Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Spadina Av
Toronto. Khu Tầu Tây.
Toronto có
hai khu Phố Tầu, Ðông và Tây. Khu Tầu Ðông, đa số là người Bắc. Hồi Gấu
mới
qua, khu này sầm uất chẳng thua khu Tầu Tây, nhưng tàn tạ dần. Con phố
Spadina,
Gấu có nhiều kỷ niệm, khui từ từ. Khu nhà tạm cư đầu tiên nằm trên 1
con phố nhỏ
ăn ra con phố College, kế ngay Spadina. Sáng sớm đầu tiên Gấu Ðực &
Cái mò đi ăn phở, lội tuyết [trận bão tuyết lớn
nhất,
thời tiết lạnh nhất kể từ 40 năm như báo chí cho biết], tới nơi thì mới
biết,
phải tới trưa tiệm mới mở. Lội tuyết về, không làm sao vô nhà được,
và phải
đợi đến giờ hành chính, cũng đâu 10 giờ sáng!
Phố Gấu
Thơ Mỗi Ngày
Bài này đã
được lên Gió O mà tôi không biết. Xin khoe. Và nói thật tôi rất hãnh
diện vì
trang web này nổi tiếng khó tính.
Blog HH
Mây Khói Quê
Nhà
Chúc Mừng. NQT
VIỄN
KHÁCH
hay là Bài
Thơ Làm Trong Tửu Quán
Đề Tặng
Có những bài
thơ như ánh sao
Sầu lên le
lói mấy trùng cao
Tình khơi
lai láng trên trang giấy
Cuồn cuộn
tương tư tựa sóng trào.
Có những bài
thơ như gió mưa
Chẳng cho trần
thế đọc bao giờ
Lời nghe xô
xát như dông bão
Ai lỡ ngày
xanh muôn ước mơ!
Có những thơ
yêu đọc dưới đèn
Một người viết
để một người xem,
Tay run run
mở... lòng tê tái
Chữ nhỏ đôi
dòng nước mắt hoen.
Song những
bài thơ đau đớn nhất
Là thơ làm
chẳng gửi cho ai
Năm năm, rồi
đến mười năm nữa
Vẫn gối trên
tay những mộng dài.
Là những thơ
đây chẳng thắm tình
Lời không
tha thiết, ý không minh
Vì chưng mỗi
áng hương lòng ấy
Riêng tặng
người không biết đến mình
Lê Huyền
Linh
1917-1992
Trang thơ Tomas Transtromer
Nobel 2011
What’s Wrong
With the Nobel Prize in Literature
Tim Parks
So the Swedish poet Tomas
Tranströmer wins the
Nobel prize for literature. Aside from a couple of long poems available
on the
net, I haven’t read Tranströmer, yet I feel sure this is a healthy
decision in
every way. Above all for the Nobel jury. Let me explain.
Nobel văn chương
có gì cà chớn, hình như thế. Có thể có tụi Mafia Do Thái thật! Đúng là
tụi nó
chứ ai vào đây nữa.
Vậy là nhà
thơ Thụy Điển thắng giải Nobel văn chương. Tớ chưa đọc ông ta, kiếm
trên net thì
lơ thơ tơ liễu vài cụm thơ của ông, tuy nhiên tôi cảm thấy đây là 1
quyết định
khoẻ khoắn như mọi năm. Nhất là cho Ban Giám Khảo. Để tới giải thích…
Staring
Through the Stitches
October 8,
1998
Helen
Vendler
Poems New
and Collected, 1957-1997
by Wislawa
Szymborska, translated by Stanislaw Baranczak, by Clare Cavanagh
Harcourt
Brace, 273 pp., $27.00
New
Collected Poems
by Tomas
Tranströmer, translated by Robin Fulton
Bloodaxe
Books Ltd./Dufour Editions, 219 pp., $21.95 (paper)
Helen
Vendler, NYRB, đọc hai nhà thơ Nobel
Two admirable postwar
poets, Wislawa Szymborska (born in 1923 in Poland) and Tomas
Tranströmer (born in 1931 in Sweden), troubled by what they saw as the
moral insufficiencies of both formal religion and Marxist optimism,
have sought spiritual understanding outside organized institutions. Of
course, few reflective persons who lived through the same period were
exempt from such thoughts. But lyric poets, who may be as aware as any
novelist of what is happening in society, must condense social
questions into personal ones and must transform written language by
giving it rhythmic breath and musical cadence. Both Szymborska and
Tranströmer are poets of striking brevity: Szymborska questions the
conventional movements of thought in our mental and social life, while
Tranströmer meditates on the powerful unseen, unconscious forces that
underlie our moments of waking awareness. Szymborska was awarded the
Nobel Prize in 1996; Tranströmer is frequently, and justly, mentioned
as a poet deserving the same prize.
Translating
Tomas Tranströmer
Dịch TT
TT
là nhà thơ phức tạp, để mà dịch. Cái sự nén ép thanh tú, và hình ảnh
sống động
như xinê, tức thì gây quyến rũ, bén bắt, nhưng do thưa thớt, kiệm từ
khiến thơ
TT như không màu, như mỉa mai, dè bỉu.
Nhịp
thơ trong nguyên tác thì mềm mại, dễ uốn, thành thử thật khó lập lại
trong bản
dịch, và cũng thế, tính nhạc bùng nổ của ngôn ngữ Thụy Ðiển, thí dụ từ
“domkyrkoklocklang”,
sẽ mất tính cộng hưởng rổn rảng như rót vào tai, một khi trở thành một
cụm từ, một
“chùm chuông nhà thờ"
Cái
phong cảnh
thơ ông, trống rỗng, nơi cư ngụ của thần tiên hay ma quỉ thì thật thoải
mái
thân quen với những nhà thơ phía Bắc, nhưng khi chi ly, phân tích siêu
hình
phong cảnh này rồi nhét nó vô phong cảnh của chỉ một Thụy Ðiển, thì quả
là 1
thách đố.
Trong lời giới
thiệu “Imitations” [Bắt chuớc], một tập thơ dịch, thơ Âu Châu, Robert
Lowell viết,
trích Pasternak, “Người dịch đáng tin cậy thường có được cái nghĩa đen
nhưng mất
mẹ cái giọng… và trong thơ, giọng, lẽ tất nhiên, thì là tất cả.” Trong
mấy bài
thơ dịch thơ TT của tôi, tôi cố làm sao để mình ở giữa hai thái cực
trên đây, cố
giữ vóc dáng của bài thơ, mở toang nghĩa của nó, và cố - như Lowell
thật đúng khi phán, phải cố - giữ cho được cái giọng của nó
Cái vấn nạn “dịch
thơ thì nó sẽ thành cái quái gì”, TLS mới đi 1 bài thật thú vị. Link ở
đây. Lèm
bèm sau.
Viết
Sau Lò Thiêu
"in
a certain sense, life was purer, simpler" in the concentration camps;
"even back there, in the shadow of the chimneys, there was something
resembling happiness".
Imre
Kertesz
Cứ
mỗi lần đọc câu trên, là Gấu lại hăm he viết về những ngày ở trại tù
VC, nông
trường Ðỗ Hòa, Cần Giờ: “Một cách nào đó, đời ở đó trong trắng hơn, đơn
giản hơn… ở đó, dưới những cái bóng của những ống khói lò thiêu, vưỡn
có 1 điều
tựa như là hạnh phúc”
Hát Sau Lò
Cải Tạo
Phạm Duy Và
Vết Thương Di Tản
Sunday,
October 9, 2011
Kundera viết
"Di tản: một cuộc lưu lạc bắt buộc ở nước ngoài đối với người coi đất
nước
nơi mình sinh ra là tổ quốc duy nhất của mình. Nhưng tình trạng di tản
kéo dài
và một sự trung thành mới đang nảy sinh, sự trung thành với đất nước
mình đã nhận;
bấy giờ là đến lúc cắt đứt. Stravinski dần dần từ bỏ chủ đề Nga. Năm
1922 ông
còn viết Mavra (hí kịch phỏng theo Pouchkine), rồi năm 1928, Nụ Hôn Của
Bà
Tiên, kỷ niệm về Tchaikovski, rồi ngoài mấy tác phẩm ngoại lệ không
đáng kể,
ông không trở lại chủ đề Nga nữa. Khi ông mất năm 1971, Vera vợ ông,
tuân theo
ý nguyện của ông, từ chối đề nghị của chính phủ Xô Viết chôn ông ở nước
Nga và
chuyển thi hài ông đến nghĩa trang Venise."
NXH
Mấy đoạn
trích dẫn Kundera được NXH trích dẫn từ bản dịch của NN, Gấu đã dịch,
từ tác phẩm
của Kundera, trong 1 bài viết cũng về Phạm Duy
Di dân là
"số" phần, (a matter of arithmetic), theo Kundera.
Joseph
Conrad, sống 17 năm tại Ba-lan, và tại Russia, lưu vong cùng với gia
đình. 50
năm còn lại, ở Anh, hay trên những con tầu Anh. Đương nhiên, ông viết
văn bằng
tiếng Anh, về đề tài Anh. Ông bị dị ứng, khi đụng phải những gì có "mùi
Nga": dấu vết Ba-lan độc nhất ở nơi ông. Tội nghiệp Gide, không thể
hiểu tại
sao Conrad "không thiện cảm" với Dostoevsky.
Bohuslav
Martinu sống ở Bohemia đến năm 32 tuổi, sau đó, 36 năm ở Pháp, Thuỵ sĩ,
Hoa kỳ,
rồi lại Thuỵ sĩ. Ông luôn coi ông là một nhà soạn nhạc Czech, và hoài
cố hương
cũng là chất nhạc của ông. Nhưng sau chiến tranh, ông từ chối mọi lời
mời trở về.
Vào năm 1979, hai mươi năm sau khi ông chết, những "biệt kích" làm hỏng
ước muốn được mồ yên mả đẹp ở Thuỵ sĩ, đã quật mồ, "bắt cóc", long
trọng
làm một cuộc "hôn nhân cưỡng ép" với đất mẹ cho cái xác chết của ông.
Gombrowics sống
35 năm tại Ba lan, 23 năm tại Argentina, 6 năm tại Pháp. Tuy chỉ viết
văn bằng
tiếng Ba-lan; nhân vật, người Ba lan, nhưng khi được "mời về", ông ngần
ngại, cuối cùng từ chối, rồi an nghỉ đời đời ở miền Nam nước Pháp.
Ba phần đời
sấp xỉ bằng nhau của Stravinsky: Nga, 27 năm, Pháp và Thuỵ sĩ- Pháp, 29
năm và
Hoa kỳ, 32 năm. Chất Nga đậm đặc trong sáng tác của ông, những năm đầu
xa xứ tại
Pháp. Rồi chiến tranh cắt đứt dần những mối nối, tuy nhiên ông vẫn là
một nhà
soạn nhạc Nga với những sáng tác mang chất thơ dân giã của quê hương.
Sau Cách
mạng Nga, ông hiểu rằng, ông đã mất hẳn, nơi chốn ra đời, và cuộc đời
di dân thực
sự bắt đầu. Khi ông chết, vào năm 1971, bà vợ đã bác bỏ đề nghị của
chính quyền
Xô-viết, và thực hiện đúng ước nguyện của ông, được chôn tại một nghĩa
địa ở
Venice.
Tất
cả những nghệ sĩ trên đây, được Kundera lôi ra chỉ để xác minh cho
"điển
phạm" của ông: Di dân là số phần. Chẳng ai trong số đó về nhà lại như
PD, kể
cả Kundera, sau cùng chọn Pháp. Ghép họ cùng 1 duộc với PD thì nhảm quá.
*
Không phải
chỉ em, mà luôn cả anh - nhà thơ, sẽ cách xa: Nghệ sĩ phải làm cho hậu
thế tin
rằng, anh ta đã không sống, Flaubert nói. (L'artiste doit faire croire
à la
postérité qu'il n'a pas vécu). Maupassant ngăn cấm chuyện chân dung ông
có
trong tuyển tập những nhà văn nổi tiếng: Đời riêng của một người, và bộ
mặt của
ông ta không phải là để chường ra cho thiên hạ thấy. "Tôi ghét chuyện
dí
mũi vào đời riêng của mấy ông nhà văn lớn, và chẳng có một cuốn tiểu sử
nào giọi
chiếu được một mẩu đời tư của tôi," Nabokov nói. Italo Calvino giải
thích
thêm: ngu gì mà nói cho bất cứ một ai, dù chỉ một lời, về đời tư của
mình!
Faulkner mong muốn, chỉ là một người bị huỷ bỏ (annulé), được lịch sử
gạch đi
(supprimé par lõhistoire), chẳng để lại bất cứ một vết tích, ngoại trừ
những cuốn
sách đã được in. (Milan Kundera khi nhắc lại, đã gạch dưới hai chữ
sách, in).
Theo một ẩn dụ nổi tiếng, nhà văn phá huỷ căn nhà riêng của ông, để,
với những
viên gạch lấy từ đó ra, xây dựng một căn nhà khác: cuốn tiểu thuyết của
ông ta.
Khi mà Kafka được người đời chú ý đến, nhiều hơn là (nhân vật) Joseph
K., tiến
trình hậu - cái chết (mort posthume), của nhà văn bắt đầu.
Source
Trường
hợp đời tư vs đời công, cũng thật “khó nói”, với PD, vì đời của ông, tư
công
lộn tùng phèo. Khi về thành, ông đổi lời mấy bản nhạc kháng chiến,
thành ra lại
hát được ở trong vùng Tề Ngụy. Ông suốt đời khóc cười theo vận nước nổi
trôi,
làm sao tách ra được mà ví với những Flaubert, Faulkner?
*
Chẳng có gì để mà hoài nghi:
Stravinski luôn mang theo cùng với
ông, vết thương ăn nhờ ở đậu, như mọi người khác. Con đường nghệ thuật
sẽ khác
hẳn, nếu ông ở quê hương. Điều tuyệt vời ở đây là, cuộc lữ của ông, qua
lịch sử
âm nhạc, đã bắt đầu đúng lúc, khi ông nhận ra rằng, nơi chốn ra đời
không còn
hiện hữu, và để thay thế nó, ông đành chọn âm nhạc, bởi vì đâu có một
xứ sở nào
để mà thay thế nó?
Không phải chuyện văn vẻ ở đây, mà là cụ thể (Kundera). Quê hương độc
nhất, nhà
của ông: âm nhạc, tất cả âm nhạc, của tất cả các nhạc sĩ. Chính tại
đây, ông
quyết định, đóng trụ, tái định cư, mọc rễ, làm nhà...
[Gấu tui chép lại câu trên, để
"riêng tặng" nhạc sĩ Phạm Duy].
NQT
Ba phần đời
xấp xỉ bằng nhau của Stravinski: Nga, hai mươi bẩy năm; Pháp và Thụy sĩ
nói tiếng
Pháp, hai mươi chín năm; Hoa kỳ ba mươi hai năm. Cuộc vĩnh biệt Nga-xô
của ông
đã trải qua nhiều giai đoạn: từ 1910, ông ở Pháp, chuyến viễn du dài,
học hỏi,
nghiên cứu. Đó là những năm tháng, chất Nga đậm đặc trong sáng tác của
ông:
Petrouchka, Zvezdoliki (phỏng thơ Balmont, một thi sĩ Nga), Le Sacre du
Printemps, Pribaoutki, khúc mở đầu Noces. Rồi chiến tranh làm cho những
liên lạc
với Nga-xô trở nên khó khăn, tuy nhiên, ông vẫn là một nhà soạn nhạc
Nga với
Renard, và Histoire du Soldat, gợi hứng từ thơ ca bình dân. Chỉ sau
cách mạng,
ông hiểu ra, kể như mất hẳn, nơi chôn rau cắt rốn: cuộc đời di dân, ăn
nhờ ở đậu
thực sự bắt đầu.
Ăn nhờ ở đậu:
cuộc sống cưỡng ép nơi xứ người, của một kẻ luôn coi nơi chôn nhau cắt
rốn là
quê hương độc nhất. Nhưng ngày qua tháng lại, một tình cảm với đất tạm
nẩy
sinh, và tới một thời điểm nào, là chuyện cắt bào đoạn nghĩa, Tôn phu
nhân qui
Thục, thà mất lòng anh đặng bụng chồng. Stravinski
dần dần từ bỏ đề tài Nga. Năm 1922, ông
còn viết về nó,
Mavra, một opéra hài, phỏng theo Pouchkine, sau đó, Le Baiser de la
fée, một kỷ
niệm về Tchaikovski, rồi thôi luôn, trừ một vài ngoại lệ. Khi ông mất
(1971),
Vera, bà vợ đã từ chối đề nghị của chính quyền Xô-viết, và thực hiện
đúng ước
nguyện của ông, được chôn tại một nghĩa trang ở Venice.
Chẳng có gì
để mà hoài nghi: Stravinski luôn mang theo cùng với ông, vết thương ăn
nhờ ở đậu,
như mọi người khác. Con đường nghệ thuật sẽ khác hẳn, nếu ông ở quê
hương. Điều
tuyệt vời ở đây là, cuộc lữ của ông, qua lịch sử âm nhạc, đã bắt đầu
đúng lúc,
khi ông nhận ra rằng, nơi chốn ra đời không còn hiện hữu, và để thay
thế nó,
ông đành chọn âm nhạc, bởi vì đâu có một xứ sở nào để mà thay thế nó?
Không phải
chuyện văn vẻ ở đây, mà là cụ thể (Kundera). Quê hương độc nhất, nhà
của ông:
âm nhạc, tất cả âm nhạc, của tất cả các nhạc sĩ. Chính tại đây, ông
quyết định,
đóng trụ, tái định cư, mọc rễ, làm nhà... Chỉ nơi đây, ông cuối cùng
tìm ra những
đồng hương, láng giềng, thân cận. Nào là Pérotin, nào là Webern. Với
họ, ông
chuyện trò. Chỉ ngưng lại, khi chết. Còn sống, ông luôn làm cho mình
được thoải
mái. Khi ngừng lại ngắm nghía một khoảnh vườn, một góc bếp, mân mê một
cạnh tủ,
cứ thế ông trải quãng đời còn, từ dân ca cổ điển tới Pergolèse, nhờ
vậy, ông viết
Pulcinella (1919), rồi lân la làm quen những nhạc sư baroque
khác, nếu
không,
ông không thể viết nổi Apollon
Musagète (1928). Những giai điệu
(mélodies)
trong Le Baiser de la fée là
từ Tchaikovski. Bach: thầy đỡ đầu Concerto
pour
piano et instruments à vent (1924)... Những kẻ thù của ông,
những người
coi âm
nhạc là biểu lộ tình cảm, họ đã kết án ông: một con tim nghèo đói;
chính họ đã
không có đủ trái tim, để hiểu vết thương lòng ông mang theo suốt cuộc
lữ, qua lịch
sử âm nhạc. Nhưng chuyện này đâu có gì ngạc nhiên: chẳng có ai vô tình
tàn nhẫn
bằng những kẻ đa tình đa cảm. Thánh nhân vốn tàn nhẫn, bất nhân. Hãy
nhớ một điều:
Sự khô héo của con tim...
Source
Vết thương
di tản?
Vết thương,
với PD. Chắc không đâu, nhưng từ "di tản" thì quả đúng với ông. Với đám
nghệ sĩ kia,
thì là lưu vong. Với PD, là di tản. Ở vùng kháng chiến, ông di tản về
Hà Nội. Ở
Hà Nội, ông di tản vô Sài Gòn. Ở Sài Gòn ông di tản qua Mẽo. Ở Mẽo ông
di tản về
lại Sài Gòn, khi PN trả ông nừa triệu đô. Gấu nghe nói PN bị hố, không
làm sao
thu lại vốn, vì cái trò nhỏ giọt, lâu lâu mới thí cho dân Mít trong
nước được
nghe thêm 1 bản nhạc của ông.
NXH trích HKP, chúng ta
phải biết ơn PD. Tất nhiên. Gấu là người nợ ông nhiều
nhất, những ngày ở tù VC, không có nhạc của ông, là không thể qua nổi,
như Gấu
viết sơ sơ trong bài Mùa Thu.
Nhưng chúng
ta phải cám ơn chiến tranh mới đúng. Nhờ chiến tranh “tha” ông. Hay là
ông khôn
hơn nó? Nếu không, gia tài âm nhạc Mít chỉ có dúm thời kỳ đầu PD.
NXH kể kỷ niệm
về 1 bài viết cho tờ Vấn Ðề, trong có trích dẫn Bà Mẹ Gio Linh, và cho
biết, vì
bài viết ông bị Ngụy làm khó dễ. Nhưng hình như độc giả chúng ta không
biết vì
nội dung bài viết hay vì Bà Mẹ Gio Linh. Trên Tin Văn, mấy bữa trước,
Gấu nhắc
tới bà mẹ Serbia trong 1 bài thơ của Simic, và khen nhặng cả lên,
một độc
giả lắc đầu, thua xa bà mẹ Gio Linh. Gấu đành phải đi một đường "phản
biện", bà mẹ
Serbia mà nhà thơ Serbia, Charles Simic viết về đó, (2) là bà mẹ
thiệt, có thật ở ngoài
đời, còn bà
mẹ huyền thoại TCS che mưa cho đàn con không có ông TCS ở trong số đó,
là mẹ dởm,
như bà mẹ Gio Linh, mẹ dởm. Những ông TCS, PD làm nhạc ca ngợi, là vì
mục đích
cá nhân, để chạy tội.
Nói cho cùng,
thì cũng 1 thứ xướng ca vô loài, đời ca hát cho đời mua vui cả mà thôi.
Nhân đó, Gấu
có nhắc tới một nhân vật của Cô Tư, một cô đào, khi đứa cháu hỏi:
Sao Dì Út không lấy chồng, Dì ở vậy hoài
Ngoại
rầu lắm đó."
-Dì còn phải đi hát.
-Dì hát vui hay Dì lấy
chồng vui?
Tôi cười, lấy chồng vui
hơn, nhưng phải lấy ngay trân người mình thương kìa.
Còn đi hát thì không vui không buồn, mơ hồ lắm, thấy cười ha ha chưa
chắc đã
vui, thấy rặn ra một đống nước mắt vậy mà hổng phải buồn. Có lúc đang ở
nhà lại
muốn đi, có lúc đang hát ở trên sân khấu vậy tự nhiên thèm về nhà. Bầu
hỏi tôi
thường đóng vai gì, tôi kể, nhiều lắm, hiền có, ác có, mà toàn vai phụ
không
thôi... Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, tôi bảo, nhưng
có một
vai Dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình thường,
có chồng,
sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi sáng, chở mớ rau vườn ra
chợ, mua
ít thức ăn về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng
chờ chồng
từ ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô nhà.... Và để được nghe con
trai mình
nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi. Ừ,
Dì chỉ ước
có vai bình thường vậy....
Source
Bà Mẹ Việt
Nam, thứ thực, là chỉ có 1 người khóc,
đúng như cô đào hát phán, ‘lấy trân người mình thương cơ”.
PD chưa từng khóc cái kiểu “lấy trân người mà mình
thương cơ”.
(2)
Thỉnh thoảng lại thấy mấy
hạt sạn trên TV :
1.
The trembling finger of a
woman
Goes down the list of casualties
On the evening of the first snow
The house is cold and the list is long.
All our names are included.
Ngón tay run rẩy của người
đàn bà
Chạy dọc theo, không phải
danh sách chiến lợi phẩm,
mà là những mất mát, tổn hại.
Vào một buổi chiều đầu tuyết
Căn nhà thì lạnh, và danh sách thì dài.
Tên của tất cả chúng ta thì đều có trong đó.
List of casualties : Danh
sách tổn thất (nhân mạng: những người chết , bị thương, mất tích .. .)
2. Trong một đoạn phỏng
vấn Murakami, " To make up one's mind " có nghĩa là " quyết định" (làm
một việc gì đó) chứ không phải "đổi cái đầu " . Đoạn ấy đâu rồi tìm
không thấy trên mấy bài đang đăng nên không copy and paste được . (1)
Và một số khác, nhưng chừ
quên rồi .
K
Tks. Sẽ sửa lại. NQT
Khi dịch “List of casualties”, và “made up your mind”,
“lệch pha” như trên, Gấu bị THNM, và nghĩ đến đám… VC.
Chúng đâu cần biết tổn thất, mà chỉ nghĩ đến chiến lợi phẩm. Chúng làm
sao "quyết định", nhưng giả như chúng "đổi cái đầu", vờ đi ít lâu văn
học hiện thực xạo hết chỗ nói, may ra có khác đi chăng!
Ða tạ. NQT
ps: Và “bà mẹ huyền thoại” của TCS, hẳn là
thua bà mẹ trong bài thơ “Chiến Tranh” sau đây, của Charles Simic. (2)
Làm sao mà bằng Bà Mẹ Gio Linh của Phạm Duy được
!!!
K
Cả hai bà mẹ Mít, Mẹ “giao
liên, huyền thoại, che mưa”… và Mẹ Gio Linh, đều thua Mẹ Serbia của
Simic.
Một ông da vàng, hát nhạc vàng, mê nhạc đỏ… và một ông" đi và về cùng 1
nghĩa như nhau", cả hai đều lợi dụng thơ và nhạc cho mục đích, mục tiêu
cá nhân, để “khuây khỏa” lòng dạ đen tối của họ.
Một, chạy tội, một, “bi thảm hóa thảm kịch”.
Thảm kịch đã khốn nạn rồi, vậy mà còn bi thảm hoá nó, để "ăn khách" hơn
lên. "Em" TT, người đẹp trong truyện ngắn Cửa Sau của MT, chẳng đã thú tội
trước bàn thờ, mỗi lần hát Mẹ Gio Linh, là mỗi lần khóc ư?
Làm sao so được với thứ
thơ ca “thực”, được.
NQT
Cô Tư, trong Một Mối Tình, có phán 1 câu, áp
dụng vô đây, thì thật là "thông minh và sáng tạo", để phân biệt giữa
nước mắt, thực và giả, giữa giấc mộng đã tan sao ảo tưởng vẫn còn!
Chợt nó hỏi:
-Sao Dì Út không lấy
chồng, Dì ở vậy hoài Ngoại rầu lắm đó."
-Dì còn phải đi hát.
-Dì hát vui hay Dì lấy
chồng vui?
Tôi cười, lấy chồng vui hơn, nhưng phải
lấy ngay trân người mình thương kìa. Còn đi hát thì không vui không
buồn, mơ hồ lắm, thấy cười ha ha chưa chắc đã vui, thấy rặn ra một đống
nước mắt vậy mà hổng phải buồn. Có lúc đang ở nhà lại muốn đi, có lúc
đang hát ở trên sân khấu vậy tự nhiên thèm về nhà. Bầu hỏi tôi thường
đóng vai gì, tôi kể, nhiều lắm, hiền có, ác có, mà toàn vai phụ không
thôi... Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, tôi bảo, nhưng
có một vai Dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình
thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi sáng,
chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ
chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông
súng bước vô nhà.... Và để được nghe con trai mình nói với mình những
câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi. Ừ, Dì chỉ ước có vai
bình thường vậy....
Cái thứ nước mắt rặn ra cả
đống đó, chính là cái mà đám nhà văn nhà thơ nhạc sĩ Mít mong muốn.
Thảm như thế đấy. Ông TCS thì biết gì về bà mẹ huyền thoại. Ông PD thì
cũng rứa. Cả đời cả hai ông không dám khóc “thật”, đành làm thứ “xướng
ca vô loài” xin tí nước mắt của người đời!
Hai ông làm sao đóng vai
một người bình thường?
Trong cái đời thường của
nghệ sĩ, người đọc nhận ra họ cũng như mình, cũng có những nỗi đau khổ
mình ên, và có những lúc, họ khóc thật, cho riêng họ. Ðây là cái sự
khác biệt, cực khác biệt, giữa mũi tẹt và mũi lõ, và chính vì thế mà
cái dạng văn học tiểu sử cũng rất được ưa chuộng ở Tây Phương, như qua
những nhận định sau đây về Brodsky, trong bài viết The Gift:
Joseph Brodsy và những vận
may của sự không may, Joseph Brodsky and the
fortunes of misfortune.
Brodsky experienced all
the struggles of his generation on his own hide, as the Russians say.
His exile was no exception.
Brodsy kinh nghiệm tất cả những cuộc chiến đấu của thời đại của ông,
mình ên, như người Nga nói. Cái sự lưu vong của ông thì cũng không
ngoại lệ.
Trong khi đó, chúng ta đâu
thấy ông PD “vật lộn” với những cuộc vật lộn của thời của ông? Kháng
chiến, ông đi, được mấy ngày, bỏ về, vì chịu không nổi cái đói, cái
khổ. Ông TCS thì cũng thế, trốn lính, mê VC, sau 30 Tháng Tư, bèn tưởng
tượng ra bà mẹ huyền thoại che mưa cho đàn con, trong không có ông, để
trình ra cho Hồ Tôn Hiến thấy, để đổi lấy vài ly rượu!
Chẳng ông nào ‘mình ên’
đau cái đau 1 mình, nhưng mà là của chung một thời đại của mình cả.
NQT
Bài viết này, Cô Tư
cũng kinh nghiệm tất cả những cuộc chiến đấu của thời của mình, mình ên!
Cảnh đẹp VN
Cali 8, 2011
Viết gì
thì viết, Nhật Tiến cũng không bỏ rơi cái căn cỗi của mình: Hòa giải và
hòa giải dân tộc.
Thụy
Khê
Trong
bài viết nhìn lại những trang sách cũ, theo lời đề nghị của NMG, đăng
trên tờ
Văn Học, Cali, tháng 5, 2001, in lại ở cuối Thềm Hoang, Nhật Tiến chẳng
hề nói
đến cái căn cỗi hòa giải và hòa giải dân tộc như là căn phần
viết của
ông, như bà TK phán. Cuốn truyện cũng không về chuyện đó. Phán
kiểu TK là
phán cho được.
Cũng là 1 trường hợp giả vấn đề, bày hiện trường giả, y
hệt Thầy
Cuốc: nhà phê bình tưởng tượng ra 1 cái cùm, rồi nhét tác phẩm vô đó,
rồi hà,
hà, thấy không, vừa ngay bong.
Bởi
vì cái gọi là căn cỗi hòa giải chỉ xẩy ra kể từ sau 30 Tháng Tư 1975,
khi VC
thay vì hòa giải, thì coi 1 nửa nước là Ngụy, trừ đám nằm vùng, giải
phóng, tất
nhiên… Những gì xẩy ra sau đó, thì bà TK cũng hẳn biết rồi, nào đánh tư
sản,
kinh tế mới, tù cải tạo… khiến dân Mít đổ xô chạy ra biển, rồi thảm họa
thuyền
nhân… và chỉ đến khi VC cần đến họ, thì mới có cái gọi là hòa giải dân
tộc.
Những
điều đó là sự kiện lịch sử như sự kiện lịch sử là nền tác phẩm Thềm
Hoang của
NT: sự kiện di cư, người Bắc vô Nam
sống lẫn lộn với người Nam trong 1 con hẻm của thành phố, tự nhiên, như
mọi con
hẻm của Sài Gòn hồi đó, hồi sau 1954. Nhiều tác phẩm của những nhà văn
Miền Bắc
di cư đã viết về sự kiện này, thí dụ Trăng Nước Ðồng Nai của Nguyễn
Hoạt, Mã Lộ
của Viên Linh, Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền… và Thềm Hoang của Nhật
Tiến. Bởi
thế mà NT mới viết, khi kết thúc những dòng nhìn về của ông, như trên:
chỉ hoàn
toàn là 1 kỷ niệm.
Thái độ hoà giải của ông sau này, khi ở xứ người không liên can
đến tác phẩm đầu tay của ông.
Gấu đọc TK,
như là 1 nhà quản thủ thư viện khui ra những tài liệu văn học bị mai
một, thất
thoát, nhiều hơn như là 1 nhà phê bình. Bởi vì bà này cũng ưa phán ẩu,
do muốn
nổi cộm, phán theo cái kiểu, trước đây chưa ai từng phát giác ra sự
thực này, nọ,
về một người viết, thí dụ.
Nhất Linh, từ trước tới
nay, ai thì cũng công nhận ông
là 1 tiểu thuyết gia, 1 bậc thầy, cả đám Sáng Tạo đâu có ai sánh nổi
với ông. Cách
viết, cách kể chuyện thật dí dỏm, những quan sát thật tinh tế, cách tạo
những
hoàn cảnh thật đặc biệt [nhất là trong Xóm Cầu Mới, cuốn này có gì
tương tự với Thềm Hoang của NT] làm người đọc không làm sao quên
được. Về già, ông nghĩ,
có lẽ mình cũng nên chơi 1 cuốn nho nhỏ, “nhìn lại những trang viết
cũ”, như Nhật
Tiến, trên, thế là bị ngay Thầy Cuốc nhét 1 cái cùm vào đầu, nhà phê
bình, nhà
khái quát hoá… không làm sao tin cậy được, không
thể tự dối mình, phải đạp cho ông ta 1 phát!
Cái sự kiện
lịch sử khiến bà TK làm nhà phê bình cũng rất ư là nhảm: nghe Võ Phiến
than thở,
xứ Mít không có nhà phê bình nào ra hồn, thế là bèn xung phong, xung
phong.
Gấu chưa từng
vỗ ngực xưng tên là nhà phê bình, trái lại, còn rất tởm thứ nhà này, vì
1 nguyên
nhân cá nhân, chưa tiện, chưa có dịp đúng hơn, để viết ra.
Trong bài viết
về Lukacs, Steiner cho rằng thật khó mà 1 con người lương thiện vỗ ngực
xưng tên,
ta là phê bình gia ở thế kỷ 20. Cái sự thiếu
hụt 1 nhà phê bình Mít, vào cái thời điểm mà VP than thở, có gì đó làm
nhớ tới
câu phán của Steiner dành cho Lukacs. (1)
(1)
In the
twentieth century it is not easy for an honest man to be a literary critic. There are so many more urgent things to be
done.
Criticism is an adjunct....
.... Lukacs has always held himself responsible to history. This has
enabled
him to produce a body of critical and philosophic work intensely
expressive of
the cruel and serious spirit of the age. Whether or not we share his
beliefs,
there can be no doubt that he has given to the minor Muse of criticism
a
notable dignity. His late years of solitude and recurrent danger only
emphasize
what I observed the outset: in the twentieth century it is not easy for
an
honest man be a literary critic.
But then, it never was.
Source
Cái
"chi tiết
là Thượng Ðế" mở ra bài viết, "Ðiển phạm là cái chó gì", của Thầy Cuốc
mới khiêm nhường, “lương thiện” làm
sao, nhất là cái mẩu đuôi, chưa có thì giờ để dịch, nên đành cho độc
giả
ăn tạm
món ăn nguội này…
Tôi
được mời tham dự cuộc hội
nghị quốc tế về đề tài "Điển phạm và cái khác trong các nền văn hóa
ngoài
phương Tây" (Canonicity and Otherness of Non-Western Culture" do
trường Korea University tổ chức tại Seoul trong hai ngày 29 và 30 tháng
9.
Trong cuộc hội nghị, tôi trình bày một bài thuyết trình chính, "Tính
chính
trị của việc điển phạm hóa trong văn học Việt Nam" (The politics of
canonization in Vietnamese literature", và một bài thuyết trình phụ
nhưng
nặng về lý thuyết hơn, như một đề dẫn cho một cuộc thảo luận mang chủ
đề
"Điển phạm hóa và chính trị" (Canonization and politics).
Chưa có thì giờ để dịch hai
bài thuyết trình này sang tiếng Việt, tôi xin giới thiệu một bài viết
về điển
phạm đã được in trong cuốn Mấy vấn đề phê bình và lý thuyết văn học
(Văn Mới
xuất bản năm 2007). Bài viết khá dài nên tôi xin được chia thành bốn
phần. Đây
là phần thứ nhất. NHQ
Blog
VOA
“All memoir
is prostitution”
"Tất cả hồi ký hồi kiếc
thì đều là thứ điếm thúi”, Julian
Assange, ông Trùm WikiLeaks phán, sau khi đọc bản
nháp Hồi Ký của chính ông.
Was Einstein
wrong?
Ghi
chú
trong ngày
Mới cách đây
vài chục năm thôi, mùi của đột ngột giàu là mùi thấy được ngay khi
những
công-ten-nơ hàng chậm đánh theo đường biển được khui ra. Cái mùi ấy, ai
đã ngửi
một lần vào thời gian khó, vĩnh viễn không bao giờ quên được. Nó là mùi
bên
trong các thùng hàng chuyển về từ Liên Xô và các nước Đông Âu, hay được
dỡ
khung gỗ ngay ở sân các khu tập thể, đi kèm với tiếng “lách tách” của
bọn trẻ
con dùng ngón tay bấm vỡ những nút ny lông của các tấm lót quấn quanh
xe máy
Simson, xe đạp Mifa và rất nhiều nan hoa cùng nồi áp suất. Mùi thì thăm
thẳm
sâu sắc và âm thanh thì nhí nhách rộn ràng, dấu vết oanh liệt của cái
thuở cho
đến giờ vẫn được rất nhiều người nhớ nhung.
Blog NL
Ðược, được!
[thuổng Mai Thảo]
Thể nào thì
cũng đi đường hoài nhớ về mùi Hà Lội!
NQT
Note: Không
làm sao post còm được, ở cả Gỗ Mun lẫn NL. Ðành về ao nhà vậy. NQT
(Phải cố lắm
tôi mới không đánh sai tên bác thành Transformers - người máy biến
hình; hay ta
cứ gọi bác là Transformers đi cho tiện.)
GM
Gì thì gì, gọi
chệch tên người khác là thiếu sự tôn trọng tối thiểu.
GM: Nói đôi lời tử tế.
How?
NQT
TTT 2011
Thảo Trường, giỗ
đầu
When
There
Is Talk of 1945
NHQ
vs NL
Nhất Linh là
1 tiểu thuyết gia. Một bậc thầy với những tuyệt tác như Ðôi Bạn, Xóm
Cầu Mới,
Dòng Sông Thanh Thủy... Cuối đời, ông muốn truyền lại 1 số kinh
nghiệm viết
của ông trong Viết và Ðọc tiểu thuyết, không phải để khái quát hoá, để
dạy đời,
để làm phê bình gia, 1 tên hoạn quan. Ðừng thiến chim của ông ta.
Thầy Cuốc, do
muốn nổi cộm, cứ mỗi lần viết là chộ thiên hạ, nào điển phạm, hiểu
đúng,
hiểu sai, toàn "giả vấn đề" cả. Bởi vì, một điển phạm, canon, tức 1 qui
tắc, tiêu
chuẩn hoặc anh chấp nhận hoặc không, có gì đúng mới không đúng, sai với
không
sai. Thí dụ, mấy đấng VC phán, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, thì
Gấu bèn phán,
đếch được, tớ không thích tiêu chuẩn đó.
Không lẽ Gấu hiểu sai?
Thứ nữa hình
như Người không có cái thú đọc tiểu thuyết, và cũng chưa từng thực sự
khen ai. Ngay
cả khi xoa đầu ông tiên chỉ, như mọi người, nghĩa là khen VP quan sát
tới tận cùng
của 1 sự kiện, “chẻ sợi tóc ra làm tư”, Người cũng thòng 1 câu, nhưng
lâu lâu,
"thi thoảng", VP “quơn” chẻ. Khen Trùm Sáng Tạo, Mai Thảo, thần thơ,
thuộc thơ như thần, nhưng
chỉ thơ... tiền chiến.
Cũng mửng đó,
"Cuốc tôi" rất phục Nhất Linh, nhưng mà…
Ðểu ơi là đểu.
Gấu thực sự
tội cho Thầy Cuốc. Gấu thích ai, mê ai, mê văn thơ của ai, bất cứ ai,
nhất là những
người vô danh, mới viết, Gấu đọc được 1 mẩu viết được, viết tới, là
sướng điên
lên, là khoe nhặng lên, bị chúng chửi hoài.
Thơ TMT,
thơ luân lý giáo thư mà ông
khen nhặng cả lên, không sợ làm mất tiếng của nhà phê bình NQT ư?
Tôi thực
tình không muốn xúc phạm đến Nhất Linh, người mà tôi rất kính phục, tuy
nhiên,
tôi lại không thể tự dối mình để không nói ra sự thật này: khi lý
thuyết hoá
quan điểm văn học của mình, Nhất Linh hoàn toàn không đáng tin cậy. Cuốn
Viết và đọc tiểu thuyết được hoàn tất
trong tinh thần kinh nghiệm chủ nghĩa chứ không phải kết quả của quá
trình
nghiên cứu nghiêm túc về tiểu thuyết. Lại là kinh nghiệm của một thời
vang
bóng.
NHQ
Đúng là giọng
của 1 ông Trời con.
Hình như Nhất Linh không biết cả
những điều
căn bản trong lý thuyết văn học, do đó, ông tưởng quan niệm cho “một
áng danh
văn bao giờ cũng hỗn hợp được hai phần tử: bổ ích và làm vui” (2) là
của Ðặng
Thai Mai, trong khi, thật ra, đó là quan niệm của Horace, nhà thơ và
triết gia
cổ đại, tác giả cuốn Ars Poetica, sau này trở thành một trong
những luận
điểm nòng cốt của chủ nghĩa tân cổ điển vốn rất thịnh hành ở Tây phương
từ giữa
thế kỷ thứ 17 đến cuối thế kỷ 18 (3).
NHQ
Khẩu ”cà nông”,
một áng văn hay thì vừa bổ vừa vui, thì nhiều người gật gù tâm đắc, và
cũng chẳng
cần biết, ai là tác giả, nó thành của chung của nhân loại, vậy mà Thấy Cuốc làm lớn chuyện, NL gán cho của
DTM, thực ra của Horace. Người cũng chẳng cho biết Horace phán khi nào,
bởi vì
Người đâu biết, và Người đâu cần, chỉ là 1 dịp để Người không thể tự
dối mình, đành
đạp cho NL một cái!
Trong 1 bài
viết đã lâu, cho tờ Vấn Ðề, Mai Thảo order, anh viết cho VD một bài,
Gấu, nhớ đến
Nhất Linh, và “nhớ gọi nhớ, nhớ đẻ ra nhớ”, nhớ những mùa thu của xứ
Bắc Kít, bèn đi
1 đường “xoa đầu” cả ba, NL, Mùa Thu, và xứ Bắc Kít, mà Gấu lúc đó nhớ
điên lên
được, lại nhân mới đọc được 1 câu của tụi mũi lõ, một khẩu “cà nông”,
"đẹp và
cứng như thép" [đây là ước muốn của Sartre, làm sao viết được 1 cuốn
tiểu thuyết
đẹp và cứng như thép, và người đọc, khi đọc nó, thì sẽ hổ thẹn về đời
của họ, Gấu
nhớ đại khái]. (1) Thế là ra bài “Ði tìm 1 tác phẩm sẽ có”, trong đó
Gấu bệ
ngay câu
mới đọc được, làm “điển phạm”: Nhà văn nhớn là kẻ kết hôn với xứ sở của
nó.
Và xứ sở của
Nhất Linh, là xứ Bắc Kít, và cái cảnh nhặt lá bàng là 1 trong những
đoạn văn
mà Gấu "không thể tự dối mình", đành khen um lên, hay nhất, nhân hậu
nhất của NL,
về xứ Bắc Kít.
(1)
Roquentin
cũng giã từ thiên đàng. Anh có cảm tưởng đã sống cạn đời mình với giấc
mơ nhân
bản. Anh cũng quá chán lịch sử, luận đề này nọ và cuối cùng được cứu
vớt, nhờ
"tiểu thuyết". Anh mơ tưởng sẽ viết một câu chuyện "như nó có thể
xẩy ra, đẹp, cứng như thép và sẽ làm mọi người hổ thẹn vì cuộc sống của
họ".
Source
Cái sự kiện
NL lấy câu nói của Horace ban cho DTM, nếu đúng, thì cũng chỉ là
chuyện nhớ
sai, nhớ lộn, vẫn thường xẩy ra, có đâu ghê gớm, vậy mà Thầy Cuốc
hạ những câu,
"NL không biết cả đến những điều căn bản trong lý thuyết văn học",
"hoàn toàn không đáng tin cậy".
|
|