Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Cảnh đẹp VN
Thu
2011
Khi về, cô
bé có thói quen để cô em vô nhà, còn cô chạy đến bên phông tên
ngay bên đường
cách nhà chừng mười bước
để rửa chân, thật ra để đùa nghịch cùng những giọt nước...
Lần
Cuối Sài
Gòn
Thơ Mỗi Ngày
Tếu thật,
trong khi GCC ra rả về cái chuyện VC chiêu hồi thi ca hải ngoại, thì
server cho biết, bài của Gấu trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.
"Hà Nội không bỏ 1
chữ” [mượn
chữ của NMG].
Tks, anyway!
NQT
No
Childhood
And what was
your childhood like? a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers
Adam
Zagajewski
Tuổi
thơ ư, No!
Và
tuổi thơ của Ngài thì như là cái quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.
Source
ONDAATJE
Thơ
JHV
Thủ bút JHV
TTT 2011
Kỷ niệm
100 năm sinh của Milosz
Le poète
intraitable
Il ne peut
toutefois adhérer au marxisme: la lecture de Simone Weil (qu'il traduit
en
polonais) a joué à cet égard un rôle capital dans son évolution
intellectuelle.
Elle aura été la première à dévoiler la contradiction dans les termes
que représente
le « matérialisme dialectique ». Pour une pensée intégralement
matérialiste
(comme celle d'Engels), l'histoire est le produit de forces entièrement
étrangères à l'individu, et l'avènement de la société communiste, une
conséquence logique de l'histoire; la liberté n'y a aucune place. En y
introduisant
la « dialectique ", Marx réaffirme que l'action des individus est
malgré
tout nécessaire pour qu'advienne la société idéale: mais cette notion
amène
avec elle l'idéalisme hégélien et contredit à elle seule le
matélialisme. C'est
cette contradiction qui va conduire les sociétés « socialistes" à tenir
l'individu pour quantité négligeable tout en exigeant de lui qu'il
adhère au
sens supposé inéluctable de l'histoire. Mais la philosoophie de Simone
Weil
apporte plus encore à Milosz que cette critique: elle lui livre les
clés d'une
anthropologie chrétienne qui, prolongeant Pascal, décrit l'homme comme
écartelé
entre la « pesanteur" et la « grâce ".
Baal
Vào mùa hè năm 1862, Dostoevsky
làm một chuyến ngao du Pháp và
Anh, và sau đó đẻ ra bài viết, Ghi chú Mùa Đông Ấn tượng Mùa Hè,
Winter
Notes on Summer Impressions. (1)
Chương
5, viết về London, có tên là Baal, bởi vì có vẻ như con người ở đây chỉ
là mồi
ngon cho vị thần của Syria và Canaan, mà tên tiếng Anh, có nghĩa là
"Lord".
Không ai, kể cả Dickens, trong
những trang đen tối
nhất của ông, viết ra những điều thê thảm, dữ dằn đến như thế - như là
Dos.
viết - về thủ đô của chủ nghĩa tư bản, vào thời kỳ đó.
Chắc chắn rồi, là người Nga,
ông không ưa Tây Phương,
nhưng sự căm phẫn về mặt đạo đức của Dos. thì thật là khủng khiếp, và
những
miêu tả của ông, thì hiện thực đến nỗi, thật khó mà không tin ông.
Nghèo đói
khủng khiếp, lao động nặng nhọc, tệ nạn say sưa, đĩ điếm, rất nhiều
người dưới
tuổi vị thành niên, chứng tỏ một điều, giai cấp ngồi trên đầu nhân dân,
đã hy
sinh nhân dân của họ, cho ông Thần Tiền, the Baal of money.
Thành thử chẳng có gì là ngạc
nhiên, khi, cũng chính
từ thành phố đó, Marx đưa ra những lời tiên tri của ông, và những lời
tiên tri
đó, tức chủ nghĩa Cộng Sản, máu đến như thế, hận thù đằng đằng đến như
thế!
Milosz's
ABC's
Đọc
những gì Dos phán về London, cứ nghĩ, ông phán về... Hà Nội,
về Đất Bắc.
Không tin? Đọc Ác Mộng lắc,
Gạ Tình Lấy Điểm, Quỉ Râu Xanh LQD, Ba Người Khác..
Dos dưới ánh sáng Khải
Huyền
Kinh nghiệm mặc khải, theo
nghĩa cực kỳ tôn giáo, ám ảnh tác phẩm
của Dos. Không phải theo nghĩa cực khoái, hay cực lạc, mà đây là một cú
xé
toang ra, vén màn, vạch trần, thật dữ dằn và thật đau đớn. Cái chết và
cơn hỗn
mang tạo nên sự thực sau cùng - một cái chân đế, một cái nền cho một
niềm tin
ngược ngạo.
Điều Nabokov không hiểu được, khi ông ta, trong những bài giảng cho
sinh viên
tại Đại học Cornell, chỉ lèm bèm những lời chế nhạo về Dos, những lời
chế nhạo
này nuôi dưỡng rất nhiều tác phẩm của ông ta, đặc biệt là cuốn Ada,
[bàn một
cách tầm phào về địa ngục dâm tình]. Trong Tội ác và Hình phạt,
cái xen
em bướm Sonia đọc Kinh Thánh cho Raskolnikov, sau khi anh ta phạm tội
sát nhân
kép, có vẻ như đối với Nabokov, là quá dung tục cà chớn! Theo ông
ta,
người ta chưa từng nhìn thấy Sonia khi làm công việc bướm, và cái thứ
chủ nghĩa
tình cảm cũ mòn của tác giả khiến cho cái xen trên, đến từ đường phố,
trở thành
không thể nào tưởng tượng ra được: bướm và sát nhân đọc Kinh Thánh!
Nabokov
không hiểu được “thơ tính của mặc khải” của Dos.
Nhưng
phải Camus, thì mới “hách” làm sao, khi đọc Dos, không phải dưới ánh
sáng Khải
Huyền, mà là dưới lửa Địa Ngục, hay gần gụi hơn, lửa cuộc chiến Mít,
khi phán:
Những con đường đưa cá nhân đến tội ác / đưa xã hội đến cách mạng, là
như nhau.
(Camus, Thèse sur Dostoevsky: Les mêmes chemins qui mènent l’individu
au crime
mènent la société à la révolution).
Bây
giờ chúng ta hiểu tại sao cái bóng cuốn Tội ác và Hình phạt phủ
lên hết
miền đất Bắc Kít, qua Bếp Lửa.
Đại
cầm ở tay cuốn Crime et Châtiment. Tôi hỏi:
-Cậu đến trường luôn không?
-Không.
-Làm gì ở nhà?
-Đọc sách và suy nghĩ.
-Suy nghĩ về phép giết người? Tôi nói đùa.
Đại không đáp. Chúng tôi đứng nhìn xuống khu xóm lao động phía dưới.
Đại bỗng
nói:
-Nó đến trường tìm mình dữ lắm.
-Cậu quyết định thế nào?
Đại trầm ngâm một phút:
-Chưa.
Đại là sinh viên khoa học, đã qua được chứng chỉ căn bản. Hắn bị gọi
động viên
và đang trốn.
-Nghĩ gì về Dostoievski?
-Bệnh.
Tôi không ưa lối nói cụt ngủn của Đại. Hắn rất say đắm chủ nghĩa
cộng sản.
Những căn nhà thấp đã bốc khói. Không khí ấm hơn. Tôi nhìn bâng quơ
những ngọn
cây.
(Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa).
Source
Đại, không giết người,
nhưng ‘làm thịt’ cô con gái, con
riêng ông Chính, rồi chuồn ra bưng, làm cách mạng!
(1)
Bản tiếng
Anh xb lần đầu năm 1955, nhà xb John Calder, in tại Anh
Cũng 1 cuốn
hiếm quí, tậu được trong 1 tiệm sách cũ Toronto. GCC đọc ABC's Milosz, mới biết
đến nó!
Sẽ post cái
bài Baal của Dos, sau.
Summer
Impressions
IN THE
SUMMER of 1862 Dostoyevsky made his first voyage of
discovery-the discovery of Western Europe-in
the course of which he paid his one and only visit to Britain. On his
return,
he published his impressions of the voyage of which this is the first
English translation.
This is, in
part, an attempt to reveal the French and English to the Russians. His
conclusions may come as a shock to the British, but they may shock the
French
even more for in France, Dostoyevsky was as scandalized as ever was the
Marquis
de Custine in Russia, a generation earlier, by the lack of freedom, the
ubiquity of police informers, the arbitrariness of the Government and
the
slavish adoration of the Emperor.
Dostoyevsky
saw England as the land of licentiousness, and his picture of the
contemporary
scene is not unlike that portrayed by Hogarth in the previous century.
His
picture of the London masses, gin-sodden, immoral and yet colorful, is
unforgettable. It is the French whom he sees as a nation of
hypocritical shopkeepers.
But perhaps
the real interest of the book is that in it, Dostoyevsky reveals
himself for
the first time. Ideas which he later developed in so many of his works,
make
their earliest appearrance here: the effect of European civilization on
the
Russian character, the influence of the principle of individualism on
the West,
the hollowness of the 19th century material progress and political
achievements, the inevitability of the proletarian revolution. Mr
FitzLyon's
distinguished translation is aptly illustrated by Philippe Jullian.
9s. 6d. net
Thằng em Nam
Bộ bị thằng anh Bắc Kít làm thịt, bố mẹ Mít ngồi khóc, khi khám phá ra
xác con…
Sartre phán,
trước 1 đứa trẻ chết đói, cuốn Buồn
Nôn chẳng là cái chó gì.
Nhưng, trước
1 đứa trẻ, chết, hay bị giết, thì sao?
Ðó mới chính
là đề tài của Anh em nhà Karamazov,
theo một phê bình gia Nhật, Hideo Kobayaki (1902-1983). Từ trước tới
nay, người
ta quen đọc nó như là thảm kịch con giết bố, nhưng theo ông Nhật này,
phải đọc
ngược lại.
Bài viết của
ông, gây chấn động giang hồ!
Malraux,
Faulkner, và Camus, đọc mà còn không chịu nổi!
Những anh em nhà
Karamazov, Kinh cầu
một nữ tu, Requiem pour un nonne, Dịch hạch, La Peste, như người ta nói, là
những giả tưởng.
Thì người ta phải nói như vậy, và phải giả đò tin như vậy, để cho cái
chết
mà chúng nói tới, chỉ là một phát kiến sa đích, une sadique invention,
của 1 tiểu
thuyết gia.
Nhưng vào ngày 16 Tháng
Năm 1878, Dos mất đứa con trai, Alexei, 3
tuổi, và ông viết Les Frères
Karamazov. Ngày 16 Tháng Giêng, 1931, chỉ sau khi
sinh ra được vài ngày, thì đứa con đầu của Faulkner mất, một con gái
đặt tên trước, là
Alabama, và người ta nói, do nỗi đau này mà ông viết ra Lửa Tháng Tám, Lumière
d’Aout. Camus may mắn không gặp nỗi đau này, nhưng đổi lại thì
là căn
bịnh lao
mà ông ôm lấy! Nó cũng giống như 1 đứa trẻ đã chết ám ảnh mọi tác phẩm
của ông.
Chúng ta tự
hỏi, nếu Linda Lê không mang một đứa bé Việt đã chết ở trong lòng, làm
sao bà
viết?
Nobel 2011
Thơ Ca, Xã Hội, Nhà Nước
Bài viết
này, Gấu đọc, trong lúc viết bài về Thơ Trẻ ở trong nước, và có chôm
mấy ý.
Nay post
toàn bài, lèm bèm tiếp về cái chuyện Thơ Mít nhân nhà thơ TT [hai chữ T
thôi
nhe] được Nobel.
Yves Bonnefoy :
« J’ai le
désir de servir la poésie dans une société qui la méconnait »
Tớ muốn phục vụ thơ trong một xã hội đếch biết nó là cái chó gì!
Thảo nào,
mấy anh thi sỡi Mít hải ngoại đều
chuồn về hết rồi
Quyền uy của
nhà thơ vào thời đại không tưởng
Bài này thật
tuyệt, GCC tính “đi” hoài, nhưng ngại quá. Nay nhân cú VC tính “chiêu
hồi” nền
thi ca hải ngoại, chắc là đành phải “đi” thôi!
What becomes
of lyric poets who put their "service to the muse", as Pushkin called
it, to the service of their nation? Can political poetry couched in
lyric form
ever be truly transnational? Can poets even in exile ever escape the
mental map
of their native land? These are the questions addressed by three new
books and,
less directly, represented in Andrey Khrzhanovsky's film about Joseph
Brodsky,
A Room and a Half. All make serious attempts to consider the relation
of the
art of poetry to the lives of poets.
Chuyện gì xẩy
ra cho những nhà thơ trữ tình, khi, thay vì phục vụ thánh nữ,
thì lại
phục vụ… VC?
Liệu thứ thơ “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, tức thơ chính trị mang
cái vỏ bọc
nước đái [couched in lyric form], thì có tính xuyên quốc gia?
Liệu thi sĩ,
khi đã lưu vong, chạy thoát cái bản đồ chữ S?
Ghi
chú
trong ngày
Une curieuse
solitude
" Pour
moi, je ne me lasserais pas de citer ce livre dont je parle si mal. Il
n'y a
pas de raison que cela finisse, sinon la raison même. Je n'ai pourtant
ni le
mérite ni l'originalité de découvrir Philippe Sollers, dont le destin,
même
s'il doit s'entourer de quelques crialleries, est désormais, et
largement
ouvert. Et puis il y a bien des choses que je préfère réserver de lui
dire plus
tard. Beaucoup plus tard peut-être, si cela pouvait m'être donné. Le
destin
d'écrire est devant lui, comme une admirable prairie. A d'autres, de
préjuger
de l'avenir, de donner des conseils. Pour moi, j'aime à me contenter
d'admirer.
Cette fois au moins. C'est que ce n'est pas tous les jours qu'un jeune
homme se
lève et qui parle si bien des femmes.”
Extrait d'un
article de Louis Aragon,
Les Lettres françaises,
20
novembre
1958.
Ceci est le
premier roman de Philippe Sollers, dont on sait comment il plaça
d'emblée son
auteur au premier rang d'une génération.
[p.1]
“Il n'y a
rien à craindre des dieux.
Il n'y a
rien à craindre de la mort.
On peut
atteindre le bonheur,
On peut
supporter la douleur. »
DIOGÈNE
D'ŒNANDA
« Le plus
beau des courages, celui d'être heureux. »
JOUBERT
[p2.]
Quien ha
muerto en el cielo
Para que la
virgen vaya de luto?
(Qui donc
est mort au ciel
Pour que la
vierge soit en deuil ?)
[Thằng chó
nào chết ở trên trời,
Ðể em của tớ nhất định còn trinh suốt đời?]
[p.2]
Gấu đọc cuốn
trên đúng vào lúc mới lớn, tiếng Tây tiếng đực tiếng cái, vậy mà mê
tít. Về
già, mua, cũng là để nhớ lại 1 đoạn đời.
Gấu nhớ là bạn quí HPA cũng mê
cuốn
này lắm. Và mê Sollers. Mê “Tel Quel”, tất
nhiên.
Anh viết Thư gửi nhóm Sáng Tạo,
là từ tinh thần “Tel Quel”:
Thật ra cuộc
đời không là gì cả trong khi người ta không ngớt gọi nó bằng nhiều cái
tên khác
nhau: thảm kịch, nôn mửa…. Cuộc đời chỉ hiện hữu ngay trước chúng ta.
Thế thôi.
Và chỉ có thế thôi.
[Trích Thư gửi
ST]
Sollers, sau
từ bỏ cuốn này, chạy theo cái mới, làm mới văn chương [chắc là do
đọc Thầy
Cuốc].
Ði tìm trinh nữ, tác phẩm
còn trinh! (1)
Trường hợp
Sollers từ bỏ đứa con tinh thần đầu tay của mình, và suốt đời không làm
sao có
cuốn nào bảnh hơn, làm Gấu nhớ tới Nguyễn Tuân, và nhất là, tới Lukacs
khi ông
bắt buộc phải từ bỏ cuốn hách nhất của đời mình, Tân Thánh Kinh của chủ
nghĩa
Marx, là Lịch sử và Ý thức Giai cấp.
Trên tờ ML, số về Dos, Mars, 2010, có 1 bài
viết về Walter Benjamin, cho biết, chính là do đọc Lịch sử và Ý thức Giai cấp (1923),
mà WB khám phá ra chủ nghĩa Marx: Dưới mắt ông, đây là cuốn sách “hoàn
tất nhất”,
le plus achevé, trong những tác phẩm văn học Mác Xít. Nó đặc dị nắm lấy
hoàn cảnh
phê bình của cuộc đấu tranh giai cấp trong hoàn cảnh phê bình của triết
học,
Benjamin giải thích. [Sa singularité saisit la situation critique de la
lutte
des classes dans la situation critique de la philosophie]. Ðây là 1 bài
điểm cuốn
Chủ nghĩa lãng mạn và phê bình văn minh, Romantisme et critique de la civilization,
trong đó, WB phán, thật bảnh:
Lịch sử thực
dân thuộc địa, coloniale, của những dân tộc Âu châu, bắt đầu bằng chiến
thắng Mỹ
Châu, nó biến thế giới mới ăn cướp được đó, le monde nouvellement
conquis,
thành một phòng tra tấn, une salle de tortures (1929).
THNM: Bạn áp
dụng câu trên vô ngày 30 Tháng Tư 1975!
(1)
Chữ “Trinh” đáng
giá nghìn vàng,
Từ anh chồng
cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu
vụng dấu thầm,
Họp chợ trên
bụng đến trăm con người.
Câu đố:
Hai chân song
sóng, hai bọng ấp nhau
Nhảu nhàu
nhau, dí một cái.
Là cái gì?
Trả lời:
Cái kéo!
Tục ngữ
Phong Dao. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc sưu tập. trang 17, Tập Dưới.
1. Le
lecteur doit être abonné à un club de lecture.
2. Le
lecteur doit s'identifier avec le héros ou l'héroïne.
3. Le
lecteur doit se concentrer sur l'aspect socionomique.
4. Le
lecteur doit préférer une hisoire comportant action et dialogue à une
histoire
qui en est dépourvue.
5. Le
lecteur doit avoir vu le livre en film.
6. Le
lecteur doit être un auteur en puissance.
7. Le
lecteur doit avoir de l'imagination.
8. Le
lecteur doit avoir de la mémoire.
9. Le
lecteur doit avoir un dictionnaire.
10. Le
lecteur doit avoir quelque sens artistique.
GCC
tạm dịch:
1.Ðộc
giả phải đăng ký là 1 thành viên của 1 câu lạc bộ đọc.
2.
Ðộc giả phải đồng hóa mình với nhân vật chính trong truyện, nam hoặc nữ.
3.
Ðộc giả phải chú tâm tới khía cạnh xã hội kinh tế [của thời đại xẩy ra
trong
truyện]
4.
Ðộc giả phải chọn lựa 1 câu chuyện có hành động, đối thoại, thay vì 1
câu
chuyện không có những điều này.
5.
Ðộc giả phải coi cuốn sách khi được chuyển thể thành phim ảnh.
6.
Ðộc giả phải là 1 tác giả tiềm lực [nghĩa là 1 độc giả trong cái thế
hung hãn
sẽ trở thành 1 tác giả].
7.
Ðộc giả phải có trí tưởng tượng.
8.
Ðộc giả phải có trí nhớ.
9.
Ðộc giả phải có cuốn từ điển.
10.
Ðộc giả phải có tí ti cảm quan nghệ sĩ.
[GCC có bản
tiếng Anh, nhưng kiếm không ra! Bản tiếng Tây, cuốn II, là của 1 độc
giả TV gửi
cho 2 cái “gift card”, Tks, Take Care Plse. NQT]
Trên đây là
10 điều kiện để trở thành "độc giả tốt". Trong bài viết "Nhà văn tốt,
độc giả
tốt", "Bons lecteurs et bons écrivains", trong cuốn Văn Học I, của
Nabokov.
Cuốn II viết về văn học Nga.
[Nhân thấy GM đưa lên blog]
Thứ sáu,
ngày 11 tháng mười một năm 2011
Trắc
nghiệm:
Thế nào là một người đọc giỏi?
Người đọc phải
là thành viên một câu lạc bộ sách (kiểu như Bookaholic).
Người đọc phải
đồng cảm với nhân vật.
Người đọc phải
tập trung vào góc độ kinh tế xã hội.
Người đọc ưa
thích một truyện có hành động và đối thoại hơn là một truyện không có
bắn nhau
pằng pằng và không liến thoắng tằng tằng.
Người đọc đã
xem bộ phim chuyển thể từ cuốn sách.
Người đọc là
một tác giả mới vào nghề.
Người đọc phải
có trí tưởng tượng.
Người đọc phải
có trí nhớ.
Người đọc phải
có một cuốn từ điển.
Người đọc phải
có một cảm quan nghệ thuật nhất định.
Đây là bài
trắc nghiệm nhỏ Nabokov dành cho sinh viên của mình. Sinh viên phải
chọn bốn
câu trả lời mà một người đọc giỏi (a good reader) theo Nabokov phải có.
Đáp án dĩ
nhiên là bốn câu cuối.
*
GCC
không hiểu GM lấy ở đâu ra khúc chót, bởi vì đây là 1 bài viết
ở đầu
cuốn Văn Học I, viết về những
tác giả Austen, Dickens, Flaubert, Stevenson,
Proust, Fafka, và Joyce. Chúng là những bài giảng cho sinh viên
Cornell.
Nhưng mấy bài viết của ông, là riêng ra.
Ðâu phải trắc
nghiệm?
Nabokov có mấy
bài viết "tốt", kèm với hai cuốn Văn Học trên, Nghệ thuật dịch, Nghệ thuật văn và
thiên lương, L’art de la literature et le bon sens, Ðộc giả tốt, nhà
văn tốt. Ðộc
giả tốt còn có cái tít khác, Nghệ thuật là độc giả.
Nếu là bài
trắc nghiệm, thì GCC chọn hai câu, độc
giả tốt phải nhập vào nữ nhân vật hoặc nam
nhân vật, và câu, độc giả tốt
là 1 tác giả đang trong thế hàm mô công, chỉ chờ
dịp giút súng bắn pằng pằng! [mượn chữ của GM]
Vì đúng là như thế. Một
độc giả luôn là 1 tác giả đang
hung hãn trở thành tác giả, khác hẳn 1 anh phê bình gia, một hoạn quan
mất mẹ súng,
và trong khi xoa đầu hay nâng bi tác phẩm của 1 người khác, là, đi tìm
một khẩu
súng đã mất!
Giá có gặp một
em còn trinh thì cũng thua thôi!
Không phải
GCC, mà là Steiner phán nhe:
Khi ngoái lại, nhà phê bình thấy cái bóng của 1 viên hoạn quan!
Lý do thứ
hai khiến tôi nghi ngờ chủ trương đề cao cái "tâm", sự thành thực,
chân thực hay trung thực của người viết, là vì nó làm lệch hướng cách
nhìn của
chúng ta:
Với tư cách
độc giả, thay vì chỉ nhìn vào tác phẩm, chỉ đọc tác phẩm, với quan niệm
"chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", chúng ta lại nhìn lom lom vào tác
giả, đối chiếu cuộc đời và tác phẩm của hắn để hy vọng lần ra dấu vết
của những
sự dối trá, một cách đọc có khả năng biến chúng ta trở thành công an
thay vì là
tri âm, như cái điều vẫn thường xảy ra dưới những chế độ độc tài.
Với tư cách
tác giả, việc đề cao cái tâm, trên thực tế, thường là một cái cớ để
người ta
tránh né một trách nhiệm chính yếu và lớn lao hơn: viết cho hay. Nếu
nhìn lại
văn học Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, đặc biệt gần đây, khi
công việc ấn
loát trở thành dễ dàng khiến ai cũng có thể xuất bản tác phẩm của mình
dưới
hình thức này hoặc hình thức khác, chúng ta có thể thấy ngay, những kẻ
hay xả
rác và ỉa bậy trên sách báo nhất, những kẻ làm ô nhiễm không khí thẩm
mỹ và đạo
đức của thời đại nhiều nhất thường là những con người... đầy thiện chí
và đầy
tinh thần trách nhiệm, những công dân tốt. Tốt, nhưng bất tài.
NHQ: Blog
VOA
Thầy Cuốc, và
rất nhiều người như ông, đều hiểu lầm câu của Nguyễn Du.
Tâm ở đây,
Thứ nhất, liên
quan đến đạo đức của nhà văn.
Thứ nhì, cái
thứ nhì này, theo 1 nghĩa hoàn toàn văn học, thì lại quan trọng hơn cái
thứ nhất,
nó liên quan đến kỹ thuật viết, tức liên quan đến "tài hay
bất tài" mà
Thầy Cuốc và băng đảng lải nhải hoài, "tâm tốt mà bất tài" thì cũng vứt
đi.
Thầy không
hiểu ra được "tâm bằng ba tài", tức "tâm" là cái “tài nhân ba lên”,
"tài" phải "ba
lần tài", thì mới đến mò đến "tâm" được.
Ðây là ý mà
Brodsky đã từng phát biểu trong diễn văn Nobel của ông, theo đó, không
có tâm,
tức không có đạo đức, thì không thể có văn học được.
Kafka,
cũng
ý đó, nhưng khác hẳn cách diễn tả, khi ông phán: Kỹ thuật là linh hồn,
être, của
văn học.
“Kỹ thuật” của Kafka, là “tâm” của Nguyễn Du.
Nhưng chắc
chắn Thầy Cuốc không "ngộ" ra chân lý này đâu!
Cả 1 băng đảng
Hậu Vệ, xuất hiện ở hải ngoại như vậy cũng là đã quá Diễm Xưa rồi, cộng
thêm băng
đảng Sến Cô Nương, Chợ Cá Bơ Linh, khi chưa quá cố, hết lòng hỗ trợ,
nhất Thầy
Cuốc, nhất Thầy Hoặc Ngữ, cho đến ngày giờ này, có tác phẩm nào thuộc
loại "tài
không cần tâm" đâu?
Ðây là sự thực, và, do tại sao?
Hỏi, là trả lời, vậy.
Nguyễn Du nói, tâm bằng ba tài.
Brodsky, trong diễn văn Nobel, mỹ là mẹ của đạo hạnh (1).
Kafka, kỹ thuật là “hữu thể”, [être], của văn chương.
Có vẻ như mấy ông này ăn nói ngược ngạo, giữa họ, nhưng, theo Gấu, cả
ba, “tâm”
“kỹ thuật”, “mỹ” đều liên quan tới, chỉ một câu hỏi, ‘viết thế nào’,
[comment
écrire].
Chính vì thế mà Brodsky mới nói
tiếp, ‘bad style’ [viết dở], là do
cái tâm khốn nạn, cái tà ma ác quỉ gây ra!
(1) In his Nobel Prize lecture,
Brodsky sketches out an aesthetic
on the basis of which an ethical public life might be built.
Aesthetics, he
says, is the mother of ethics, in the sense that making fine aesthetic
discriminations teaches one to make fine ethical discriminations. Good
art is
thus on the side of the good. Evil, on the other hand, "especially
political evil, is always a bad stylist" (On Grief, p.49).
Coetzee: Joseph Brodsky
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky
vạch ra một mỹ tín mà cuộc sống đạo
đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông
nói, là mẹ
của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc
ra cái vô
đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt.
Cái ác,
cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là
một thứ
văn phong tồi tệ”
Nguồn
Đây cũng là ba đỉnh của một tam
giác văn chương, hai đỉnh Nguyễn
Du và Brodsky, tưởng như đối nghịch nhau, nhưng là một. Chính nhờ đọc
Brodsky,
qua câu này, mà Gấu mới ngộ [độc] ra được câu của Dos, Cái Đẹp sẽ cứu
chuộc thế
giới, và, cùng lúc ngộ ra, chính trị mới là đỉnh cao, văn chương chỉ là
cứt đái
so với nó. Đây cũng là ý của Benjamin, khi ông phán, mọi tài liệu về
văn minh
là một tài liệu về dã man;
ở dưới nền của một tác phẩm lớn, là một đống kít.
Câu của Kafka, Gấu đọc qua Barthes, the being of literature is nothing,
but its
technique, trong Kafka's Answer,
ngay từ hồi mới lớn, và kể như đây là cái mối hạnh ngộ đầu tiên giữa
ông và
Gấu, cho tới khi gặp Steiner, thì biết tới những ác mộng của ông.
*
Et je pense à Soljenitsyne. Ce grand homme était-il un grand romancier?
Comment
pourrais-je le savoir? Je n'ai jamais ouvert aucun de ses livres. Ses
retentissantes prises de position (dont j'applaudissais le courage) me
faisaient croire que je connaissais d'avance tout ce qu'il avait à dire.
Kundera: Une rencontre
[Tôi nghĩ đến Solz. Con người
vĩ đại này là một tiểu thuyết gia
lớn? Làm sao tôi biết? Tôi có bao giờ đọc ông ta đâu? Cái trò lèm bèm
tối ngày,
xác định vị trí, thái độ của ông (tôi rất chịu sự can đảm của ông),
khiến cho
tôi có cái cảm tưởng là mình biết tỏng, từ khuya, ông viết lách ra làm
sao
rồi!]
Note: Câu này, [tặng bạn NL!],
sai, theo Gấu.
Hoặc đúng, chỉ có một nửa.
Trước khi đọc Solz, Gấu cũng
nghĩ như Kundera. Nhưng, đọc, mới vỡ
ra là, Solz, “có thể” không phải là một tiểu thuyết gia lớn, nhưng là
một nhà
văn cực lớn, cực kỳ vĩ đại. Tác phẩm của ông chửi bố những Chuyện
Kể Năm
2000, thí dụ, bởi vì, như cái tay Lý Trác Ngô [xem Mái Tây, bản dịch của Nhượng Tống],
đã từng phán, cái thứ
nhà văn
đích thực, họ đéo có thèm viết văn!
Ông Trời khốn kiếp đẩy họ vào cửa tử, không chỉ họ, mà còn toàn nhân
loại, biểu
họ đừng viết, đừng báo động ư?
Kafka cũng thế, ông nói, tuy ngược hẳn lại, vậy mà cũng theo nghĩa đó,
thế mới
quái đản, Ông Trời năn nỉ tôi, biểu đừng viết, nhưng tôi vẫn phải viết!
Cũng vẫn nằm trong câu cảnh cáo
của Adorno:
Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau
lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ,
khổ thơ, phổ thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có
thêm sự
huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of
acceptability –
(Phỏng vấn G. Steiner).
Đây cũng là lý do tại sao những vần thơ mộc mạc của Nguyễn Chí Thiện
vẫn chuyển
tải được Cơn Kinh Hoàng của thế kỷ: nó vẫn còn đúng với thực tại Việt
Nam:
Còn Đảng là còn Khổ,
Hết Đảng là có Phở!
GCC nhớ,
Barhes có phán 1 câu, đúng ra 1 bí quyết viết văn.
Đầu vào: Comment
écrire. Viết thế nào
Đầu ra:
Pourquoi le monde. Tại sao thế giới.
Những tâm tiếc,
đạo đức đạo điếc, vô đạo vô điếc…. búa la xua… đều
từ “comment écrire” mà ra.
Chúng ta gặp
nhà sư già quét dọn Tàng Kinh Các. Võ công cao tới đâu, đạo đức cao tới
đó.
Gặp Marx, khi ông chủ trương Cái Lý Thuyết, Théorie, dong duổi với
Cái Thực hành, Praxis, quyện vào nhau, triệt
tiêu lẫn nhau, sau cùng, hết lý thuyết, hết thực hành, chúng là 1 với
con người
hoàn toàn, l’homme total.
New Fiction:
"Luminous Airplanes"
A
high-concept novel worth reading
DTH par Minh Tran Huy
Bà trở thành biểu tượng ly khai
Việt. Giáo đường của con tim mang dấu ấn của một cái
nhìn phê bình chế độ.
Tuy nhiên, vào thời kỳ chống Mẽo cứu nước, bà cũng hết mình với VC lắm
lắm…
Tôi nghĩ, đó là 1 cuộc chiến
truyền thống chống kẻ xâm lăng, như
ngày xưa chống Tẫu, và, mặc dù bom Mẽo đổ xuống đầu chúng tôi như mưa,
tôi vị sốc nặng
khi nhận ra những người mà chúng tôi đối đầu thì cũng Mít, như chúng
tôi… Tôi ở
trong một đoàn văn công. Chúng tôi có những cuộc trình diễn văn nghệ
trước quân
đội, với khẩu hiệu: “Tiếng hát át tiếng bom”. Tôi làm bài ca, làm thơ,
và khi xứ
sở được thống nhất, tôi viết truyện ngắn. Rồi những kịch bản, để kiếm
sống,
trước khi đóng vai những tên mọi cho đám tướng tá, khi đám này xb Hồi
Ký. Tôi
nhìn ra cách vận hành của trò tuyên truyền, và khám phá ra sự thực hậu
trường
cuộc chiến. Kinh nghiệm này là cái khuôn của sự nổi loạn, phản kháng
của tôi. Tất
cả những người thân cận, thân quen của tôi thì đều chết, độc nhất tôi,
còn sống, và
như thế, tôi phải làm tròn cái vai trò chứng nhân của tôi. Ở Việt Nam,
người ta
phán, đời sống cá nhân chẳng là gì hết so với gia đình, tổ quốc, và cha
tôi
truyền xuống tới tôi, cái gọi là bổn phận, sự thờ phụng bổn phận. Chắc
chắn là
do điều này mà những nhân vật ở trong những cuốn tiểu thuyết của tôi
thì đều bị
nghiền nát, hoặc bởi truyền thống gia đình, xã hội, hoặc bởi chế độ.
Ðiều này
như trở thành 1 thứ mô típ tái đi tái lại, gần như vô thức.
Những phiền
lụy của bà với chính quyền bắt đầu với Những thiên đuơng mù, trong đó bà
tố cáo
những tang thương khốc hại của vụ cải cách ruộng đất…
Tôi nhớ là
Nguyễn Văn Linh [khi đó là Tổng Bí Thư Ðảng CS VC] đã mời tôi dùng cơm.
Tôi từ chối và nói rằng, trong khi tìm kiếm con đường chống lại quyền
lực,
tôi đâu có thì giờ lịch sự ngồi xuống dùng cơm với một ông vua. Khi ông
ta biết
tôi chẳng có chút động lòng về món quà mà ông dành cho tôi, là 1 ngôi
nhà đẹp
hay là 1 địa vị ngon cơm, thì lệnh ban ra là tịch thu tất cả những ấn
bản của Những thiên đường mù.
Rồi thì kể từ khi sau cuốn Tiểu
thuyết vô đề, tôi chính
thức hết còn hiện hữu như là một tiểu thuyết gia: tác phẩm bị cấm, và
điều này
hiệu lực đối với tất cả những tác phẩm tiếp theo sau, tôi bị trục xuất
ra khỏi Ðảng,
bị bỏ tù, và rồi bị cầm tù tại gia, với sự kiểm soát, theo dõi của VC.
Khi tôi bị bắt vào năm 1991, đám cớm VC giải thích thật rõ ràng
cho tôi là, tôi đếch có
1 tí quyền gì khi vô tù; không báo chí, không TV [không phải Tin Văn
nhe!], không
cây viết, không tờ giấy. Nhưng chúng cho phép tôi mang theo một cuốn
sách, hoặc về
y học, hoặc từ điển. Chúng muốn tôi tốn tiền mua sách một cách vô ích,
[tụi ngu dốt lâu lâu giở trò hài độc ác], bởi vì chúng quá hiểu, vào
tuổi của tôi
lúc đó, học cái gì được nữa, và chúng cũng rất rành, tôi đâu có biết
ngoại
ngữ! Thế là, để thách đố tụi khốn, tôi bèn chọn 1 cuốn từ điển
tiếng Tây, của cha tôi, và học tiếng Tây ở trong tù, nhờ vậy bây giờ
lèm bèm tiếng
Tẩy với cô, dù là tiếng bồi!
W.G. Sebald
Cali 8, 2011
Từ tủ sách của
VHQ
Vợ chồng GCC
& Nồi bánh chưng Tết @ Trại tị nạn Thái Lan cc 1990
Thời gian đầu
mới tới Trại, Gấu có nhận được tiếp tế của 1 số bạn bè, không phải bạn
quí, mà
là bạn thường, trong số đó, người lo cho Gấu nhiều nhất là Nguyễn Ðông
Ngạc, ở
Montreal. Và cái sự có được địa chỉ NDN quả là thật may mắn vô cùng.
Liền sau
khi thấy tên người đẹp trên măng sét báo Khiến Chán, mừng quá, GCC bèn viết
thư cầu cứu nữ văn sĩ, cũng bạn 1 thời, và được bà viết thư trả lời,
[hết mùa
vượt biển
rồi, đi trễ quá], và cho cái địa chỉ ông chủ tịch PEN hải ngoại, ra ý,
mi cầu cứu ông này này.
Đúng ra, là cái thư của vị
này, viết cho bà văn sĩ, bà biểu tôi giúp đỡ 1 "ông
bạn nào đó" của bà, mà lại không cho tôi biết, ông ta là ai, địa chỉ ở
đâu…
Gấu
viết thư cho ông ta, theo cái điạ chỉ ở bìa thư, kể rõ hoàn cảnh.
Chuyện có thể
ngưng tại đây, nếu không có những diễn biến tiếp theo.
Ðúng lúc đó, có
1 ông ở
trong trại, khi biết Gấu viết lách, mới hỏi, ông có quen Nguyễn Ðông
Ngạc không.
Gấu nói, quen quá, sao không, Ông ta bèn cho biết, ông là hàng xóm ở
VN, của
NDN. Và
cho địa chỉ NDN, ở Montreal.
Gấu bèn đi 1 đường cầu cứu bạn ta, nhận ngay
được 1 cái
money order 50 đô Canada, cùng thư chúc mừng, và thông báo,
tao đã gọi điện thoại cho Viên Linh, Ðịnh Nguyên… Yên chí lớn. Thể
nào tụi
nó cũng ra tay nghĩa hiệp.
Quả đúng như
thế. Viên Linh bèn phôn cho ông chủ tịch Văn bút hải ngoại, cùng lúc
phôn nhiều nơi. Nhờ những cú phôn liên tiếp như thế, ông chủ tịch PEN
mới
giở lại cái
hồ sơ cũ ra, đi một đường làm giấy chứng nhận, gửi cho Gấu, kèm sách
báo, tác phẩm
của ông, trong có cuốn bằng tiếng Anh, Ý Trời, The Will of Heaven….
Ui chao, giả
như không gặp được cái ông ở trại biết địa chỉ NDN, không biết ra sao!
|
|