Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Thu
2011
Lần
Cuối Sài
Gòn
Thơ Mỗi Ngày
A BIRD SINGS
IN THE EVENING
TO LILLIE
ROBERTSON
Above the
vast city, plunged in darkness,
breathing slowly, as if its earth were
scorched,
you, who sang once for Homer
and for
Cromwell, maybe even
over Joan of
Arc's gray ashes,
you raise
your sweet lament again,
your bright keening; no one hears you,
only in the
lilac's black leaves, where
unseen artists hide,
a
nightingale stirred, a little envious.
No one hears
you, the city is in mourning
for its splendid days, days of greatness, when it
too could grieve
in an almost
human voice.
Một con chím
hót vào buổi chiều
Bên trên thành
phố rộng
Chìm vào bóng
tối
Thở chầm chậm,
như thể trái đất của nó bị huỷ diệt
Mi, đã từng
hát một lần cho Homer
Và cho
Cromwell, và còn có thể khóc
Trên mớ tro
xám của Joan of Arc
Mi lại cất lên
giọng than thở ngọt ngào của mi
Tiếng kèn đám ma
sáng ngời của mi; chẳng ai nghe
Chỉ trong những
chiếc lá lilac đen,
Nơi những
nghệ sĩ chẳng ai nhìn thấy, ẩn nấp
Một con sơn
ca khích động, hơi thèm thuồng
Chẳng ai
nghe mi, thành phố đang tưởng niệm
Những ngày
tuyệt vời, chói lọi của nó,
Những ngày vinh quang 30 năm mới có của nó.
Khi nó, cũng
có thể đau thương,
Trong một giọng hầu như giọng người
POETRY
SEARCHES FOR RADIANCE
Poetry
searches for radiance,
poetry is the kingly road
that leads
us farthest.
We seek
radiance in a gray hour,
at noon or
in the chimneys of the dawn,
even on a bus, in November,
while an old
priest nods beside us.
The waiter
in a Chinese restaurant bursts into tears
and no one can think why.
Who knows,
this may also be a quest,
like that moment at the seashore,
when a
predatory ship appeared on the horizon
and stopped short, held still for a long
while.
And also moments of deep joy
and
countless moments of anxiety.
Let me see, I ask.
Let me
persist, I say.
A cold rain
falls at night.
In the
streets and avenues of my city
quiet darkness is hard at work.
Poetry searches
for radiance.
Adam Zagajewski
Thơ tìm sự tỏa
sáng
Thơ tìm sự tỏa sáng
Thơ là con
đường vương giả
Dẫn chúng ta xa tít mù.
Chúng ta tìm
sự toả sáng trong cái giờ xám xịt
Vào lúc trưa,
hay ở những ống khói vào lúc sớm tinh mơ
Ngay cả ở trên
xe buýt, vào Tháng Chạp này
Khi một đấng
tu sĩ già ngồi kế bên gật gà gật gù cái đầu
Tay bồi bàn
trong tiệm ăn Tầu bật khóc
Và chẳng ai
có thể nghĩ tại sao.
Ai mà biết
được, đây có thể là 1 cuộc tìm kiếm,
Như khoảnh
khắc ở bờ biển
Khi con tầu ăn
mồi sống xuất hiện nơi chân trời
Con tầu bỗng
ngưng, và cứ ngưng như thế trong một lúc lâu.
Hay những
khoảnh khắc cực vui, cực sướng
Và những khoảnh
khắc không làm sao đếm được
Của âu lo, sao xuyến, nóng nảy.
Ðể tôi coi,
tôi hỏi
Ðể tôi khăng
khăng năn nỉ, tôi nói.
Một cơn mưa
lạnh sẽ tới vào đêm.
Trong những
con phố, những đại lộ của thành phố của tôi
Bóng tối lặng
lẽ trân mình làm việc.
Thơ tìm sự tỏa
sáng.
Thơ
JHV
Thủ bút JHV
TTT 2011
Kỷ niệm
100 năm sinh của Milosz
Czeslaw
Milosz
The Nobel
Prize in Literature 1980 was awarded to Czeslaw Milosz "who
with uncompromising clear-sightedness voices man's exposed
condition in a world of severe conflicts".
Giải Nobel văn
chương 1980 được trao cho Czeslaw Milosz “người mà, bằng cái nhìn rạch
ròi, cương
quyết, không khoan nhượng, gióng lên phận người bày ra đấy, trong một
thế giới
với những mâu thuẫn gay go, khốc liệt”.
Một
trong những người được Noebel mà tôi đọc khi còn là 1 đứa con nít đã
ảnh hưởng
đậm lên tôi, tới cả những quan niệm về thơ ca. Ðó là Selma Lagerlöf.
Cuốn sách
thần kỳ của bà, Cuộc phiêu lưu trên
lưng ngỗng mà tôi thật mê, đã đặt
anh cu
Nils vào một vai kép. Anh cu Nils bay trên lưng ngỗng nhìn Trái Ðất như
từ bên
trên, và cùng lúc, trong mọi chi tiết. Cái nhìn kép này có thể là 1 ẩn
dụ về
thiên hướng của nhà thơ. Tôi tìm thấy 1 ẩn dụ tương tự ở trong một ode
La Tinh,
của nhà thơ thế kỷ 17, Maciej Sarbiewski, người được cả Âu Châu biết
dưới bút
hiệu Casimire. Ông dạy thơ ở đại học của tôi. Trong 1 bài ode, ông miêu
tả cuộc
du lịch của mình - ở trên lưng Pegasus, từ Vilno tới Antwerp, thăm bạn
thơ của ông.
Như Nils Holgersson, ông ôm bên dưới ông, sông, hồ, rừng, nghĩa là 1
cái bản đồ,
vừa xa nhưng lại vừa cụ thể.
Như
thế, thì đây là hai bí kíp của nhà thơ: đói nhìn và đói, ham muốn miêu tả cái
nhìn thấy. Tuy nhiên, kẻ nào coi thơ ca là “nhìn và miêu tả”, thì phải
coi chừng, vì thể nào cũng có lần cãi
lộn với... Thầy Kuốc, người vỗ ngực xưng tên là “Hiện Ðại”, “Cái
Mới”, và thể nào
cũng mụ người, trở thành cù lần vì muôn vàn
lý thuyết về 1 ngôn ngữ thi ca đặc dị.
Simone Weil
mà tôi mang nợ rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là
linh hồn của
cái đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả.
Tôi là Ðứa bé của Âu châu,
như cái tít của 1
trong những bài thơ của tôi thừa nhận, nhưng đó là 1 thừa nhận cay
đắng, mỉa
mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn sách tự thuật mà bản dịch tiếng
Tây có cái
tít Một Âu châu khác. Không
nghi ngờ
chi, có tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một
Âu châu
thứ nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng đen của
Thế
Kỷ 20”.
Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát. Tôi
phải nói
về thơ ca và cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của nó, với
một
số hoàn cảnh
kỳ cục, quái dị, về thời gian và nơi chốn…
Czeslaw Milosz
Chính là nhờ
đọc đoạn trên đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng
đời đẹp
nhất, và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của
những bản
nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.
Cái câu phán
hãnh diện của Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở
trong những
bản nhạc sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!
Trại Tù VC:
Hoàn cảnh kỳ cục, quái dị về thời gian và nơi chốn,
ở nơi đó,
nhạc sến được cất lên:
sao không hát cho những
người vừa nằm xuống chiều qua?
và, đâu cần
một dạng hoàn hảo nào cho thơ.
Milosz
READING
MILOSZ
I read your
poetry once more,
poems
written by a rich man, understanding all,
and by a
pauper, homeless, an emigrant, alone.
You always
want to say more
than we can,
to transcend poetry, take flight,
but also to
descend, to penetrate the place
where our
timid, modest realm begins.
Your voice
at times persuades us,
if only for
a moment,
that every
day is holy
and that
poetry, how to put it, rounds our life,
completes
it, makes it proud
and unafraid
of perfect form
I lay the
book aside
at night and
only then the city's normal tumult starts again,
somebody
coughs or cries, somebody curses.
-Adam
Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
The New York
Review, 1 March, 2007.
Đọc Milosz
Tôi đọc
thơ
ông, thêm một lần nữa,
những bài
thơ viết bởi một người giầu có, thông tuệ,
và bởi một
người nghèo mạt hạng, không nhà cửa, di dân, cô độc.
Ông luôn muốn
nói nhiều hơn
chúng tôi có
thể nói,
để chuyển
hóa thơ, để cất cánh,
nhưng cũng để
hạ cánh, dấn sâu vào khoảng đất
nơi cõi đời
của chúng ta, dụt dè, chơn chất, bắt đầu.
Tiếng nói của
ông, nhiều lần, chỉ trong một khoảnh khắc,
khiến chúng
tôi ngộ ra một điều là,
mỗi ngày, một
ngày, mọi ngày, thì thiêng liêng.
và rằng,
thơ, thể hiện điều đó, bằng cách,
quanh quẩn bên đời ta,
hoàn tất nó,
làm cho nó tự hào, hãnh diện,
và, đâu cần
một dạng hoàn hảo nào, cho thơ.
Tôi để cuốn
sách qua một bên.
Đêm, và chỉ
tới lúc đó, cái xô bồ, thường lệ, của thành phố lại khởi động,
một người
nào đó ho, hay la, một người nào đó, nguyền rủa.
nqt chuyển dịch
Nguyên tác
tiếng Ba Lan, Clare Cavanagh dịch qua tiếng Anh.
Bài thơ
trên, khi được in lại trong cuốn The Eternal
Enemies, khác, so với bản tên báo.
READING
MllOSZ
I read your
poetry once more,
poems
written by a rich man, knowing all,
and by a beggar, homeless,
an emigrant,
alone.
You always
wanted to go
beyond
poetry, above it, soaring,
but also lower, to where our region
begins, modest
and timid.
Sometimes
your tone
transforms us for a moment,
we believe-truly-
that every
day is sacred,
that poetry-
how to put it? –
makes life
rounder,
fuller, prouder,
unashamed
of perfect formulation.
But evening
arrives,
I lay my book aside,
and the
city's ordinary din resumes-
somebody
coughs, someone cries and curses.
Ghi
chú
trong ngày
Qu'est-ce
qu'un héros? Ni un vivant ni un « mort, un être qui pénètre dans
l'autre monde
et qui en revient. » À la lumière de cette citation de Pascal Quignard,
on mesure
mieux la personnalité du capitaine Victorien Salagnon, personage
central et ambigu
de ce gros roman, et le dialogue qu'il noue avec un jeune homme
désœuvré,
reclus dans la banlieue lyonnaise, qui passe son temps à trafiquer ses
arrêts
de travail, à faire l'amour, à boire et à regarder des films de guerre.
L’ex-parachutiste raconte avec un mélange d'horreur et de pudeur, à son
cadet
fasciné, les conflits où il a servi. En échange, il l'initie au
maniement de
l'encre.
L'Art français de la guerre: un titre bien
rébarbatif, où Alexis
Jenni, né en 1963, et dont c'est le premier ouvrage, parcourt
vingt-neuf ans de
colonisation française. Indochine, le Viêtnam, l'Algérie. On pourrait
croire à
une réflexion sur l'absurdité des conquêtes, si l'auteur ne portait son
récit à
des hauteurs spirituelles, avec un style parfait d'équilibre. Il va
plus loin
que Camus, lequel n'envisageait pas une Algérie non française.
Les guerres
de colonisation ont fait couler autant d'encre que de sang. C'est à
l'encre que
s'attache l'ex-officier. Celle dont il tirait, sur le papier, entre
deux coups
de canon, la pureté que la confusion générale interdisait. Celle qui
noircit
les Mémoires du général de Gaulle, baptisé « le Romancier », champion
du
mentir-vrai, « quand il travestit ce qui gêne et passe sous silence ce
qui
dérange. De Gaulle est le plus grand menteur de tous les temps, mais il
l'était
comme mentent les romanciers. Il construisit par son verbe, pièce à
pièce, la
légende dont nous avions besoin pour habiter le XXe siècle ». De Gaulle
menteur? Avant mai 1968, il avait écrit que l'Algérie française était
une
utopie; quand il a constaté à Alger l'immense ferveur des pieds noirs
et la
possibilité d'une amitié franco-musulmane, il a cru un moment que la
chose
était possible. Il a très vite déchanté. Son «Je vous ai compris»
était-il
sincère, avant sa volte-face, ou bien voulait-il faire avaler
progressivement
la couleuvre? Les avis ont toujours divergé. Mais Alexis ]enni tient à
la thèse
de l'anagogie. Dans la jungle des partis pris, avoir un enemi simplifie
et
rassure. Dans les livres, on en triomphe toujours. Ni Bodard ni
Kesssel, Jenni
condamne l'héroïsme. Les guerres de colonisation sont de sales guerres,
suivies
de parfaits exemples de décolonisation ratée.
Le maître et
l'élève trouvent la source de la sauvagerie coloniale dans
l'exacerbation des
différences et de l'identité nationale, dans l'obsession de la race et
de la «
ressemblance héréditaire », d'où découle le sectarisme. L'amour, le
désir
sexuel, l'art leur paraissent de saines alternatives, capables de
transfigurer
la haine aveugle: « Comment supporterais-je cet encombrement qu'est
l'autre, si
le désir que j'ai de lui ne me fait pas tout lui pardonner? » Et sans
désir de
l'autre, que reste-il, sinon l'envie de le voir disparaître? L'identité
selon
Alexis Jenni est à trouver dans le langage et le sexe, sous un ciel de
neige
peint à l'encre noire.
Mais tout
est guerre, selon lui; «la taupe cannibale» de la furia
francese rampe et gronde partout, même en temps de paix. Dans
le couple; lors des émeutes; dans les files d'attente devant une
pharmacie de nuit
où l'on cherche à grappiller une place; dans l'acte de consommer (le
narrateur
lit le mot «enfant» sur une barquette de viande, à côté d'abats
étiquetés «
animaux »). Violence partout tapie, partout à l'œuvre. L'État lui-même
« veut
que l'autre se taise; il faut le réduire à quia,
trancher sa gorge parlante ».
La torture
est au cœur du débat, jamais décrite, non plus que le compagnon du
narrateur ne
s'englue dans la poliorcétique des combats (l'art d'assiéger les
villes). Il
rappelle que « le français est la langue internationale de
l'interrogatoire ».
L'impossible situation des pieds-noirs installe la perfide question de
la race,
« l'idée visible qui permet le contrôle. La ressemblance physique,
confondue
avec l'identité, permet le maintien de l'ordre ». Quand le narrateur
demande au
vétéran s'il a torturé, l'autre répond qu'il a fait pis: « Nous avons
manqué à
l'humanité. » Tout ce livre tient au creux d'une phrase: On n'apprend
pas
impunément la liberté, l'égalité et la fraternité à des gens à qui on
les
refuse ».
Inconnu dans
le milieur de l'édition, Alexis Jenni ne le restera pas longtemps. Ce
premier
roman, chef-d'œuvre de mesure, que rehaussent l'art et le désir
salvateurs, est
un coup de maître. +
Note: Bài
này, trên tờ Le Magazine Littéraire
Sept 20011, trước khi cuốn sách được Goncourt.
Ði xa hơn cả
Camus:
On pourrait
croire à une réflexion sur l'absurdité des conquêtes, si l'auteur ne
portait
son récit à des hauteurs spirituelles, avec un style parfait
d'équilibre. Il va
plus loin que Camus, lequel n'envisageait pas une Algérie non française.
Người ta sẽ
nghĩ rằng quyển sách này là suy tư về sự phi lý của những công cuộc
chinh phục,
nếu tác giả không đẩy câu chuyện của mình tới những tầm mức tâm linh,
bằng một
văn phong hoàn hảo của sự cân đối. Ông còn đi xa hơn Camus; Camus, [một
ông Tây
thuộc địa], không hình dung ra được một nước Algérie mà không có sự
hiện diện của
người Pháp.
"Tiếng Tây là
thứ tiếng thế giới để hỏi cung", « le
français est la langue internationale de l'interrogatoire ».
Tout ce
livre tient au creux d'une phrase: “On n'apprend pas impunément la
liberté,
l'égalité et la fraternité à des gens à qui on les refuse ».
Cả cuốn sách
nằm ở trong lòng của 1 câu:
Người ta
không dạy tự do, bình đẳng, huynh đệ nơi những người mà người ta từ
chối họ những
thứ này, mà không bị họ trả đũa, trừng phạt.
Hay:
Người ta
không dạy cho dân thuộc địa tự do, bình đẳng, huynh đệ, những chuyện mà
mình đã
tước của họ, thì khi mình dạy họ thì mình sẽ bị họ phạt!
Bị họ phạt,
là, họ đánh lại, nổi dậy, giết lại mình...!
Trên tờ Le
Point, 10 Nov, 2011, cũng có 1 bài về cuộc chiến Mít của Tẩy,
dưới đề
tài, những
lầm lẫn lớn của Lịch sử. Theo tờ này, cú lầm lớn của Tẩy, là vào ngày
23 Tháng
11, 1946, nã pháo vô Hải Phòng.
Nếu đó là lầm
lớn của cuộc chiến Mít thứ nhất, thì cuộc chiến thứ nhì, cái lầm lớn,
là đã “lầm”
1 vụ tù VC Phú Lợi ăn trúng độc, bị ỉa chảy, phải đưa đi bịnh viện rửa
ruột cứu
sống, thành 1 cú đầu độc tù của Diệm!
Lịch sử nếu
không lầm như thế, thì làm sao có lý do ăn cướp Miền Nam?
Nhờ cú lầm
đó, MTGP được thành lập, Mẽo hoảng quá nhảy vô, thế là Miền Bắc bèn ăn
theo, thế
là đẩy Miền Nam vào thế thù địch [tụi Ngụy], thế là, thế là…
Hà, hà!
Lầm hả, đánh
cho mày hết lầm!
Michel Schneider's top 10 books about
Marilyn
Monroe
The novelist picks through the
mountain
of books about the tragic star to find the ones where she emerges as a
person,
not 'a sex idol'
"Hundreds
of books have been written about Marilyn. My personal reasons for
writing a
novel about her were probably quite different from those which had
previously
inspired so many biographers and authors. My interest was: why was she
so
intensely caught between public and private, words and images, trying
to escape
from the icon she became and cure herself with her own words? I was
deeply
moved to find her so desperate to match Polonius's advice 'To thine own
self be
true', and her solitary death made me rephrase this idea of the great
psychoanalyst DW Winnicott: 'Sometimes, to save your true self, you
have to
kill your self as a whole.' The good Marilyn books – ordered here
alphabetically – are those in which she appears as a person; the bad
ones,
those that treat her as a sex idol trapped in the mess of Hollywood.
"'Sometimes,
to save your true self, you have to kill your self as a whole.'
Ðôi khi để cứu
con người thật, cái ngã thật của bạn, bạn phải làm thịt “trọn” nó!
Ðúng là trường
hợp GCC, đã từng nhờ Cô Ba làm thịt trọn Gấu Cà Chớn!
Hà, hà!
Ui
chao, lại nhớ quãng đời mấy đấng bạn quí coi GCC như... hủi, đấng
nào cũng có sẵn 1 bài ai điếu trong túi, chờ thằng khốn nằm xuống
là giở
ra đọc!
Bạn bè chúng tao thương mày lắm, Gấu ơi là Gấu!
Phi
thằng Gấu Cà Chớn, ai dám vô… Ðịa Ngục?
Hà,
hà!
JANUARY
WEDNESDAY
Back home to
France. Rain and mist. The cat has climbed up on the pigeon tower, and
watches
the puddles in the garden from a box lined with towels.
Dante wants
us to believe in the beauty of Beatrice, so perfect that her place is
in
heaven. Catullus and Petrarch try to convince us of the many
attractions of
their beloveds. Don Quixote attempts no such arguments. When the
merchants whom
he meets on his first outing ask that he show them a portrait of
Dulcinea
before they swear to her unparalleled beauty, he answers, "If I were to
show her to you, what would be the merit of your confessing such a
notorious
truth? The importance of my demand consists in your believing,
acknowledging,
affirming upon oath and defending her beauty before you have seen it."
Perhaps the
great literary characters are those few who will always escape our full
understanding. The unbearable Lear bringing his hundred cronies to his
daughter's house, the love-dejected Dante obsessed by a young girl he
has only
briefly met, the trouble-prone, delusional Don Quixote beaten and
stoned for
persisting in his delusions-why do they move us to tears, why do they
haunt us,
why do they intimate that this life makes sense after all, in spite of
everything? They offer no reason; they demand that we believe,
acknowledge,
affirm their existence, "upon oath."
Alberto
Manguel: Don Quixote [A Reading Diary]
TV đã giới
thiệu cuốn trên rồi, qua bài viết về Sa Mạc Tartar, The
Tartar Steppe, của
Buzzati.
Dante muốn
chúng ta tin vào nhan sắc tuyệt trần của Beatrice, đẹp đến nỗi, chỗ của
nàng là
ở trên Thiên Ðàng.
Catullus và Petrarch cố gắng làm cho chúng ta tin
tưởng những
nét quyến rũ của người yêu của họ.
Ðức Ông Ky Xốt
ư, làm gì có chuyện đó. Ngay trong chuyến giang hồ đầu tiên, Don
Quixote khoe hàng,
là bức hình người đẹp Dulcinea, với đám lái buôn, và trước khi lũ này
thề thốt,
Ðức Ông phán, đâu có phải ta khoe hàng rồi, thì mi mới thề thốt hàng
đẹp?
Mi phải tin
là hàng đẹp, khi chưa nhìn thấy hàng!
Có lẽ những
nhân vật văn học lớn lao, chỉ 1 số nhỏ, vượt khỏi sự hiểu biết đầy đủ
của chúng
ta về họ. Làm sao chúng ta cắt nghĩa được, 1 ông vua khùng, như vua
Lear? Làm
sao chúng ta hiểu được Dante, khi bị ám ảnh bởi 1 cô gái chỉ vừa mới
gặp? Làm
sao chúng ta tin rằng có 1 Don Quixote, bị đánh đập tàn nhẫn, thì vẫn
khăng khăng
1 điều, cuộc đời thì có nghĩa, cho dù tất cả mọi chuyện?
Làm sao lại
có 1 thứ người cù lần như thằng cha Gấu, khi chỉ nghe đến tên cô bạn,
là đã yên
chí lớn, đây là người của ta, vậy mà đã quá muộn, nàng của ta nhưng
đếch phải của
ta!
Hà, hà!
Buzzati in
his notebooks: "All writers and artists, however long they live, say
only
one same thing."
Vera Nabokov:
Gấu Cái Nga
Hai lá thư gửi
GC, của GCC.
Tuy rành tiếng
Anh “hơn cả tiếng Nga” [Nabokov rất chê tiếng Anh của Brodsky], nhưng
Nabokov phán,
chỉ là giáo sư Nga, chỉ mê viết tiếng Nga. [Mais Je suis le professeur
russe. Un
désir passionné d’écrire en russe]. Nhân dịp hai cuốn sách mới ra lò về
ông, ở Tây, 1 của Cô Nabokov, [một cuốn tiểu luận về Nabokov, của 1 em
mê "văn"
chàng như điên],
tờ Obs cho in hai lá thư chưa từng in [tiếng Tây].
DEUX LETTRES
INÉDITES
Nabokov: “Je
t’aime, ma chérie”
Alors que
paraissent deux livres sur Vladimir Nabokov, l'un de Lila Azam
Zanganeh,
l'autre de Maurice Couturier, "l'Obs" publie en exclusivité deux
lettres de l'écrivain à sa femme Véra
Mai 1940.
Les Nabokov (Vladimir, sa femme Véra et son fils Dmitri né en 1934) ont
réussi
à fuir la France où ils se trouvaient, quelques jours avant l'invasion
allemande,
en s'embarquant à bord du “SS Chammplain”pour les Etats-Unis. Ils
s'installent
à New York puis, en 1941, dans le Massachusetts, où une chaire de creative writing a été créée pour le
maître russe. Mais Nabokov, craignant de ne pouvoir enseigner une année
de plus
au Wellesley College, accepte une tournée de conférences, qui va durer
deux
mois, dans l'Amérique profonde: Caroline du Sud, Illinois, Minnesota.
Loin de
l'indispensable Véra, égaré dans un continent étrange, encore étranger,
Vladimir se console en écrivant régulièrement à sa femme pour lui
raconter ses
malheurs de conférenncier. Ce sont deux de ces lettres, inédites en
français -
et qui figureront dans la correspondance conjugale de Vladimir dont
Dmitri
Nabokov prépare la publication -, que nous donnons à lire aujourd'hui.
DIDIER
JACOB
Note: Một
trong hai lá thư gửi cho Véra, là từ SAINT PAUL, MINNESOTA. Ðây là
thành phố
TTT tới ở, và mất ở đây. Nabokov chê thành phố quá cỡ thợ mộc. Chính vì
quá
chán nó, mà ông thèm viết bằng tiếng Nga, 1 cuốn tiểu thuyết!
10 NOVEMBRE
1942, SAINT PAUL, MINNESOTA
La
ville de Saint Paul est grande, froide, avec une cathédrale dans le
style de
Saint-Pierre-de-Rome sur la colline, et une vue assez morne du
Mississippi
(derrière lequel se trouve l'autre ville jumelle - Minneapolis).
Aujourd'hui
j'ai passé toute la jourrnée à l'université, à flâner, à parler et à
déjeuner
avec les autres professeurs. Je fus horrifié de découvrir que j'avais
oublié le
texte de ma conférence sur le roman que l'on avait requise pour 10h30 -
mais
je décidai de parler sans notes et tout cela se déroula de façon
agréable et
sans accroc. Hier après le voyage à la campagne je suis allé, en proie
à un
ennui terrible, au cinéma, et suis rentré à pied - je marchai plus
d'une heure
et me couchai vers 20 heures. En chemin je fus traversé net par un
éclair
d'inspiration indéfinie - un désir passionné d'écrire, et d'écrire en
russe. Et
pourtant je n'y arrive pas. Je ne pense pas que quelqu'un qui n'a
jamais fait
l'expérience de ce sentiment puisse vraiment comprendre son tourment,
sa
tragédie. L'anglais en ce sens est une illusion et un ersatz. Dans mon
état
habituel, pris par mes papillons, mes traductions, ou mes articles
universitaires, je ne mesure pas moi-même tout le chagrin et l'amertume
de ma
situation.
Cô Nabokov,
tác giả một tiểu luận về Nabokov.
Bỗng
nhớ đến
em Oanh, của Thầy Kiệt, trong Một
Chủ Nhật Khác.
Khi gặp BHD,
Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở
trong
dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của
Em, là vậy.
Ngoài ra,
còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng
cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa
ngoái lại,
lắc đầu:
Mi đâu có
thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở
nào, và Hà
Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp
nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em "miệt vườn" làm vợ, cái xứ Bắc Kít
trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một
em Bắc
Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD
của mi ở
trong em đó!
Cuộc tình
chót đời, vào lúc sắp xuống lỗ, đơn phương, của Gấu, là... tưởng tượng
ra 1 em
Bắc Kít, lấy chồng ngoại, và khi được hỏi, tại sao không lấy Mít, và,
tại sao
không lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi khốn đó đâu có biết trọng đàn
bà, nhất
là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc chiến!
Thế là Gấu
bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó, và ta nói,
ta yêu
Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói tiếng Vịt,
tất nhiên:
Anh
"thươn" EM!
[Em gốc “rau
muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui chao, Em
tin thiệt!
Gấu nhận được
cái mail sau cùng của Em, chắc là trong mơ, mới tuyệt vời làm sao:
Tui bận lắm,
đâu có thì giờ rảnh mà trả lời mail của anh.
Nào chồng,
nào con, nào công việc chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng
ráng viết vài dòng…
Ui chao GNV
lại nhớ đến nhân vật của Camus, lo hết cuộc đời trần tục này, rồi nếu
có tí dư,
thì dành cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks. Take
Care. Plse Take Care.
By the way, Merry Christmas and Happy New Year
NQT
James Joyce
có lần nói, tất cả các tiểu thuyết gia chỉ có mỗi một chuyện, và họ nói
đi nói
lại hoài, mỗi chuyện đó.
Gấu cũng đã
từng bị mấy đấng độc giả quen biết phán, chỉ có mỗi chuyện Mậu Thân,
đứa em
trai tử trận, và BHD, kể đi kể lại hoài!
Tuy nhiên,
quái đản nhất, là chuyện BHD: mọi cuộc tình của Gấu, đều chỉ để lập
chuyện tình
BHD!
Khủng khiếp
quá.
Đúng là cú trả thù ngọt ngào, bi thương, và cũng cực dã man, tàn nhẫn,
của xứ Bắc
Kít!
có
những lúc
vì sao
vỡ. và tôi ngồi. khóc
thành phố. không còn. ai
tiếng động. được giữ lại.
phía sau
và được ném. về phía trước
không. ở lại. với tôi
bầu trời. đã rách. toang
chiều buồn. ngồi. trên dãy
nham thạch
vỡ vụn. những tư duy. nhớ.
thật nhiều
những bàn tay. nước thả. trôi
về nhiều phía. và tôi ngồi.
khóc
tiếng nói. không. còn âm
thanh
những suy nghĩ. đi trốn. biệt
đôi môi. gió cuốn xa. mùi
hương. dị biệt
ôm chặt. lấy những dấu chấm
mà khởi đầu. là những nghi
vấn
và tôi. là cái còn lại. của
sự khó
biểu
tượng
giáng
sinh. những cây thông
gói gọn. trong nhà
không khí. ấm với. những bóng
đèn con
nhiều màu. ôm. vòng quanh
những gói quà. đẹp. xếp gọn.
dưới gốc
cây thông. đứng rũ. chết
thiên thần. ngôi sao. cánh
tuyết
những trang sức. cho cái chết
nhớ đất. và cái lạnh. mùa
đông
Noel 2010
Select four
answers to the question what should a reader be to be a good reader:
1. The
reader should belong to a book club.
2. The
reader should identify himself or herself with the hero or heroine.
3. The
reader should concentrate on the social-economic angle.
4. The
reader should prefer a story with action and dialogue to one with none.
5. The
reader should have seen the book in a movie.
6. The
reader should be a budding author.
7. The
reader should have imagination.
8. The
reader should have memory.
9. The
reader should have a dictionary.
10. The
reader should have some artistic sense.
Quả có câu
“Hãy chọn 4 câu trả lời”
Sorry bạn GM.
Nhưng bài viết không phải là 1 bài trắc nghiệm.
Gấu đã từng bị độc giả VHNT xài xể vì bài viết này 1 lần rồi. Bây giờ
mới nhớ
ra..
GM dịch câu số 6 "Người
đọc là một tác giả mới vào nghề", sai. Bản
tiếng
Tây dùng un auteur en puissance mạnh hơn nguyên tác tiếng Anh, có nghĩa
1 tác
giả đang nẩy nở thành 1 tác giả. Thì cũng mắm sốt, nhưng “en puissance”
nghe sung
mãn hơn nhiều!
To GM: Tks.
NQT
… Như
trong bài trích dẫn, "Người đọc tốt và người viết tốt" (trong Văn
Chương tập I, bản tiếng Pháp, nhà xb Fayard, loại sách bỏ túi), Nabokov
phân biệt
giữa văn chương (giả tưởng, bịa đặt), và sự thực. Ông đã viết một cách
thật là
"nặng nề": Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là giả tưởng. Gọi câu
chuyện là "chuyện thực", là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự thực. (La
littérature est invention. La fiction est fiction. Appeler une histoire
"histoire vraie", c'est faire injure à la fois à l'art et à la
vérité.) Vì sự thực liên quan tới hiện thực cho nên ông giải thích
thêm: Thiên
Nhiên không ngừng đánh lừa. (La Nature trompe sans cesse). Ông viết:
"Mọi
nghệ sĩ lớn đều là ảo thuật gia lớn, và cũng thế, Thiên Nhiên là tổ sư
đại bịp....
Nhà văn của giả tưởng chỉ việc đi theo con đường Thiên Nhiên đã vạch
ra" (Tout grand écrivain est un grand illusionniste, mais telle
également est l'architrompeuse Nature.... L'écrivain de fiction ne fait
que
suivre la voie tracée par la Nature.)
Cả
một cõi văn chương, giả tưởng, như thế, là 1 trò bịp bợm. Những lời dối
trá thực,
the true lies, tôi là lời dối trá nói lên sự thực. Tao là 1 tổ sư đại
bịp.
Làm gì
có thứ “tâm”, “thành thực và khiêm tốn”, ở đây”?
Viết
nhảm như thế mà lại cứ muốn làm Thầy, Thầy Cuốc, khó [khó, không phải
khổ] thật!
Cả
đời GCC, chỉ có mỗi 1 giai đoạn thực sự muốn “thành thực và khiêm tốn”,
là khi
talawas ra đời, với bà chúa Sến, vị nữ thủ lĩnh trên không gian ảo. GCC
mừng
quá, nghĩ lúc này cố làm sao mà có được 1 nền văn học thực sự giao lưu
hòa giải,
gồm đủ thứ… Kít, nào Bắc Kít, Nam Kít, Bắc Kít di cư… nó sẽ thành
1 sức ép
lên VC trong nước, đòi hỏi đổi mới, thay đổi chế độ…
Thế là lơn
tơn xung phong làm 1 tên cắp rổ theo hầu Sến, khi Sến đi chợ!
Và,
bị cả 1 lũ xúm lại đấm đá, tí mù luôn con mắt độc nhất còn lại, thế
là đành ôm đầu máu chạy về núi Tản Viên!
DTH par Minh Tran Huy
|
|