Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Cảnh đẹp VN
Thu
2011
Thơ Mỗi Ngày
To My Older
Brother
How calmly
we walk
through the
days and months,
how softly
we sing
our black
lullaby,
how easily
wolves seize our brothers,
how gently
death
breathes,
how swiftly
ships swim
in our
arteries.
Gửi ông anh
của Gấu
Lặng lẽ làm
sao chúng ta tản bộ
Qua những ngày,
những tháng
Nhẹ nhàng làm
sao
Chúng ta hát
bài du em đen,
Dễ dàng làm
sao lũ sói VC
Tóm lấy mấy ông
anh của chúng ta!
Lịch sự làm
sao
Thần Chết thở
Mau lẹ làm
sao
Những con tầu
bơi
Trong động mạch
của chúng ta.
Tierra del
Fuego
You who see
our homes at night
and the
frail walls of our conscience,
you who hear our conversations
droning on like
sewing machines
-save me, tear me from sleep,
from
amnesia.
Why is
childhood-oh, tinfoil treasures,
oh, the
rustling of lead, lovely and foreboding -
our only origin, our only longing?
Why is
manhood, which takes the place of ripeness,
an endless highway,
Sahara
yellow?
After all,
you know there are days
when even thirst runs dry
and prayer's
lips harden.
Sometimes
the sun's coin dims
and life shrinks so small
that you
could tuck it
in the blue
gloves of the Gypsy who
predicts the future
for seven
generations back
and then in
some other little town
in the south a charlatan
decides to
destroy you,
me, and
himself.
You who see
the whites of our eyes,
you who hide like a bullfinch
in the
rowans,
like a
falcon
in the
clouds' warm stockings
-open the
boxes full of song,
open the
blood that pulses in aortas
of animals and stones,
light
lanterns in black gardens.
Nameless,
unseen, silent,
save me from anesthesia,
take me to Tierra del Fuego,
take me
where the rivers
flow
straight up, horizontal rivers
flowing up and down.
Adam
Zagajewski
Tưởng niệm
Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk,
cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném
những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc
Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ
hành cuộn.
Mặt trời rùng
mình sau những ống khói
Như một tên
lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng
Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về
cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu
với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu
thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến
Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y
chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con
mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ
Bạch Hải
Sau đó, là một
cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo
choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi
nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội
quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ
thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi
sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc,
bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm
cứ thành phố.
Crucifixion
Crucified
Jesus on a yellow cross
Washed down
by cold rain
Spreads his
arms wide
As if
playing the accordion.
He bends his
ear down to the instrument
Better to
hear its sound
Unaware the
passing tinker took it
When he went
by cold and hungry.
They all
abandoned him, haughtily,
The
revelers, the dancers
Only
sparrows, crickets, and snowflakes
Still dance
around him.
The cross is
at the crossroads
Where the
village road meets the country road.
If you hear
music, stop and listen!
It's true,
you can hear the music!
Ljubomir
Simovic
1935-
Simonic sinh
tại Uzice, học văn và triết tại Ðại học Belgrade. Thành công cả về viết
kịch và
làm thơ. Kể từ khi cuốn sách đầu tay, Slavic
Elegies, xb năm 1958, ông có thêm
một số tuyển tập và 1 cuốn thơ tuyển.
Ðóng đinh Chúa
Chúa Giê Su
bị đóng đinh trên cây thập tự vàng
Mưa lạnh dội
xuống, rửa sạch Người
Nguời vươn rộng
tay
Như chơi đàn
accordion.
Người nghiêng
tai xuống gần nhạc cụ
Như để nghe
rõ thêm tiếng đàn
Không để ý đến
anh hàn nồi đi qua,
Lạnh và đói,
Chôm mẹ cây đàn.
Chúng bỏ rơi
Người, lũ người ngạo mạn
Lũ ham vui, đám
nhảy nhót
Chỉ có chim
sẻ, dế, và những bông tuyết
Vẫn khiêu vũ
quanh Người.
Cây thập tự
thì ở ngã tư,
Khi đường làng
gặp đường tỉnh
Nếu bạn nghe
âm nhạc
Hãy ngưng lại,
và lắng nghe
Thực đấy, bạn
có thể nghe âm nhạc!
ONDAATJE
Thơ
JHV
Thủ bút JHV
Nobel 2011
Steiner,
trong bài viết đã đăng trên TV, phán, chỉ thi sĩ mới là một thứ dịch
giả số 1,
theo nghĩa, chỉ mấy ông đó mới rành tiếng của nước ông ấy, và khi dịch,
sẽ tìm
ra được từ tương đương. Áp dụng câu này, vô xứ Mít, thì thấy, hoặc nhận
định của
Steiner hơi bị nhảm, hoặc những ông thi sĩ Mít không rành tiếng Mít và
như thế,
đếch phải là thi sĩ.
GCC mới đọc bài viết của
thi sĩ Ngu Yên về nhà thơ mới đợp Nobel. Xin trích dẫn ở
đây, như là 1 minh họa ngược lại cái câu của Steiner:
Giải thưởng
văn chương Nobel 2011 trao cho ông [TT] với một lý do tóm gọn: Vì những
hình tượng
cô đọng, ý tứ đa nghĩa, ông đã cho chúng ta một con đường mới đi vào sự
thật.
Ngu Yên: Nháp: Tomas Tranströmer
Câu tiếng Anh:
The Nobel Prize in Literature
2011 was awarded to Tomas
Tranströmer "because, through his condensed, translucent images, he
gives us fresh access to reality".
Nobelprize.org
Nobel văn chương 2011 được trao
cho Tomas Tranströmer, ‘bởi vì,
qua những hình ảnh cô đọng, trong sáng của mình, ông mời chúng ta nhập
vô thực
tại, bằng một cái ngõ tươi mát, mới mẻ”.
[GCC dịch]
Hình ảnh, image, thì NY dịch
là hình
tượng, symbol, figure, rồi
ông phịa thêm "ý tứ đa nghĩa", rồi ông thay thực
tại, reality, bằng sự thật, truth.
Những từ trên,
đâu có khó,
nhưng ông dịch
ẩu.
Dịch như thế
làm sao làm thơ
của chính
mình cho ra hồn được?
GCC lại nhớ
đến câu của Cioran,
tôi mơ
1 thế giới ở đó người ta có thể chết vì 1 cái dấu phảy.
Vẫn
chuyện dịch dọt: Vết thương di tản.
Tình cờ GCC giở cuốn NN dịch
Kundera, Những di chúc bị phản bội.
Cuốn này, Gấu mua, lần về Hà
Nội, nhưng chưa từng đọc, vì lỡ đọc rồi, bản
tiếng Tây & tiếng Anh.
NN dịch từ "émigration" là di
tản. Theo Gấu, dịch là
di trú, di cư, lưu vong, thì đều OK, nhưng di tản, thì hơi bị nhảm. Di
tản, có
tính chớp nhoáng, tạm thời, giai đoạn, Di tản, sơ tán, là theo nghĩa
này.
Di
tản cái chó gì suốt cả 1 đời, nếu không cũng vài ba chục năm!
Có vẻ "Người" giống
nhà văn NMG hải ngoại, rất ghét từ "lưu vong"!
Do
đọc K, đúng cái đoạn mà ông
nói về lưu vong là vấn đề của số học, Gấu viết bài “Mùa Thu, những di dân”, để
phản biện [ngầm] PD, khi ông thổi VC dọn đường về trong lần trả lời
phỏng vấn tờ gió đông.
Di
dân, không phải di tản, GCC nói lại.
PD thì đúng là di tản, dù lâu cách mấy!
Di tản, là từ
NN chôm của VNCH. VC đã sẵn từ sơ tán rồi. Bọn Ngụy khi đó, để giải
thích cái vụ
mất cao nguyên, coi đây là “di tản chiến thuật”, giống như bàn tay thu
lại thành
quả đấm, để ra đòn!
Cái từ di tản, nếu phải
dịch ngược lại, thì là "evacuation", theo GCC.
*
Nobody reads
poetry anymore,
so who the
hell are you
I see bend
over this book?
Aleksandar
Ristovic
Chẳng ai đọc
thơ nữa,
Nếu vậy mi là
ai,
Cái kẻ cúi
xuống cuốn sách này?
Câu trên,
Charles Simic dùng làm đề từ cho Ngựa có 6 chân, The Horse
Has Six Legs, tuyển tập thơ Serbian.
Những kẻ dè
bỉu thơ, không chỉ là lũ mắt trắng dã, trong số đó có kẻ mang chai XO
đến bàn
thơ, và làm PNH bực mình.
Người xưa nói, nghe để rửa thì thà đừng nghe. (1)
Dè bỉu thơ
thứ thiệt, thì phải là thi sĩ, chứ không phải phường tục tử.
“Tại sao thi sĩ
trong cái thời khốn kiếp như thế”? Holderlin đã từng dè bỉu thơ, đâu
chỉ vì… chai rượu?
MT thì đã từng
bỏ chạy thơ, đến khi không thể bỏ chạy được nữa, thì đành phải làm thơ,
và cả đời,
chỉ có tí thơ đó, ba thứ tiểu thuyết đăng báo kiếm sống, ai thèm đọc
nữa.
Không dè bỉu, mà phải
nói, tởm thơ, là Rimbaud. Ông tởm thơ đến nỗi bỏ đi làm 1 thằng bồi,
cho 1 ông chủ chuyên buôn bán cà phê, ở mãi xứ Mọi, và sau đó, bỏ đi
làm lái súng.
Trên TLS có
1 bài về Rimbaud, TV đã nhắc tới, nay tính coi lại thì lại chẳng thấy,
may
sao có
bài trên tờ Người Nữu Ước,
cũng thật thú vị về ông, về thơ, về nghiệp
thơ ngắn
ngủi của ông.
Post ở đây, thay vì lèm bèm về cõi thơ Mít.
Bài
viết tuyệt cú mèo! GCC cứ hăm he dịch, vì nghĩ đến ông anh nhà thơ,
đã từng tính
chơi 1 câu của R. làm đề từ cho Bếp
Lửa:
Tớ
là 1 kẻ
khác. Je est un autre
Liệu,
TT cũng nghĩ như thế về ông?
Một
kẻ khác?
Rebel Rebel
(The
Surrealist Andre Breton described Rimbaud as "a veritable god of
puberty.") Like J. D. Salinger, another beloved celebrant of youthful
turmoil, Rimbaud may simply have found that, as he grew up, the urgency
of his
subject was gone. There was nothing left to say.
"one
big reason, perhaps obvious, is he grew up ... the child in him died."
I
suspect that the chances that Rimbaud will become the bible of your
life are
inversely proportional to the age at which you first discover him.
(1)
Hứa Do được
tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.
Hứa Do từ chối,
cười mà về rồi ra suối rửa tai.
Khi đó, Sào
Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại
sao.
Hứa Do trả lời:
"Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua."
Sào Phủ bèn
dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống.
Hứa Do hỏi tại
sao, Sào Phủ đáp: "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm."
Sào Phủ lại
nói:
"Anh đi
đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại
bụng anh vẫn
còn danh lợi."
Huỳnh Tịnh Của
phê rằng, "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."
Nguồn
Sợ rằng, cái
vụ tờ VN của VC đăng bài của PNH, cũng có mùi đánh tiếng, “vời về”,
cũng nên, đấy!
Chẳng thế mà
GCC đọc 1 cái còm, “hai bên đang xích lại gần nhau”!
Nhưng, người
khinh miệt thơ số 1 thì phải là Adorno, và ông bị nhà văn hàng đầu hải
ngoại đã
mất, là VD, chê, vung tay quá trán.
Adorno phán,
sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man.
Cho đến nay,
chỉ mới có một, hai mống, là dám “phản biện” Adorno. Ðó là Paul Celan,
Romania gốc Do Thái, nhà thơ, W.G. Sebald, nhà văn Ðức, và Primo Levi,
Ý gốc Do Thái.
Richard Eder, trên tờ The NY Times
Book Review, phán:
Sebald đứng
với Primo Levi như là phát ngôn viên số 1 về Holocaust, và với Levi, kẻ
phản biện
số 1, đối với câu phán của Adorno, rằng sau Lò Thiêu, không thể có nghệ
thuật.
[Sebald stands with Primo Levi as the prime speaker of the Holocaust
and,
with him, the prime contradiction of Adorno's dictum that after it,
there can be no art].
Cái vụ cho Tomas
Tranströmer
Nobel, là cũng liên quan xa xa tới Lò Thiêu đấy.
Cũng là 1 cách phản biện câu
của Adorno, theo GCC.
Thi sĩ trước đó được Nobel, Szymborska, từ Lò Cải Tạo
Ba
Lan mà ra. (1)
Ngu Yên dùng chữ Tâm Thiền là cũng có ý này ?
Liệu... Thiền chống lại được Cái Ác Nazi, VC ?
(1)
Staring
Through the Stitches
October 8,
1998
Helen
Vendler
Nhìn
qua những mũi khâu
Hai
nhà thơ đáng mến thời hậu chiến, Wislawa Szymborska, (sinh 1923 tại Ba
Lan), và
Tomas Tranströme, sinh 1931 tại Thụy Ðiển) băn khoăn trước những hụt
hẫng về mặt
đạo đức của cả tôn giáo hình thức và chủ nghĩa lạc quan Mác xít, đã tìm
kiếm những
hiểu biết tinh thần ở bên ngoài những định chế đã được tổ chức, an bài.
Những ai thực sự
sống thời
của họ, thực sự trải qua những năm tháng đó, thì cũng có cùng suy nghĩ
như vậy.
Nhưng thi sĩ, và văn sĩ, một khi âu lo về những gì xẩy ra trong xã hội,
họ
phải cô
động những câu hỏi xã hội thành những câu hỏi cá nhân, và phải chuyển
hoá ngôn
ngữ viết, bằng cách thổi vào đó nhịp điệu, và âm thanh.
Cả hai Szymborska và
Tranströmer
thì đều là những nhà thơ ngắn gọn, cực ngắn gọn: Szymborska tra hỏi những chuyển động
có tính quy ước của tư tưởng trong cuộc sống tâm thần và xã hội của
chúng ta,
trong khi Tranströmer trầm tư về những sức mạnh vô hình, vô thức nằm
bên dưới những
khoảnh khắc âu lo, tỉnh thức.
Szymborska được Nobel năm 1996, và
bây giờ,
2011, tới lượt Tranströmer.
*
Cái vòng hoa
Nobel “tạo một lối đi mới mẻ vô thực tại”, và luôn cả cái chuyện trao
Nobel cho
nhà thơ Thụy Ðiển, bề ngoài có vẻ như là 1 phản ứng trước những lời chỉ
trích giải Nobel những năm gần đây [lại tụi Mafia Do Thái], làm chúng
ta quên đi, cái lý do chính, tại làm sao ông này, Tomas
Tranströme, sau bà kia, Wislawa
Szymborska?
Câu
trả lời, của... GCC:
Thơ Wislawa
Szymborska là thơ của điêu tàn,
đêm đen, con phượng
hoàng thò mỏ ra khỏi Lò Thiêu, còn của Tomas Tranströme, quả đúng là của 1 cõi
riêng, vùng
bán đảo Scandinavia:
Phong cảnh
thơ TT thì thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển
lởm chởm của
quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây thông, vân sam u tối, chớp bão
bất thần,
biển không ngừng cựa quậy và những mùa đông dài lê thê, chẳng chịu chấm
dứt,
phong cảnh đó được phản chiếu vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong
thẳng tuột
và những hình ảnh lôi cuốn, không thể nào quên được. Thường được nhắc
tới qua
cái nick “nhà thơ buzzard, chim ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên
trên phong
cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép], nhìn thế giới với 1 sự
chính xác
hầu như huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu có vẻ phơi mở, không
nét đặc
biệt, và rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến chi tiết sự kiện,
tiếng thơ
lúc đầu có vẻ thanh đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế nhị, sắc
sảo, và rất
ư là riêng tư, thân mật đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.
Nobel Thơ
năm nay làm nhớ tới Horace [lại Horace!] Ông này tự gọi mình là Musarum
sacerdos [Tu sĩ của Thánh Nữ, Nữ Thần Thi
Ca, a priest of the
Muses], và tuyên bố: “Odi profanum vulgus
et arceo”. [Tớ ghét đám đông phàm tục, báng bổ và giữ 1 khoảng cách
với họ].\
"Đôi
khi thiên tài này trở nên âm u, và chìm vào cái giếng chua cay là trái
tim của
mình."
Ghi
chú
trong ngày
Hai câu tục
ngữ sau đây, chắc là nghe NTV đọc, rồi ghi lại, ở đằng sau 1 bản
phocopy, 1 bài
viết của 1 tờ báo của thư viện.
Bài về Walter Benjanin, The Arcades
Project. Chỉ là 1 mẩu của 1 bài viết lớn, không biết báo nào.
Ðọc loáng thoáng, thấy câu này:
The Arcades
Project is not, in any ready sense,
"legible". It is an "old curiosity shop” (Benjamin adduces
Dickens's title repeatedly), an Aladdin's treasure-cave of an attic, a
metaphysical-historical
rummage room and uncannily furnished doll's house in which to browse,
to
meditate precisely as do the flâneur,
ragpicker and collector in Benjamin's own staging.
1910: Việt
Nam mới có thợ cạo.
Lấy ai cũng
một tấm chồng,
Lấy anh thợ
cạo sợi lông không còn.
Lấy Tây phải
ngủ với bồi.
Le Monde
Littératures
Dossiers & Documents Juin 2010
“Always the
same world, yet one has patience.”
Walter Benjamin
Về Cỏ
Một phút ngừng
say
Bấc trĩu hoa
đèn nhựa úa nâu
Phải say nằm
khóc mộng ban đầu
Bước chân
song sóng vòng tay mở
Giạo ấy người
ơi xa lắm đâu
Chớm nụ tiếc
cho tình quá ngát
Mà thương trời
bể quá cao sâu
Tiếc thương
lẻn khói vào tâm trí
Mưa gió tàn đêm
lộng quán sầu
Vũ Hoàng
Chương: Thơ Say
DTH par Minh Tran Huy
Bà trở thành biểu tượng ly khai
Việt. Giáo đường của con tim mang dấu ấn của một cái
nhìn phê bình chế độ.
Tuy nhiên, vào thời kỳ chống Mẽo cứu nước, bà cũng hết mình với VC lắm
lắm…
Tôi nghĩ, đó là 1 cuộc chiến
truyền thống chống kẻ xâm lăng, như
ngày xưa chống Tẫu, và, mặc dù bom Mẽo đổ xuống đầu chúng tôi như mưa,
tôi vị sốc nặng
khi nhận ra những người mà chúng tôi đối đầu thì cũng Mít, như chúng
tôi… Tôi ở
trong một đoàn văn công. Chúng tôi có những cuộc trình diễn văn nghệ
trước quân
đội, với khẩu hiệu: “Tiếng hát át tiếng bom”. Tôi làm bài ca, làm thơ,
và khi xứ
sở được thống nhất, tôi viết truyện ngắn. Rồi những kịch bản, để kiếm
sống,
trước khi đóng vai những tên mọi cho đám tướng tá, khi đám này xb Hồi
Ký. Tôi
nhìn ra cách vận hành của trò tuyên truyền, và khám phá ra sự thực hậu
trường
cuộc chiến. Kinh nghiệm này là cái khuôn của sự nổi loạn, phản kháng
của tôi. Tất
cả những người thân cận, thân quen của tôi thì đều chết, độc nhất tôi,
còn sống, và
như thế, tôi phải làm tròn cái vai trò chứng nhân của tôi. Ở Việt Nam,
người ta
phán, đời sống cá nhân chẳng là gì hết so với gia đình, tổ quốc, và cha
tôi
truyền xuống tới tôi, cái gọi là bổn phận, sự thờ phụng bổn phận. Chắc
chắn là
do điều này mà những nhân vật ở trong những cuốn tiểu thuyết của tôi
thì đều bị
nghiền nát, hoặc bởi truyền thống gia đình, xã hội, hoặc bởi chế độ.
Ðiều này
như trở thành 1 thứ mô típ tái đi tái lại, gần như vô thức.
W.G. Sebald
Cali 8, 2011
Cuốn
này chắc cũng không có ở VN
Tôi đọc Trúc
Chi, và tưởng tượng, mình cũng đang ngấm chất văn chương của ông, theo
kiểu
nhân vật cái bang ngấm chất trà của một thời vang bóng, theo kiểu Trúc
Chi ngấm
chất rượu bữa gặp mặt, hay như... nhân vật xưng tôi ngấm tiếng đàn của
một người
đẹp không thể đàn được nữa. Tôi cứ hồi hộp, cái ông này, làm thế nào
bây giờ,
làm sao lại làm khó người yêu xưa, ở xứ người, bằng tiếng Cầm Dương
Xanh (12)
ngày nào, ngày nào...
Nghe Đàn
(13) mở ra bằng một lời nhạc: Dạo ấy đời đẹp thiệt, đẹp hơn bây giờ...
Tôi nghiệm
ra một điều, trí nhớ của ông bạn là một nhạc viện, hơn là một thư viện.
Hình
như cái tật của ông, mỗi lần hồi tưởng, là phải bắt đầu bằng một lời
nhạc. Tôi
đã từng "nhờ ông nhớ giùm" một câu hát, để choàng lên ý thơ cổ mà ông
vua mê gái Tự Đức đã mô phỏng, tất cả chỉ để "choàng hoa" cho một cô
bạn "của mình":
Đâu con phố
đơn côi,
Như tên thường
gọi
Nơi bóng cũ,
Gương xưa,
Gặp gỡ?
(Where is
that street,
called
lonely street,
where broken
dreams
and memories
meet?
... Đập cổ
kính ra tìm lấy bóng).
Một chuyến đi
Ui chao,
mình khen mình, mình thổi mình. Cái bài viết này, là bài viết cuối cùng
Gấu viết
cho tờ Văn Học, mục Tạp Ghi, và quả nó đã làm được cái điều tác giả của
nó mong
muốn, một bi khúc, cho một đoạn đời, sau nhớ lại, sẽ chỉ còn bóng
dáng của
mấy người bạn, bạn văn, Trúc Chi, Tạ Chí Ðại Trường….
Nhưng không
chỉ có thế!
Người mê nhất
bài viết này, là 1 vị độc giả TV. Tuyệt, quá tuyệt.
Vị đó sau
này giận Gấu, không thèm mail nữa.
Nhân đây,
nhân dịp Noel, cầu mong mọi điều tốt lành, cho tất cả.
NQT
|
|