girl who fled Afghanistan for a refugee camp in
Pakistan.
Afghan
Border, Pakistan | Steve McCurry | 1984
It was just
a quick portrait of a schoolgirl in an Afghan refugee camp. But this
photograph
by Steve McCurry is among the most powerful images in National
Geographic's
history. McCurry suggests that she captivates because of her look of
"hopeless beauty.”
"It's
clear that she's poor," he says. "Her
face is dirty; her garment is ripped; yet she has dignity and
confidence and
fortitude. In her eyes you could sense that there was something
troubling her,
something not quite right. She's seen more than she should at such a
young age.
Her village had been bombed and her relatives killed, and she'd had to
make
this two-week trek through the mountains to the refugee camp.”
Seventeen
years after making the portrait, McCurry returned to Afghanistan,
hoping to find
out whether the girl was
still alive-and to finally learn her name. Sharbat Gula, now a grown
woman, had
survived. "When we found her, we knew it was her,” he says. "They
wanted to do a check by examining a picture of the iris of her eye
against the
iris of the original picture, but we all knew it was her. The best part
was
being able to help make her life better. There was a school built in
Kabul
based on donations collected from that picture.”
Trong mắt của
cô bé có vẻ dò hỏi, có điều gì làm rộn cô, có điều gì không đúng, tại
sao mi
nhìn ta như thế, hình như mi muốn kiếm 1 cái gì đó ở nơi ta, hình như
mi lầm ta
với 1 cái gì đó...
Khi gặp BHD,
Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà
quê, thấp thoáng ở trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng
với
chiếc răng khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của
Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu,
và vừa đi
vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta
đời thuở
nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!
She's seen
more than she should at such a young age. Cô bé nhìn thấy nhiều hơn
nhiều so với
tuổi của cô.
Ui chao, đúng như thế. Thê thảm đúng như thế
Mi “THNM” rồi,
nhìn đâu cũng thấy VC!
Nếu không, thì là... BHD!
Hà, hà!
Rõ ràng là
cô bé nghèo. Mặt cô nhem nhuốc, quần áo tơi tả, tuy nhiên, có cái gọi
là phẩm hạnh,
sự tin tưởng….
Ui chao,
cũng vẫn là những dòng viết về BHD, lần đầu GCC gặp. Sau này, mỗi lần
nhớ, là
nhớ luôn câu nói tâm sự của Em, đi học chỉ có mỗi một cái áo dài trắng,
mấy đứa
bạn nói sau lưng, con bé này giả bộ, nhà nó giầu lắm...
Lần Gấu qua
Cali thăm bạn, một đấng phán, mày sướng thật, vì gặp được BHD. Không có
BHD, chắc
gì mày đã là mày?
Ố là là,
nghe sướng điên lên được!
Cảnh đẹp VN
Thơ
JHV
Người ghi
chú cô đơn: The Solitary Notetaker.

Jasper Johns
Trang giấy viết này ngửi như
mùi gỗ bào trong quan tài
Ui chao, đọc
1 phát, là nhớ bạn ta, tên thợ mộc Joseph Huỳnh Văn!
TTT 2011
The Gift
Không ngừng
cựa quậy, làm thợ được 6 tháng, nghỉ. Trong vòng 7 năm tiếp theo cho
tới khi bị
nhà nước tóm, ông làm việc ở 1 hải đăng [light-house], một phòng thí
nghiệm
crystallography, 1 nhà xác. Ông cũng đi lêu bêu, hút thuốc, và đọc
sách. Du lịch
lòng vòng Liên Xô, tham dự những cuộc thám hiểm địa chất, đào bới đất
nước tìm
dầu hôi, khoáng sản. Ðêm đêm, giữa những nhà địa chất ngồi quanh
một đống lửa, họ hát hỏng, đọc thơ, gẩy ghi ta. Ðọc 1 tập thơ về đề tài
địa
chất,
Brodsky tự nhủ thầm, nếu mình làm, chắc chắn sẽ khá hơn. Một trong
những bài thơ
đầu đời của ông, “Pilgrims” [những kẻ hành hương], chẳng mấy chốc trở
thành “top
hit” của lửa trại.
Trọn 1 đất nước
trở nên khùng vì thơ; nó trở thành trung tâm của 1 không khí của một
nước Nga, thời Băng Tan dưới sự trị vì của Khrushchev. Vào năm 1959,
như một nhắc
nhở quá khứ oai hùng, một bức tượng của Vladimir Mayakovsky được dựng
lên ở
trung tâm Moscow, và chẳng mấy chốc, đám trẻ tuổi quây quần quanh bức
tượng, đọc
thơ của chính họ. Vào đầu thập niên 1960 một nhóm nhà thơ khởi xướng
cái trò đọc
thơ, và có nhiều thính giả tham dự, tại Viện Bảo Tàng Polytechnic ở
Moscow,
tọa lạc chéo góc với Tổng Hành Dinh của KGB. Có 1 cuốn phim về 1 trong
những buổi
tụ tập như thế, và, chỉ là đọc thơ thôi, và toàn thứ thơ tự phát, bán
chính thức,
tất nhiên dở òm, nhưng không khí như bị điện giật!
Một đám đông tụ tập, và trước
đám đông, là 1 ông tướng cà chớn nào đó, đang lèm bèm về mình: đó là
cái mới [đúng
ý Thầy Cuốc nhe!]
Ðường phố
Leningrad cà mèng, nhưng Brodsky và mấy đấng bạn thân - Bobyshev, Anatoly Naiman, và Evgeny Rein, “dàn
đồng ca thần kỳ” – tóm lấy
chúng mỗi khi dịp. Bobyshev, trong hồi ký của mình nhớ lại,
Brodsky kéo anh
tới mép bờ của thành phố để anh ta có thể đọc thơ cho vài nhóm sinh
viên. Bobyshev bỏ cuộc vui sớm nhất.
Nếu nói về
thơ ca “mà thôi”, thì, như Loseff phán, 1 cách tin tưởng, những bài thơ
hồi đầu
- trước khi Brodsky bị bắt – không đều, thất thường, đôi khi đi trật
đường rầy,
chạy hoang, theo cái kiểu, thơ “phát sinh ra” từ thơ, chứ không phải
đích thị là
thơ [derivative]. Nhưng ngay từ khởi đầu, Brodsky là 1 trong số họ,
viết một cách tâm sự, vậy mà đọc thì lại có cảm tưởng, nhà thơ đang
miêu tả một hiện tượng toàn xã hội. Những bài thơ thì lãng mạn, mỉa
mai, đương
thời [nhưng không cố tình miêu tả]. Có sự kéo dài dòng thơ Eliot, và có
cảm giác
ngạc nhiên khi nhịp thơ, thể thơ được gìn giữ, rõ ràng có ảnh hưởng của
những
nhà thơ siêu hình Anh, khi họ lồng tình yêu thơ ca với những băn khoăn
siêu hình,
triết học – trong trường hợp Brodsky, luôn lèm bèm về thời gian và
không gian.
Tìm những kẻ tương đương, đồng hạng trong tiếng Anh,
Robert Hass viết, thơ Brodsky nghe “như Robert
Lowell khi mà Lowell thì
nghe như Byron.” Như là 1 hình tượng
văn hóa Nga, thì Brodsky có thể so sánh với Allen Ginsberg (với ông
này, sau này
Brodsky đã từng kéo nhau đi shopping, mua sắm quần áo cũ, ở New
York. “Allen mua 1 cái tuxedo jacket 5 đô", Brodky kể cho Loseff, và
ông này ngạc
nhiên tại sao 1 tay beatnik mà lại cần 1 bộ đồ vía]. Với Ginsberg và
bạn
bè của ông, tự do có nghĩa phá vỡ biên cương, lề luật của dòng thơ
truyền thống;
với Brodsky và bạn bè thì lại là tái lập truyền thống bị Xì Ta Lỉn cố
gắng huỷ
diệt, biến thành hư vô. Brodsdy có thể
kiếm ra những cách gây ngạc nhiên để làm điều trên, mà chẳng có tí cố
gắng cực
nhọc nào cả, và luôn luôn giữ được vẻ dửng dưng, nhẹ nhàng. Những bài
thơ đầu đời của ông miêu tả một tay
kể chuyện đi bộ về nhà từ ga xe lửa, đi lòng vòng những nơi chốn của
một thành
phố Leningrad cổ vẫn ám ảnh anh ta, hay là
kẻ thứ ba
của 1 cặp đang cãi lộn, gầm gừ lẫn nhau, và nghĩ về mình, chắc là
đừng dính vào em nào, độc thân là hay nhất; bài thơ này nhan đề “Dear D. B.,” Dmitry
Bobyshev, khi đó đang lục đục với bà vợ.
Loseff mô
tả
lần đầu anh nghe Brodsky đọc thơ. Ðó là vào năm 1961. Trước đó ít lâu,
một người
nào đó đưa cho anh một xấp thơ của Brodsky, nhưng đánh máy thật khó đọc
[bản thảo
thơ dưới hầm, thơ chui thường được đánh máy hai ba tờ cùng 1 lượt], và
Loseff
không khoái những dòng thơ lộn xộn như thế. Tôi tìm cách chuồn, anh nhớ
lại. Nhưng
lần đó, cả đám chọn ngay căn phòng của vợ chồng ở để mà đọc thơ, thế là
thua.
Anh bắt dầu đọc bài ballad dài của anh, “Hills,” và Loseff sững sờ:
“Tôi nhận
ra chúng là những bài thơ mà tôi mơ tưởng mình sẽ viết ra được, ngay cả
chưa từng
bao giờ biết đến chúng…. Như thể 1 cánh cửa được mở bung ra một không
gian mở rộng,
một không gian chúng tôi chưa từng biết, hay nghe nói đến. Chúng tôi
chẳng hề có
1 ý nghĩ, hay tư tưởng, về thơ Nga, ngôn ngữ Nga,
ý thức Nga lại có thể chứa đụng những không
gian như thế.”
Nhiều người
cũng cảm thấy như vậy, khi đọc thơ Brodsky. Một người bạn bị KGB tóm,
nhớ lại
là khi bị chúng hỏi về Brodsky, đã thành khẩn cung khai, trong số tất
cả những
nhà thơ mà anh ta biết, thì Brosky thể nào cũng có ngày ẵm Nobel văn
chương!
Ðó
là 1 thời mà dân Nga đẫm mình trong hào quang ngày mai tươi sáng, chúng
ta thể
nào cũng xây dựng được cái nhà Nga to bằng năm bằng mười khi đánh chết
cha
lũ Mỹ Ngụy, hà hà, và một người nào đó phải ôm lấy tất cả những nghị
lực, những
hy vọng lớn lao, và một người nào đó, là… Brodsky!
[Ui chao, lại
nghĩ đến cái thời kỳ huy hoàng tương tự của cả Miền Nam ngay sau 30
Tháng Tư
1975. GCC khi đó ở trong tù VC, nghe “Con Kinh Ta Ðào” mà nước mắt dàn
dụa vì hạnh
phúc, “thúi” đến như thế, ”sướng” đến như thế!]
Ðiều quan trọng
là thơ của Brodsky thì đương thời và địa phương [contemporary and
local]. Và cũng
còn quan trọng, là, như món nợ đối với chủ nghĩa hiện đại Anh - Mỹ,
chúng [những
bài thơ của Brodsky] nối kết một nhóm nhỏ của những nhà thơ Leningrad
với thế
giới lớn lao.
Kỷ niệm
100 năm sinh của Milosz
Tưởng Niệm
Czeslaw Milosz [1911-2004]
Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Adam Zagajewski
Ông là nhà
thơ của thông minh lớn và tuyệt cảm lớn [a poet of ‘great intelligence
and
great ecstasy’]; thơ của ông sẽ không thể sống sót nếu thiếu hai món
này. Thiếu
thông minh, là sẽ rớt vào trò cãi tay đôi với một trong những đối thủ
này nọ, rồi
cứ thế mà tủn mủn, tàn tạ đi [bởi vì, những con quỉ của thế kỷ 20 này,
chúng
đâu có thiếu khả năng biện chứng, chẳng những thế, chúng còn tự hào về
những
“biện chứng pháp” duy này duy nọ…]. Thiếu tuyệt cảm, làm sao vươn tới
được những ngọn đỉnh trời? Thiếu nó, là sẽ
chỉ suốt đời
làm một anh ký giả tuyệt vời! Ông tự gọi mình là một tay bi quan tuyệt
cảm
[ecstatic pessimist], nhưng chúng ta cũng sẽ vấp vào những hòn đảo nho
nhỏ của
sự tuyệt cảm mà Bergson coi đây là dấu
hiệu khi chạm tới được một sự thực nội tại.
Vào thời đại
của Beckett, một nhà văn lớn lao, dí dỏm, và cũng rất ư là sầu muộn,
Milosz bảo
vệ chiều hướng tông giáo của kinh nghiệm của chúng ta, bảo vệ quyền
được vuơn tới
cõi vô cùng của chúng ta. Bức điện tín của Nietzsche, thông báo cho
những con
người ở Âu Châu, rằng Thượng Đế đã chết, bức điện đã tới tay Milosz,
nhưng ông
không từ chối ký nhận, và cứ thế gửi trả cho người gửi.
Cali 8, 2011
NGUYỄN LƯƠNG
VỴ
HỐT NHIÊN
Gửi Nguyễn
Đình Thuần
Màu gọi màu
như anh gọi em
Tường hoang
rịn nắng nhớ lưng mềm
Một đêm hư vắng
chìm sương khói
Gió thoảng
hiên ngoài hư vắng thêm
Màu gọi màu
giây phút gọi nhau
Dẫu tàn phai
chất ngất thương đau
Vẫn em xanh
thẳm trong tà nguyệt
Đâu biết xa
vời rợn bể dâu
Màu gọi màu
nhan sắc gọi tên
Nhói trong
tinh thể tím vang rền
Lóng xương
vũ trụ rung đường nét
Đỏ hết càn
khôn trong một đêm
Màu gọi màu ảo
hóa gọi ma
Vàng thu xưa
ứa nguyệt quê nhà
Ứa thêm nhan
sắc ngàn sông mộ
Nhấp nháy
môi đèn ánh lửa xa…
10/2006

Màu gọi màu
như anh gọi em
Tường hoang
rịn nắng nhớ lưng mềm
Một đêm hư vắng
chìm sương khói
Gió thoảng
hiên ngoài hư vắng thêm
[Thuần &
Hương @ Tiểu Sài Gòn]
Ghi
chú
trong ngày
Simon
Wiesenthal, Vienna, 1975
The Day of the Hunter
December 8, 2011
Louis Begley
In the late
Sixties, Wiesenthal wrote about an incident that took place when he was
imprisoned in the Janowska concentration camp. Sent with other
prisoners to
Lwów on a labor detail, he was put to work moving heavy equipment in
the
courtyard of the technical university, which had been converted into a
military
hospital for wounded German soldiers. A German nurse insisted that
Wiesenthal
follow her upstairs and left him alone in a room with a shape lying on
the bed
that turned out to be a German soldier wrapped from head to toe in
bandages.
The soldier
asked whether Wiesenthal was a Jew, and when Wiesenthal said yes, the
soldier
went on to tell him that he was a member of the SS and that his unit
had
participated in an atrocity—setting fire to Jews packed into a house—in
a
village in Ukraine. He asked Wiesenthal to forgive him so that he might
die in
peace. After a pause for reflection, Wiesenthal left the room without a
word.
Having written
the story, Wiesenthal asked a number of prominent people whether they
thought
that what he had done was morally right. Many of them replied,
including Hannah
Arendt, Günter Grass, Charlie Chaplin, Primo Levi, and Arthur Miller.
Subsequently he published the story in a book, The Sunflower (1969),
including
in it his correspondents’ replies to his question as well as letters of
those
who did not choose to reply to the question and explained their
reasons. (17)
The book was
his third best seller, and it became a textbook used in many schools.
Wiesenthal never deviated from his original insistence that the story
was true.
But many doubts have been voiced about its authenticity, particularly
the
improbability of a Jewish prisoner appearing at the bedside of a
severely
wounded SS man. Authentic or not, the story goes to the core of
Wiesenthal’s
Nazi-hunting enterprise.
Segev quotes
a letter from Eva Dukes, an Austrian-American woman with whom
Wiesenthal had a
long relationship, in which she wrote about the wounded soldier:
You could
almost have forgiven him, and as your suffering proves, you were closer
to
doing so than you realized then. It was largely your guilt toward your
comrades
and toward the dead that held you back, the dread of disloyalty.
Apparently you
were close to feeling, although incapable of saying, “Yes I forgive
you.”
If
Wiesenthal had forgiven the man, Segev believes, he might have been
able to
forgive himself, “and perhaps he would have shaken off the grip of the
Holocaust that pursued him even more relentlessly than he pursued
others…. He,
who always tried to prevent the innocent from being punished, punished
himself
for a crime he didn’t commit.” Segev seems to believe that the crime
was his having
suffered, because of the decency of the two good Germans, considerably
less
than many other prisoners, indeed owing his life to those Germans.
Perhaps that
was one of Wiesenthal’s great sorrows; but it’s worth noting that like
the
survivors of other great catastrophes, Holocaust survivors are apt to
be
afflicted by feelings of guilt when they remember those around them who
seemed
more deserving but were lost. It is unlikely that Wiesenthal would have
purged
himself of that guilt by absolving the SS man of guilt for a crime that
could
have been forgiven only by his unit’s victims, and they, of course,
were dead.
17. Simon
Wiesenthal, The Sunflower: On the Possibilities and Limits of
Forgiveness (Schocken, 1997), originally published as Die Sonnenblume (Paris: Opera
Mundi,
1969).
Tưởng niệm Simon Wiesenthal
1908 - 2005
"The bad conscience of Nazis", (1) như ông tự nhận.
Săn lùng Nazi, không phải là để
trả thù, mà là vì công lý, và đây
là cả cuộc đời của ông. Tuyệt hơn nữa, phần thưởng quí giá mà ông nhận
được, là
khám phá ra, và nhờ đó, nhân loại được hưởng ké, đời văn, literary
life,
của Anne Frank.
Và đây cũng là cuộc đời độc nhất mà Anne Frank, nhờ ông mà có được.
Ngày hôm qua, Wiesenthal mất
trong khi ngủ, tại Vienna, thọ 96 tuổi. Anne Frank
mất vào tháng Ba, năm 1945, vì bịnh chấy rận, tại Trại Tập Trung, Lò
Thiêu Nazi
Bergen-Belsen, hưởng dương 15 tuổi.
[Toronto Star, Sept 21, 2005].
"To young people here, I am the last," he told an interviewer in
Vienna in 1993. "I'm the one who can still speak. After me, it's
history."
"Với lớp trẻ ở đây, tôi là kẻ sau cùng," ông trả lời phỏng vấn.
"Tôi là kẻ còn đang nói. Sau tôi, là lịch sử"
[NY Times, Sept 21, 2005]
(1) Lương tâm tự vấn của những
Nazis.
Thông Điệp Của Anne
Frank
Tôi muốn nhân dịp này để làm
sáng tỏ một điều vẫn thường được hiểu
sai. Người ta thường nói Anne biểu tượng sáu triệu nạn nhân Lò Thiêu
(Anne
symbolizes the six millions victims of the Holocaust). Tôi nghĩ một
phát biểu
như vậy là không đúng. Cuộc đời và cái chết của Anne, là của riêng cô:
một số mệnh
cá nhân; một số phận cá nhân đã xẩy ra sáu triệu lần. Anne không thể,
và không
nên để cho cô đứng đại diện cho biết bao nhiêu cá nhân con người mà đám
Nazi đã
lấy đi mạng sống của họ. Mỗi nạn nhân có một chỗ đứng độc nhất của
riêng họ ở
trên thế giới, và trong trái tim của thân quyến và bạn bè của người đó.
Anne Frank: Một ghi
nhận
Có thể một tên
thợ máy Bưu Ðiện dịch trật chẳng sao, nhưng 1 vị
tiến sĩ mà dịch trật thì cũng hơi chuế!
Một vị tiến
sĩ mà có những lầm lẫn rất ư là ấu trĩ,
“lệch pha” là “tiếng lóng”, điều này chứng tỏ kiến thức phổ thông, sơ
đẳng, thua
1 đứa học sinh trung học. Ở Miền Nam trước 1975, học sinh trung
học đã rất
rành về điện xoay chiều; điện hai pha, hai dây nóng, một dây lạnh, là
điện dùng
trong nhà, điện ba pha, ba dây nóng, là điện kỹ nghệ. Và hiện tượng
lệch pha. Pha,
từ "phase", Hoàng Xuân Hãn, trong danh từ khoa học, dịch là “vị tướng”
[?], nhưng sau này Mít dùng luôn "pha" tiện lợi hơn nhiều so với danh
từ có gốc tiếng Hán.
“Roland Barthes, một người được xem là cấu
trúc luận...”:
Viết như thế thì cũng như phán, Bác Hồ là chủ nghĩa CS, [“lầm” con
người với 1
chủ nghĩa, học thuyết],
và bây giờ, 1 câu tiếng Anh dịch không nên thân,
vậy mà cao miệng phán, cả 1 nước Mít mù chữ,
làm sao VC nó không đá đít ra khỏi cả hai cửa khẩu Sài Gòn và Hà Nội?
Roland
Barthes, một người
được xem là cấu trúc luận ở cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960
và là hậu
cấu trúc luận từ cuối thập niên 60 về sau, xem mọi văn bản đều chỉ là
một không
gian trong đó có vô số các văn bản đan xen nhau, hoà trộn với nhau, và
không có
yếu tố nào là thực sự độc sáng cả.
NHQ
Ngay cái câu
tiếng Việt của
ông mà TV trích, trên, viết cũng không nên thân. Cả 1 đoạn giới thiệu
Barthes,
chỉ để đưa ra một trích dẫn chẳng liên quan gì đến những lời giới thiệu
đao to
búa lớn về ông. Cấu trúc câu văn như thế đúng là lệch pha! Tiếng Việt
rất khó, đừng
có tưởng bở. Câu trên, nên viết, thí dụ:
Trong “Cái chết của tác
giả”, RB, [một
nhà cấu trúc luận… ], viết, mọi văn bản
đều chỉ là một không
gian trong đó có vô số các văn bản đan xen nhau, hoà trộn với nhau, và
không có
yếu tố nào là thực sự độc sáng cả.
*
Câu tiếng
Anh trên, [We know now
that a text consists not of a line of words, releasing a single
"theological" meaning (the "message" of the Author-God),
but of a multi-dimensional space in which are married and contested
several
writings, none of which is original: the text is a fabric of
quotations,
resulting from a thousand sources of culture.] theo GCC,
không khó, với chỉ 1
người
khả năng tiếng Anh trung bình.
Ðiều này chứng tỏ Thầy
Cuốc không thể nào đọc nổi rất nhiều
tác giả mà ông nhắc tên, và tác phẩm.
Ðây là trò trộ thiên hạ.
Bịp, đúng hơn.
Chứng
cớ:
Trong
1 bài viết của Thầy Cuốc, những câu
Thầy trích dẫn, và đi 1 đường
tiểu chú, không câu nào
có nguyên tác tiếng mũi lõ cả!
1.
“Không
có nhà thơ nào,
không có nghệ sĩ thuộc bất kỳ ngành nghệ thuật nào, có thể tự mình có ý
nghĩa.
Ý nghĩa của họ, sự hân thưởng của họ là sự hân thưởng về quan hệ giữa
họ với
những nhà thơ và những nghệ sĩ đã chết. Anh không thể đánh giá họ [ở
trạng thái
cô lập] một mình; anh phải đặt họ trong quan hệ so sánh và đối chiếu
với những
người đã quá cố.” (3)
Tiểu
chú:
(3) T.S. Eliot,
"Tradition and the
Individual Talent" in lại trong tập 20th Century Literary
Criticism, a
Reader, do David Lodge biên tập, Longman xb, London, 1972, tr.
72.
2.
E.
Pound nhận xét:
"Không có bài thơ hay nào từng được viết trong một cách thức đã có từ
hai
chục năm trước." (4)
Tiểu chú:
(4) Dẫn theo
Timothy Steele trong cuốn Missing Measures: Modern Poetry and the
Revolt agaisnt
Meter do The University of Arkansas Press xuất bản tại Fayetteville năm
1990,
tr. 246.
[Từ against
Thầy viết trật!]
Thú thực, đọc
mấy câu tiếng Mít của Thày Cuốc, GCC tò
mò muốn biết câu tiếng Anh nó ra làm sao, vì đọc thấy kỳ quá, thí dụ,
câu của
Eliot:
“Không có nhà thơ nào, không có
nghệ sĩ thuộc
bất kỳ ngành nghệ thuật nào, có thể tự mình có ý nghĩa. Ý nghĩa của họ,
sự hân
thưởng của họ là sự hân thưởng về quan hệ giữa họ với những nhà thơ và
những
nghệ sĩ đã chết. Anh không thể đánh giá họ [ở trạng thái cô lập] một
mình; anh
phải đặt họ trong quan hệ so sánh và đối chiếu với những người đã quá
cố.” (3)
“Không có nhà thơ nào,
không có nghệ sĩ thuộc
bất kỳ ngành nghệ thuật nào, có thể tự mình có ý nghĩa.. “: Khúc này
không chỉnh,
tại làm sao lại chỉ lọc ra “nhà thơ “, so với tất cả các nghệ sĩ thuộc
bất kỳ
ngành nghệ thuật nào?
Hân thưởng
là cái quái gì?
Tự mình có ý
nghĩa?
Câu của Pound cũng căng.
Thí dụ, 1 bài lục bát mới tinh, tức là được viết bằng 1 cách thức có
từ... bốn ngàn năm văn hiến, thì không thể nào... hay được?
Bởi thế,
giấu
nguyên tác, kẹt lắm!
*
Theo GCC,
bắt
buộc bạn phải ghi nguyên tác, vì, ngay cả khi bạn dịch đúng, thì cũng
chưa chắc,
câu dịch của bạn… hay!
Ðây
là vấn nạn
được 1 tay phóng viên hỏi Bolano, và cũng
là vấn nạn mà bà LTH đã từng nêu lên, khi phán, cái thằng cha Nobel năm
nay, nhà
thơ gì gì đó, tôi đếch thèm biết đến, đối với tôi, lẫy lừng nhất trong
nước là
bà YB, hàng đầu, vượt trội, số 1 hải ngoại, là, là… toàn gà của diễn
đàn do bà
làm nữ soái không à!
"LITERATURE
IS NOT MADE FROM WORDS ALONE"
INTERVIEW BY
HECTOR SOTO AND MATIAS BRAVO
FIRST
PUBLISHED IN CAPITAL, SANTIAGO, DECEMBER 1999
Phóng viên:
Thật là bực
mình khi nghĩ rằng chúng ta đọc rất nhiều những vị thần của chúng ta
(James,
Stendhal, Proust), qua bản dịch, qua những... xái xảm? Ðó là văn chương
ư? Nếu
chúng ta lèm bèm hoài về vấn đề này, liệu có thể đưa đến kết luận: từ
ngữ không
có một đồng đẳng, ngang hàng?
Bolano:
Tôi nghĩ,
có. Hơn nữa, văn chương đâu chỉ làm bằng từ ngữ không thôi. Borges
phán, có những
nhà văn không thể dịch được. Tôi nghĩ ông ta coi Quevedo như là 1 thí
dụ. Chúng ta có thể thêm vô Garcia Lorca
và những
người khác. Tuy nhiên, Don Quixote có thể cưỡng lại ngay cả những đấng
dịch giả
tồi tệ nhất. Như là 1 sự kiện, nó có thể cưỡng lại tùng xẻo, mất mát
nhiều
trang, và ngay cả một trận bão khốn kiếp. Nghĩa là, nó cưỡng lại mọi
thứ ở trên
đời chống lại nó - dịch dở, không đầy đủ, hay huỷ diệt - bất cứ một bản
văn Don
Quixote nào vẫn có nhiều điều để mà nói ra, với một độc giả Trung Hoa,
hay Phi
Châu. Và đó là văn chương. Chúng ta có thể mất mát rất nhiều ở dọc
đường, chắc
chắn như thế, nhưng đó là định mệnh của nó. Có còn hơn không, thì cứ
nói như vậy
có tiện việc sổ sách.
Nguồn
Varga Llosa,
khi được Nobel đã quá mừng, và tuyên bố, bây giờ tôi là nhà văn của thế
giới rồi,
theo nghĩa, văn của ông vượt qua được cửa ải màu da, bất cứ giống dân
nào, đọc ông,
thì đều nghĩ, ông là người cùng máu mủ, cùng màu da với họ, như Sến Cô
Nương phán,
Cáp Ca là 1 tên Mít. Isaac
Bashevis Singer
cũng đã từng phán như thế về Dos,
nhớ đại khái,
lần đầu đọc ông rậm râu này, là tôi nghĩ ông ta phải là người nước tôi.
Trong Wellsprings,
viết vào lúc gần cuối đời của
mình, nhằm vinh danh những vị thầy và tác phẩm của họ đã từng ảnh hưởng
lên ông,
Vargas Llosa, trong bài viết về Borges, cho biết, với Borges, lũ nhà
văn da trắng quả là số 1, và đúng là
những vị
thần của đám da màu
THE FICTIONS
OF BORGES
…
No body of
literary work, however rich and accomplished it may be, is without its
dark
side. In the case of Borges, his writing sometimes suffers from a
certain
cultural ethnocentricity. The black, the Indian, the primitive often
appear in
his stories as inferiors, wallowing in a state of barbarity apparently
unconnected either to the accidents of history or to society but
inherent in
their race or cultural status. They represent a lower humanity shut off
from
what Borges considered the greatest of all human qualities: intellect
and
literary refinement. None of this is explicitly stated, and doubtless
it was
not even conscious; rather, it shows through in the slant of a certain
sentence, or in his depiction of a particular form of behavior.
[Không có 1 cái "body" tác
phẩm văn học nào, dù giầu có, dù hoàn tất
cách mấy, mà không có cái phần u tối của nó. Trong trường hợp Borges,
những bản
văn của ông quả có tí mặc cảm màu da, “đôi khi” nhức nhối vì cái gọi là
quy tâm
văn hóa liên quan đến sắc dân, màu da. Ðám Ðen, đám Ðỏ, đám Da Vàng Mũi
Tẹt thì
đều thấp kém, hèn hạ, luôn đằm mình trong cái ao bùn man rợ, hoàn toàn
mù tịt
trước những thay đổi của lịch sử, nhưng lại rất hãnh diện về cái ao nhà
đã quen…. Họ đại diện cho một thứ nhân loại thấp kém,
bị gạt hẳn ra khỏi những điều mà Borges gọi là những cái vĩ đại nhất
của phẩm
chất của nhân loại….]
For Borges,
as for T. S. Eliot, Giovanni Papini, and Pio Baroja, civilization could
only be
Western, urban, and almost-almost-white. The East survives, but only as
an
appendage-as it has come down to us through the filter of European
translations
of Chinese, Persian, Japanese, or Arabic originals. The native Indian
and
African cultures that form part of Latin America are featured in
Borges' world
more as contrasts with the West's superiority than as varieties of a
shared
humanity. Perhaps this is because they were a small presence in the
milieu
where he lived most of his life. This myopia does not detract from
Borges' many
admirable qualities, but it is best not to sidestep this limitation
when giving
a comprehensive appraisal of his work. Certainly it offers further
proof of his
humanity, since, as has been said over and over again, no such thing as
absolute perfection exists in this world-not even in the work of a
creative
artist like Borges, who comes as close as anyone to achieving it.
Thảo nào bà
LTH bực: Mít phải số 1 chứ!
Gấu cũng nghĩ Mít số 1, nhưng đó là nhờ Cái Ác Bắc Kít.
Nhân loại chẳng đã từng mơ, sáng ngủ dậy thấy biến thành Bắc Kít?
|
|