Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Tiệm Sách
Báo Tẩy, Toronto
Tưởng niệm
Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk,
cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném
những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc
Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ
hành cuộn.
Mặt trời rùng
mình sau những ống khói
Như một tên
lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng
Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về
cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu
với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu
thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến
Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y
chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con
mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ
Bạch Hải
Sau đó, là một
cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo
choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi
nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội
quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ
thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi
sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc,
bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm
cứ thành phố.
DEATH'S
BOOK OF JOKES
Eager to explain how the
wristwatch works
As he shadows me on the street.
He could be the Grim Reaper because he wears black,
Is pale-faced and grimly officious.
The clock on the old Unitarian
church
Had stopped at five to eleven.
The one over the Savings Bank
Said it was exactly three o'clock
When he came after me with his
watch,
Whose gothic numerals and absence of hands
He wanted me to inspect and admire
Before I burst out laughing at its price.
Cuốn sách tiếu lâm của Thần Chết
Hăm hở giải thích cái đồng
hồ đeo tay hoạt động như thế nào
Khi ông phủ bóng tôi trên đường phố
Ông có thể là Grim Reaper vì bận bộ đồ đen
Mặt nhợt nhạt và cực kỳ lăng xăng hết chịu nổi
Chiếc đồng hồ nhà thờ cổ
Unitarian
Ngưng chạy lúc 5 giờ 17 phút
Cái ở Ngân Hàng Tiết Kiệm phán,
Bây giờ đúng 3 giờ
Khi ông ta đi theo tôi với
chiếc đồng hồ của mình
Giờ, là những con số La Mã,
Không có kim
Ông ta muốn tôi kiểm tra và trầm trồ
Trước khi tôi phá lên cười vì cái giá của nó.
Charles
Simic
Adam
Zagajewski I
ONDAATJE
Thơ
JHV
lộc khổ đau
để nhớ joseph…
1.
người đuối mộng đâu thiên trước
hồ quên con nước sang bờ
rờ rỡ lần trang cựu ước
xa. đồng vọng mãi tiếng thơ
2.
mưa xuống lềnh bềnh cỏ mộ
âm âm từ cõi sấm truyền
một sớm. về nương bóng cổ
kiếp khổ tu trút áo huyền
3.
trăng tàn. ai rải khúc sầu
ấm ức ngực cuồng thổ máu
huyết hoa đẫm giấc mộng đầu
lộc khổ đau đời thẩm thấu…
1996
Nguyễn Thanh
Châu
Trang thơ Tomas Transtromer
Nobel 2011
Night
Thoughts
Phan Nhiên Hạo
– Về việc báo Văn Nghệ đăng lại bài của tôi
Posted on 05.11.2011
by runchamcham
Cách đây vài
hôm, tôi rất ngạc nhiên khi nghe một người quen ở Việt Nam cho biết mới
đọc bài
viết “Nobel Thơ 2011, Nghĩ Về Thơ” của Phan Nhiên Hạo trên báo Văn Nghệ
của Hội
Nhà Văn Việt Nam, số mới ra. Đây nguyên là bài viết “Nobel Thơ 2011,
Nghĩ Về
Thơ Việt” của tôi đã đăng trên trang mạng litviet ngày 8 tháng 10,
2011. Trong
khi đang chờ người quen ở Việt Nam giúp chụp lại bài báo gởi đến tôi để
xem thực
hư thế nào, hôm nay tôi đã tìm được bản chụp bài đăng trên báo Văn Nghệ
từ một
trang blog. Báo Văn Nghệ đã đăng lại bài viết này mà không hề liên lạc,
hỏi ý
kiến tôi. Tệ hại hơn, báo Văn Nghệ đã tự ý cắt xén nhiều đoạn dài trong
bài,
ngay cả tựa đề cũng thay đổi.
Tôi rất bất
bình và phản đối việc làm tùy tiện này của báo Văn Nghệ.
Bài đăng lại
trên báo Văn Nghệ (Việt Nam)
Báo Văn
Nghệ VC [chắc tờ của Thành Hồ], có lần lấy bài của Gấu, thiến 1
khúc, Nguyễn Quốc Trụ, còn Quốc Trụ,
theo một vị ở trong nước cho biết.
Ðểu thật.
Mất mẹ 1
khúc, thì sao làm ăn?
Lần trước, trước 1975, bạn của đặc công DH cũng đã tính thiến Gấu, khi
cho nổ
hai trái claymore ở bờ sông Sài Gòn, may sao thoát. Ông Trưởng Ðài VTD
đi cùng,
ngồi kế bên, bị.
Xém mất giống Gấu Cà Chớn rồi!
Một lũ đồ tể
văn nghệ, khơi khơi lấy tác phẩm của người khác, tha hồ đâm chém,
tùng xẻo,
móc mắt, cắt chim, sao cho vừa cái giường kiểm duyệt của VC, vậy mà
là một… "việc làm tùy tiện" ư?
Sử dụng chữ nghĩa như thế thì làm sao mà làm thơ "hay" cho được?
GCC đã nói rồi.
Cái sự kiện văn chương Mít ở hải ngoại đi xuống, không phải là do dốt
tiếng Anh
tiếng U, mà là do sử dụng tiếng Mít đếch nên thân.
Ðám con nít
mới lớn thì rành tiếng Anh tiếng U, nhưng không rành tiếng Việt. “Ðủ”
và “Cần”
coi như nhau. “Yếu điểm” thì cũng giống như “nhược điểm”. Fail,
thất bại, không thành công [Không thành công thì thành nhân,
Nguyễn Thái Học], như trong trường hợp chửi, ỉa vào mặt nhà nước VC và bị chúng
bắt bớ, bỏ tù.. thì là... "vấp ngã".
Vậy mà bày đặt
làm thơ, làm nhà biên khảo, làm nhà hiệu đính!
Làm cớm thì
OK.
Chúng ta phải
biết cám ơn những người đi đứng không nên thân và bị “vấp ngã”!
Tớ phản đối mấy ông VC về
cái việc làm tùy tiện là lấy bài của tớ cắt
xén đăng
báo VC, nhưng tớ cám ơn, nhờ vậy, nhiều người trong nước biết đến tớ,
đọc tớ!
Ðã xẩy ra 1 trường hợp như
vậy. Một ông nhà văn Mít hải ngoại, được 1
tên đầu
nậu VC ở Hà Nội tự tiện lấy bài viết in thành sách, chung với 1 số tác
giả
khác, mừng như phát điên, khoe um lên, tớ được nhà nước VC quan tâm tới
rồi!
NQT
Bài viết của
PNH, chủ yếu là để xử tội thơ Mít, nhân dịp trọng đại, 1 nhà thơ được
Nobel văn
học. Nhưng lũ khốn cắt sạch mọi liên quan tới Mít, ngay cái từ Mít ở
trong cái tít cũng
bị thiến.
Trâng tráo, thô bỉ đến như thế, mà ông coi là một việc làm tùy tiện?
Thiến như thế,
bài viết còn gì?
Vậy mà GCC
có đọc 1 cái còm, thổi tay thiến, thiện nghệ, bài thiến đi hay hơn bài
chưa được
thiến!
PNH viết từ thời còn tờ
VHNT của PCL. Gấu đọc ông từ hồi đó
đó, nhưng không “mặn” [chôm từ này của bạn quí].
Thơ của ông trịnh trọng quá, không hợp tạng của Gấu.
Cái sự dốt nát
tiếng Mít ảnh hưởng không chỉ tới văn chương Mít viết bằng tiếng Mít,
mà còn tới chính
cái thứ văn chương Mít viết bằng tiếng Anh, tiếng U.
Nghe thì quái đản nhưng sự
thực là vậy.
Có hai người đã từng phát biểu, về hai vấn đề, tưởng chẳng liên
quan, nhưng chỉ là một, theo GCC.
Một là
Salman Rushdie, ông này phán, chinh phục tiếng Anh là hoàn tất tiến
trình giải
phóng của chúng ta.
Một là Linda
Lê, hoàn tất tiến trình giải phóng nhờ mang trong lòng 1 đứa bé Việt
Nam đã chết.
Sở dĩ cõi văn
Mít viết bằng tiếng Anh tiếng U, ít ai thành công, ngoại trừ một Linda
Lê, thí dụ,
ấy là vì những tác giả của nó đếch có tí quan tâm đến tiếng Việt, đếch
ai cưu
mang một đứa con nít Việt đã chết ở trong lòng.
GCC thực sự
không tin một ông một bà viết tiếng Việt không nên thân, theo nghĩa
biểu tượng
nhe, mà lại có thể trở thành 1 nhà văn viết bằng tiếng nước ngoài bậc
thầy.
Tùy tiện. Tùy
đó, tiện đó, thì chơi luôn. Có thể PNH chỉ sử dụng từ này theo cái
nghĩa “tùy
tiện” như vậy.
Ông nghĩ tụi khốn chắc là cũng tính ve vuốt gì mình đây, nên mới
trịnh trọng lấy bài của mình đăng ở ngay trang nhất của tờ báo văn học
số 1 của
nhà nước ta. Và tất nhiên, một khi đăng như thế, thì phải lược bỏ những
gì “nhạy
cảm” chứ. Ông cũng bực chứ, làm sao không, nhưng thôi tha cho nó, nó có
quí mình
thì nó mới trịnh trọng như thế chứ!
Ông không bực
như Gấu. Hai cái bực khác nhau.
Khi TV link
cái bài viết của PNH, GCC cũng tính đi vài đường về những phát biểu của
PNH về
Thơ ở trong đó.
Nhưng, may quá, chưa kịp lèm bèm thì nó đã được VC vừa cắt [thiến]
vừa thổi [đăng trang bìa tờ báo số 1 về văn học của VC].
Tiếng Việt của
PNH, GCC sợ cũng không được "mặn". Ông viết: “Thơ luôn bị dè biểu và
coi thường, đôi khi từ chính cửa miệng những nhà thơ".
Dè bỉu mới đúng.
Tiếng Việt
khó lắm. Nhưng tiếng Anh tiếng U cũng khó chẳng kém. Nhức nhối nhất, là
câu hỏi,
anh học tiếng Anh tiếng U để làm gì? Sở dĩ nhiều đấng Mít rất rành
tiếng Tẩy, mà
mới chỉ có Linda Lê thành công, là vì đám Mít học tiếng Tây của chúng
ta, vào cái
khi đất nước đang được cuộc chiến hứa hẹn những điều khủng khiếp nhất,
thì đều
coi, chỉ có cách đó, thì thoát chết.
Tẩu vi thượng sách!
Bạn chỉ có
thể học tiếng ngoại để rành tiếng Mít, thì mới hy vọng trở thành nhà
văn, nhà
thơ!
Đây là 1 hệ
luận từ câu của Rushdie. Tác phẩm của ông không phải chỉ chinh phục
tiếng Anh, mà còn đem
đến cho nó món quà vô giá, là những tác phẩm viết bằng tiếng Anh của
những tên
di dân, bảnh hơn tiếng Anh nguyên thuỷ, tất nhiên, vì trong đó có mùi
Ấn, mùi cà
ri.
Tiếng Việt rất
khó.
TTT có lần bị
NTV chỉnh, dùng tiếng Việt sai, trong 1 lần bên bàn
cà phê sáng. Không biết sao, câu chuyện liên quan chiếc quần chân què
của phụ nữ. Theo, TTT “chân hoè” mới đúng, vì ông nghĩ, đây là loại
quần phụ nữ
mặc khi có tháng. NTV nói, không phải, đây là thứ quần do thiếu vải,
phải lấy 1
khúc ở nơi khác đắp vô, thành 1 cái chân thứ ba, “chân què”.
*
Steiner,
trong bài viết đã đăng trên TV, phán, chỉ thi sĩ mới là một thứ dịch
giả số 1,
theo nghĩa, chỉ mấy ông đó mới rành tiếng của nước ông ấy, và khi dịch,
sẽ tìm
ra được từ tương đương. Áp dụng câu này, vô xứ Mít, thì thấy, hoặc nhận
định của
Steiner hơi bị nhảm, hoặc những ông thi sĩ Mít không rành tiếng Mít và
như thế,
đếch phải là thi sĩ.
GCC mới đọc bài viết của
thi sĩ Ngu Yên về nhà thơ mới đợp Nobel. Xin trích dẫn ở
đây, như là 1 minh họa ngược lại cái câu của Steiner:
Giải thưởng
văn chương Nobel 2011 trao cho ông [TT] với một lý do tóm gọn: Vì những
hình tượng
cô đọng, ý tứ đa nghĩa, ông đã cho chúng ta một con đường mới đi vào sự
thật.
Ngu Yên: Nháp: Tomas Tranströmer
Câu tiếng Anh:
The Nobel Prize in Literature
2011 was awarded to Tomas
Tranströmer "because, through his condensed, translucent images, he
gives us fresh access to reality".
Nobelprize.org
Nobel văn chương 2011 được trao
cho Tomas Tranströmer, ‘bởi vì,
qua những hình ảnh cô đọng, trong sáng của mình, ông mời chúng ta nhập
vô thực
tại, bằng một cái ngõ tươi mát, mới mẻ”.
[GCC dịch]
Hình ảnh, images, thì NY dịch
là hình
tượng, symbole, figure, rồi
ông phịa ra thêm "ý tứ đa nghĩa", rồi ông thay thực
tại, reality, bằng sự thật, truth.
Những từ trên, đâu có khó,
nhưng ông dịch
ẩu.
Dịch như thế làm sao làm thơ
của chính
mình cho ra hồn được?
GCC lại nhớ đến câu của Cioran,
tôi mơ
1 thế giới ở đó người ta có thể chết vì 1 cái dấu phảy.
Thơ TT cực kiệm từ, mấy đấng
dịch thì
cứ thêm từ tưới hột sen, đúng là “chửi bố” thơ của ông ta!
Số ML tháng Mười có mấy bài OK. Bài về Czeslaw Milosz, nhân 100 năm
sinh của
ông.
Nếu thiên hướng
của nhà thơ, là chứng nhân của thời mình, thì thiên hướng đó đòi hỏi,
nhà thơ phải
tìm cho ra 1 thể thơ, nếu không thì cũng chẳng đi đến đâu [sans
laquelle l’entreprise
est vouée à l’échec].
Khi TTT xuất hiện, ông
phải tìm cho ra thể thơ tự do, để thực hiện cái
thiên hướng "chứng nhân" của ông. Và, nếu như thế, đâu phải tự dưng,
‘tùy tiện,
tùy hứng” mà có [thể] thơ tự do?
Bài phỏng vấn
Roth: Làm thế nào, trong 1 cuốn sách mỏng dính, mà bạn ra đòn hạ gục
địch thủ? Tôi
bị cầm tù bởi cõi thực.
Vargas
Llosa: Nếu đời như nó là thì làm sao nó thoả mãn được cơn khát vĩnh cửu
của ta?
Prix Goncourt won by 'Sunday writer'
"Nhà văn Chủ Nhật" thắng
Goncourt
A biology teacher from Lyon has won
France's top literary prize, the Prix
Goncourt, for his first novel.
Alexis Jenni, who describes himself
as
just a part-time author – a "Sunday writer" – was named winner of the
Goncourt yesterday lunchtime after the Académie Française jury voted by
five to
three to award his debut L'Art français de la guerre (The French Art of
War)
the prize ahead of the award-winning author Carole Martinez. The
Goncourt is
worth a token €10 but guarantees the winner sales of at least 400,000
copies.
A journey through France's military
history in Indochina, Algeria and at home, Jenni's 600-page novel is
told
through the eyes of Victorien Salagnon, a war veteran who becomes a
painter,
and the young man he teaches to paint in exchange for writing his
story.
""I saw the river of blood which flows through my peaceful town, I
saw the French art of war, which never changes, and I saw the turmoil
which
always happens for the same reasons, for French reasons which never
change," writes Jenni in the novel. "Victorien Salagnon gave me all
of time, through war which haunts our language."
Moroccan poet and writer Tahar Ben
Jelloun, on the jury for the Goncourt, described the winning novel as
"a
great literary work which touched on the history of France" in
French paper Le Figaro. Thanks
to Jenni, he said, "millions of young people will reflect on the war in
Indochina, in Algeria, in France today". His fellow jury member Bernard
Pivot said the novel was "innovative, interesting, exciting [and]
sublime".
Nhà thơ, nhà văn Ma Rốc,
Tahar Ben Jelloun, trong ban
giám khảo, phán, nhờ Jenni, "hàng triệu người trẻ ngày nay sẽ có cái
nhìn
về cuộc chiến ở Ðông Dương, Algeria, và ở Pháp".
Bernard Pivot, cũng trong
ban giám khảo, phán, cuốn tiểu thuyết “làm mới, thú vị, gay cấn” [không
biết có
“dâm ô”, như "nhìn từ lưng... chừng, nhìn xuống"?], và “tuyệt cú mèo,
thần sầu”!
Five years in the writing, L'Art
français de la guerre is Jenni's third completed manuscript but the
first which
he has managed to get published, sent by post to just one publisher,
Gallimard,
which snapped it up and has already sold 56,000 copies. A 48-year-old
school
teacher who has vowed not to give up his job following his win, Jenni
told French paper Le Monde
in August that "a year ago, I thought I would never be anything other
than
a Sunday writer. Today, I am exactly where I wanted to be, but where I
never
thought I would arrive".
The author, who blogs about
everyday
life in Lyon on his site Voyages
pas très loin, joins recent winners of
the Goncourt Michel Houllebecq and Jonathan Littell, and past winners
including
Marcel Proust and Simone de Beauvoir. Yesterday also saw the Prix
Renaudot
awarded to Emmanuel Carrère for Limonov, the story of the Russian
writer.
Bỏ
ra năm năm để viết "Nghệ thuật giết
người của Tẩy" bản thảo thứ ba hoàn tất, nhưng là bản thảo đầu tiên gửi
theo Bưu Ðiện tới nhà xb độc nhất mà ông tính thử thời vận,
nhà Gallimard. Cái việc được Gallimard in đã quái rồi, mà lại còn vừa
kịp để đợp
giải, mới cực khoái! Ông năm nay 48 tuổi, làm nghề dạy học, và, không
bỏ nghề
dù thắng giải, ông phán, "một năm trước đây, tôi nghĩ mình đếch có thể
là
cái gì hết, ngoài là Nhà Văn Nhủ Nhật. Bữa nay, tôi đúng là cái thứ mà
tôi muốn
là, nhưng trước đây, tôi chẳng hề nghĩ mình bò tới được cái chỗ đó!"
NHQ Blog VOA
Bài viết này,
và những lập luận của Thầy Cuốc thật là nhảm. Cái sự kiện con người
quần tụ thành
nhóm, thành làng, thành đô thị, phố xá đông vui… thì là tự nhiên như
lịch sử loài
người từ thời thượng cổ đến giờ, đâu có phải do đô thị hoá, thương mại
hoá khiến
con người trở nên vô cảm?
Cái sự
kiện người
Tầu "vô cảm" không liên quan tới tư bản, cộng sản. Theo nhà văn Ha
Jin, đây là do người Tầu không tin có Ông Trời.
Cuốn tiểu
thuyết đầu tay chưa có của GCC
W.G. Sebald
Trước giờ,
tuy giới thiệu Sebald, nhưng thú thực, GCC chẳng hề nghĩ, sẽ có ngày
nhận được 1
cái mail của độc giả liên quan tới ông người Ðức tốt này. Thế rồi nhận
được của
1 vị, rất hâm mộ Sebald.
Thú thực, lại
thú thực, GCC mê đọc những bài tản văn ngắn của ông, những tiểu luận,
nhất là tập
tiểu luận “Về lịch sử tự nhiên về huỷ diệt”, On the natural history of destruction.
Tác phẩm Campo
Santo, gồm tản văn và tiểu luận
cũng thú lắm.
“Ðất
dụng võ của tôi là tản văn, không phải tiểu thuyết”, “My medium is
prose,
not the novel”, ông cho biết. Trong bài giới thiệu tác phẩm Campo Santo, Sven Meyer, người
dịch, phán, vào cuối đời, nhà tiểu luận hết còn phân biệt được với nhà
văn.
Câu của
Sunday Times, thổi Sebald, đúng chỉ 1 nửa. Sebald vs Borges, OK,
nếu
chỉ nói về
mặt văn chương. Nhưng thời của Sebald là của Lò Thiêu. Borges, vô thời.
Publisher's
Note
Campo Santo
brings together pieces written over a period of some twenty years
touching, in
typical Sebaldian fashion, on a variety of subjects. None has been
previously
published in book form, but the ideas expressed in
'Between History and
Natural
History' will be familiar to some readers - the essay is the
predecessor of the
Zurich lectures which later became the backbone of On
the
Natural History of Destruction.
Sân Trường
Cũ
WG Sebald's last book,
Campo Santo, offers further proof of his rare
gift for
tackling Germany's pain, says Jason Cowley
Sunday February 27, 2005
The Observer
Sampo Santo,
cuốn sách sau chót của Sebald, đưa ra thêm chứng liệu cho thấy tài năng
quí hiếm
của ông, trong cái việc sờ vô nỗi đau của Ðức.
Bài điểm này
trên tờ Observer, tuyệt quá.
TV tính dịch, đăng bài giới thiệu cuốn trên, của Sven Meyer, nhưng
thôi,
"tùy tiện" mình chơi bài này trước.
Trong những kỳ tới GCC sẽ giới thiệu mấy bài viết trong Về lịch sử
tự nhiên của
huỷ diệt.
Ðể đáp lại thịnh tình của vị độc giả hâm mộ Sebald!
Cali 8, 2011
Thấy GM mới
khoe cuốn này, GCC cũng khoe, nhưng cuốn trên thực sự là của bạn Vũ Huy
Quang.
Lần đầu ghé Cali, gặp anh, cũng là thời gian anh tính dọn đi San Jose,
và nói,
ông đến tôi, lấy gì thì lấy, còn thì dzục thùng rác.
Gấu buột miệng nói, sách của
ông làm sao tôi đọc.
Bạn bực ra mặt.
Tới, Gấu vớ được cả 1 lô, lúc đó mặt bạn tươi rói ra, quạt lại liền,
vậy mà dám
nói…
Tủ sách của
VHQ khác của Gấu thật. Anh mê sex, viết về sex số 1, đọc tiểu thuyết
chuyên thứ
dính đến sex. Nhưng cái mảng tài liệu, từ điển của anh mới số 1, và
toàn là thứ
Gấu không có. Từ điển Hán Việt Ðào Duy Anh, Thiều Chửu, từ ngữ, phong
dao….
VHQ đã từng
dịch Bí Kíp làm tình!
Giở cuốn trên
ra, mới thú.
Thí dụ, anh đánh
dấu câu này:
May hơn khôn, lớn l. hơn
đẹp.
Hay câu này:
Gái đĩ già mồm: văn nghệ Nguyễn Huy Thiệp
[VHQ ghi
chú]
Tuyệt!
Ðúng là gái đĩ già mồm!
Note: Không
biết cuốn này, TCDT có cho xb ở trong nước hay không?
Trong những cuốn sách của “bạn ta”, Gấu mê cuốn này nhất, nhất là cái
câu bạn
phán, trong bài Tựa: Nếu cứ nghiêm túc một cách khắt khe thì văn chương
quả có hại
cho sử học.
Nhưng liền đó, bạn trích dẫn 1 ý, mà chẳng thú ư:.... các tác giả như
A.
Dumas-père thường 'đẻ ra những đứa con hoang khoẻ mạnh hơn cả (1) lịch
sử"?
Ui chao, liệu
có thể coi những tác phẩm văn học mang tính lịch sử của một NHT, thí
dụ, khoẻ mạnh
hơn lịch sử Mít, thời vừa qua?
(1)
TCDT dùng chữ
"của", Gấu đổi là "cả".
Ý của TCDT, những đứa con khỏe mạnh “của” lịch sử. Của Gấu, khỏe mạnh
hơn “cả”
lịch sử.
Chỉ 1 chữ thay đổi, khác hẳn đi.
Chết chỉ vì 1 cái dấu phẩy là vậy.
Lần Gấu đọc
1 bài thơ dịch Brodsky của đấng Mít Butor, không có bản tiếng Anh tiếng
Tây
đính kèm. Đọc 1 phát là như bị ai “đấm” vô mặt, và lẩm bẩm, làm sao lại
có 1
ông Brodsky “máu” đến như thế này! Thế là đành phải đi kiếm bản dịch
tiếng Anh
của bài thơ.
Hóa ra dịch
giả muốn lấy lòng VC, vì ông này vẫn tự hào, người đầu tiên đem Brodsky
đến cho
độc giả Mít, thế là ông bèn sửa mẹ câu thơ đi, cho hợp ý nhà nước
VC,theo đúng truyền thồng, "Thơ có thép", “Đường
ra trận mùa này đẹp lắm”. (1)
NQT
(1)
Nhân chuyện
nói không với cuộc chiến [nói không với phong bì là cũng thuổng của Gấu
đấy!],
và nhân đọc thơ Brodsky (1940-1996), do Hoàng Ngọc Biên dịch, đăng trên
Tiền Vệ,
Gấu tôi xin ghi ra đây.
Odysseus nói
với Telemachus
Telemachus
con yêu của ta,
Cuộc chiến thành Troy
giờ đây đã kết
thúc; ta không còn nhớ ai đã thắng trận.
Người Hy lạp,
hẳn thế, bởi cho đến nay chỉ có họ
mới có thể đánh gục được nhiều người đến vậy
khi xa quê hương mình.
[HNB dịch]
Bản tiếng
Anh
[Collected Poems in English]
Odysseus to Telemachus
My dear
Telemachus,
The Trojan war
is over now;
I don't recall who won it.
The Greeks,
no doubt, for only they would leave
so many dead
so far from their own homeland.
Câu trên,
ông bố nói với thằng con, ta đếch thèm nhớ, ai thắng trận.
Câu dưới,
ông bố quả quyết, chắc chắn mấy thằng... VC, ấy chết xin lỗi, mấy thằng
Hy Lạp,
bởi vì chỉ chúng nó mới dám đi xa quê hương của chính chúng nó. Để...
ăn cướp!
Nhưng
Brodsky viết, họ "để lại nhiều xác chết", chứ không phải "đánh gục
nhiều người".
Nhà thơ
không hề phân biệt, giữa rất nhiều xác chết đó, cái nào "được" coi
là... liệt sĩ, cái nào "bị" coi là... Nguỵ.
|
|