Cảnh đẹp VN
Vịnh Vân
Phong
CỐ ĐÔ HUẾ
Cố Đô Huế 1 >>>
http://www.youtube.com/embed/dO_xfFjh4iE
Cố Đô Huế 2 >>>
http://www.youtube.com/embed/yYgSr1RIOtA
Cố Đô Huế 3 >>>
http://www.youtube.com/embed/-ZTWHpurTeE
Cố Đô
Huế 4 >>> http://www.youtube.com/embed/Oz1Z04iN17k
Một trong ba
vị được Nobel y học, 2011, đi tầu suốt, thứ Sáu, 30 Tháng 9, 2011.
Samuel
Beckett
Man of words
Letters to
the editor and others
Note: Bài điểm
sách này của Người Kinh Tế cũng thật
tuyệt. Cùng số báo có bài điểm cuốn tiểu sử Copernicus
Copernicus’s
cosmos
Note: Bài điểm
này thật là tuyệt, nhưng bạn phải biết 1 tí về Copernicus, và nhất là,
phải đọc
Koestler, cuốn Những Kẻ Mộng Du, thì
mới thật đã.
TV post ở đây, và sẽ lèm bèm sau.
Thu
2011
Thơ Mỗi Ngày
MUSEUM
Here are
plates but no appetite.
And wedding
rings, but the requited love
has been
gone now for some three hundred years.
Here's a
fan-where is the maiden's blush?
Here are swords-where is the ire?
Nor will the
lute sound at the twilight hour.
Since
eternity was out of stock,
ten thousand
aging things have been amassed instead.
The moss-grown guard in golden slumber
props his
mustache on Exhibit Number ..
Eight.
Metals, clay and feathers celebrate
their silent triumphs over dates.
Only some
Egyptian flapper's silly hairpin giggles.
The crown
has outlasted the head.
The hand has lost out to the glove.
The right shoe has
defeated the foot.
As for me, I
am still alive, you see.
The battle
with my dress still rages on.
It
struggles, foolish thing, so stubbornly!
Determined to keep living when I'm
gone!
Wislawa
Szymborska
Sau đây là bản
dịch tiếng Việt, trên Blog Gỗ Mun, hay Gỗ Mùn, tuỳ bạn
thích từ dịch nào, của từ
Goldmund.
Bảo tàng
Những chiếc
đĩa nhưng chẳng ai thèm khát
Những chiếc
nhẫn, nhưng chẳng có tình yêu lứa đôi
Ít nhất cũng
ba trăm năm rồi
Một chiếc quạt
– nhưng ở đâu nét mặt đỏ gay
Những thanh
kiếm – nhưng ở đâu cơn giận dữ
Và chiếc đàn
ngái ngủ
Không một lần
rung lên
Vì không có
sự vĩnh hằng
người ta đã
sưu tập vào đây
mười nghìn đồ
cổ
Anh bồi giấy
mốc meo nhắm mắt ngủ ngon lành
râu vương
trên tủ kính.
...Kim loại,
thạch cao, lông chim
qua thời
gian lặng yên ăn mừng chiến thắng
Chỉ có chiếc
trâm cài của người đàn bà Ai cập khúc khích cười
Chiếc vương
miện đã phí công đợi một đầu người
Bàn tay đã
thua chiếc găng tay
Chiếc giày
chân phải đã thắng bàn chân phải
Còn tôi
Xin hãy tin
là tôi đang sống
Cuộc chạy
đua của tôi với chiếc áo dài
Vẫn còn đang
sôi động
Ôi, nó mới
bướng bỉnh làm sao?
Tựa như muốn
mình bách niên tồn tại!
Wislawa
Szymborska
Tạ Minh Châu
dịch
Sau đây là bình
loạn của GNV:
Một lần, Gấu
nhờ một vị, coi như sư phụ của G về tiếng Anh, sửa giùm 1 bài thơ của
W.S do Gấu
dịch.
Bà không sửa mà còn đi 1 đường mo ran:
Thơ dịch đã khó ngửi, lại dịch qua
1 ngôn ngữ khác, thì làm sao mà còn được cái gì nữa.
Nhưng số phận
của con người, nhất là của giống Mít, vào thời điểm này, rất cần dịch.
Bởi vì nếu
không dịch, là sẽ suốt đời chỉ có thể đọc chơi vài bài ca dao, vài câu
tiền chiến,
và nhiều câu xúi Mít đi giết người, thơ có thép, thơ xung phong.
Thảm hơn nữa,
là thứ thơ vãi linh hồn, thơ tình khóc lóc, van xin tình yêu, ở cả hai
phía, đực
và cái.
Bài thơ dịch
trên, theo Gấu, hỏng, vì người dịch cố kiệm lời, bỏ nhiều từ trong
nguyên tác,
vì thế mà bản dịch lệch pha đi nhiều quá.
Câu đầu:
Here are
plates but no appetite.
Những chiếc
đĩa nhưng chẳng ai thèm khát.
Nhà thơ SW cảnh báo về 1
tai họa của nhân loại, mấy cái dĩa ăn thì
còn đây,
mà cái thú ham ăn thèm ăn thì mất mẹ nó rồi.
Thành ra phải
dịch thật đầy đủ, thí dụ, là:
Này là ly, này là dĩa,
nhưng đâu rồi nỗi thèm “uống ly chanh
đường, nhắm môi em ngọt”? (1)
And wedding
rings, but the requited love
has been
gone now for some three hundred years.
Những chiếc
nhẫn, nhưng chẳng có tình yêu lứa đôi
Ít nhất cũng
ba trăm năm rồi.
Câu này bỏ đi
từ "requited", hoặc có dịch, thì không đúng từ tương đương trong tiếng
Việt, thành
thử ý nghĩa càng bị lệch dữ, lệch xệch hẳn đi như cặp mắt của GNV.
Bởi vì làm gì
có chuyện “tình yêu lứa đôi” mất mẹ nó những 300 năm rồi?
Không lẽ loài người
không còn tình yêu lứa đôi?
Theo Gấu, bà
nữ thi sĩ SW muốn nói tới thứ tình yêu đền đáp, xứng hợp, như
ân oán, như oan nghiệt, như nửa mảnh gương thề đi tìm hoài hoài nửa
kia, kiếp trước ta có nợ chi mi đâu, mà sao kiếp này mi đòi
kiếp khác?
Hà, hà.
NQT
(1)
DTL, nhà thơ
bạn Gấu, có câu thơ đúng ý bà nhà thơ Ba Lan S.W:
Ta hôn người
hôn môi rất tham.
Nên nhớ môi, [môi dưới nhe, không phải môi
trên, cái "gì gì" mà nhà văn THT gọi là bờ hạ, khe hạ...]
trong tiếng Mít, còn gọi là dĩa,
bởi vậy mà ra từ "đội dĩa", đi cặp với từ "nâng bi".
Ui chao, dĩa còn đây, mà
nụ hôn tham lam thì không còn.
Hay là đi hôn dĩa khác rồi?
Post bản dịch mới, từ Blog
Gỗ Mun
Viện bảo
tàng
(Wisława Szymborska)
Đĩa ở đây,
nhưng ngon miệng có đâu.
Nhẫn nơi
này, mà không tình giai ngẫu
đã qua rồi
thấm thoắt ba trăm năm.
Quạt nơi đây
– đâu má ửng nét hồng lan?
Đây kiếm
gươm – đâu rồi cơn uất hận?
Đàn lia dưới
ánh tà phím chẳng một lần ngân.
Vì sự vĩnh hằng
vắng bóng chốn trần gian,
người ta gom
về đây mười nghìn đồ cổ.
Bác thầy ký
mốc meo mơ màng trong giấc ngủ
Râu rủ trên
tủ kính trưng bày.
Gốm sứ, lông
chim, kim loại nơi đây
Vượt thời
gian âm thầm chiến thắng.
Riêng chiếc
trâm cài từ miền Ai Cập
đang khẽ
khúc khích cười.
Chiếc vương
miện hoài công chờ đợi một đầu người
Bàn tay thua
găng tay, và chiếc giày bên phải
đã chiến thắng
bàn chân.
Còn tôi, tôi
đang sống, xin bạn hãy vững tâm.
Cuộc chạy
đua của tôi với chiếc váy dài vẫn đang tiếp diễn.
Ôi chiếc váy
thật là bướng bỉnh!
Nó như muốn
trường tồn bất chấp kỷ niên!
(Thái Linh dịch)
Nhân đang nói
chuyện tình oan nghiệt, nửa kia, nửa khác, tình cờ đọc bài sau đây, của
Borges,
thật tuyệt: The Double, trong
"Cuốn sách của những sinh vật tưởng tượng", The Book
of Imaginary Beings.
The Double
Suggested or
stimulated by reflections in mirrors and in water and by twins, the
idea of the
Double is common to many countries. It is likely that sentences such as
A
friend is another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were
inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger,
which means "double walker." In Scotland there is the fetch, which
comes to fetch a man to bring him to his death; there is also the
Scottish word wraith for an
apparition thought to be seen by a person in his exact image just
before death. To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad
"Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this
theme. There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met
Themselves") in which two lovers come upon themselves in the dusky
gloom
of a woods. We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly
Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn
(Some Chinese Ghosts).
The ancient
Egyptians believed that the Double, the ka, was a man's exact counterpart,
having his same walk and his same dress. Not only men, but gods and
beasts,
stones and trees, chairs and knives had their ka, which was invisible
except to
certain priests who could see the Doubles of the gods and were granted
by them a
knowledge of things past and things to come.
To the Jews
the appearance of one's Double was not an omen of imminent death. On
the
contrary, it was proof of having attained prophetic powers. This is how
it is explained
by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the story of
a man
who, in search of God, met himself.
In the story
"William Wilson" by Poe, the Double is the hero's conscience. He
kills it and dies. In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs
his
portrait and meets his death. In Yeats’s poems the Double is our other
side,
our opposite, the one who complements us, the one we are not nor will
ever
become.
Plutarch writes
that the Greeks gave the name other self
to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất,
dẫn dụ, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ
cặp song
sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu
này “Bạn
Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư tưởng Hãy Biết Mình của trường
phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ
sóng đôi, kép”. Trong tiếng Scotland thì là từ fetch, cũng
có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết
đến cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng
Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn
thấy, là thở
hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái
chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác
của mình
trôi qua, quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương
"Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này.
Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How They
Met
Themselves"], hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc
chạng vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"),
Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist,
Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some
Chinese Ghosts).
Những người
Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích thị
của 1 con
người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con
người mà thần thánh,
thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài
ông thầy
tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho
khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do
Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha
nội, lẹ lên
không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao Bồi,
bạn của Gấu,
như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi,
là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ
đòi mạng, thì đi thế
đéo nào được?]. Ngược lại, họ
tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng
tiên tri.
Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại
được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm
hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
MILAN
DJORDJEVIC
[1954-]
Born in
Belgrade, Djordjevic is a short-story writer and essayist and a
translator as
well as a poet. His first book of poems, On Both Sides of the Skin, came out in
1979. Since then, there have been seven more, the latest of which has
just been
published. He has received most of the prestigious literary awards in
Serbia
for his collections of poetry and his stories and essays and has had
his work
translated into German, Polish, Romanian, Hungarian, Slovak,
Portuguese, Macedonian, and now English.
Love Poem
My dear
Nothing,
with love and words I keep trying
to breathe
life into you.
With so much flirting
I'm becoming
a part of you.
My dreamy
Nothing,
daughter of
human nothingness,
I want you dead and gone,
but you are
indestructible,
truly
untouchable
like
everything imagined.
Will I be
free of you,
one day perhaps?
Or will I
hide you deep within me
while all around me you give birth
to monsters and
specters?
You'll
whisper the same stories,
pour over me
the same
black ashes
and desert rains
without
erasing the bloodstains
of my childhood.
My sweet and
formless,
bloodless and colorless,
best-loved Nothing,
with what
eyes shall I look at you
to see you truly
and remember
your face forever?
Nàng Tình Rỗng
(1)
Nàng Tình Rỗng
thân yêu của tôi ơi
Bằng tình yêu
và những từ, tôi cố thổi đời sống vô em
Với quá nhiều
mánh mung tán tỉnh
Tôi trở thành
một phần của em
Nàng Tình Rỗng
Mơ Mộng của tôi ơi
Em là đứa
con gái của Hư Vô của con người
Tôi muốn em
chết, và cút cha em đi
Nhưng em thì
vô phương huỷ diệt
Thực sự mà nói,
không làm sao mà sờ vô em được,
Như mọi thứ tưởng
tượng.
Liệu anh có
thoát khỏi tay em?
Một ngày nào
đó,
Có lẽ?
Hay là anh sẽ
giấu em thật sâu trong anh
Trong khi chung
quanh anh
Em đẻ ra đủ
thứ ma quỉ?
Em sẽ thì thầm
cũng vẫn những chuyện đó
Ðổ lên anh
Cũng vẫn thứ
tro than đen đủi
Và mưa sa mạc
Chẳng kỳ
cọ, rửa ráy những vết máu
Của tuổi thơ
của anh
Nàng Tình Rỗng
Ngọt Ngào, Không Hình Dáng,
Không Máu
Me, Không Màu Sắc
Yêu Chết Ði Ðược
Với mắt
lé nào tôi nhìn em
Ðể thực sự nhận ra em
Và nhớ hoài
hoài khuôn mặt... BHD?
(1)
Cung Tích Biền, Hòa Bình: Nàng Tình Rỗng, tiểu
thuyết của CTB, xb trước
1975.
NQT
Graham
Greene, kết thúc Tẩu Vi Thượng Sách, Ways of Escape,
bằng 1 bài thần sầu về Kẻ
Kép mà ông gọi là Kẻ Kia, The Other. Bởi là vì ông nổi tiếng, cho nên
rất nhiều
người nhận là Kẻ Kép, Kẻ Kia, Một Nửa, Chính Tớ Ðó…
Nhân đây, đi thêm 1 đường về
The Other, cũng là 1 cách truy tìm Kiếp Khác.
NQT
Mở ra bài viết
khép lại cuốn sách của mình, [open and shut], Greene “viết giùm” GCC:
Cuốn sách này không phải
là một chân dung tự họa, self-portrait. Tôi nhường cái
đó cho bạn quí và kẻ thù.
Tuyệt.
Cứ như GGC đang vượt dòng
sông Mekong, nhìn lại, và thấy cái xác của mình
đang lềnh bềnh trôi ra biển!
Wislawa
Szymborska's "Vermeer"
A poem
against the apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế
Aug 27th
2010, 16:53 by More Intelligent Life, A.R. | NEW YORK
I HAPPENED
upon this poem on the New York Review of Books's website, and was
startled by
how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between motion
and
stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen yet continually
happening.
Vermeer
So long as
that woman from the Rijksmuseum
in painted
quiet and concentration
keeps
pouring milk day after day
from the
pitcher to the bowl
the World
hasn’t earned
the world’s
end.
I love the
shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I
also
love the tension she sets up between the "W" and the "w",
which appears hierarchical but is also slippery.
"Vermeer",
Wislawa Szymborska, translated from the Polish by Clare Cavanagh and
Stanislaw
Baranczak
Note: Bài
thơ này, TV đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng Việt,
của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và "w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú
chứ!
VERMEER
Một
khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source
I love the
shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I
also
love the tension she sets up between the "W" and the "w",
which appears hierarchical but is also slippery.
Tôi mê cái dáng
của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi
cũng mê sức
căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng
cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.
Ui chao, phán
như thế mới là phán chứ, nhỉ?
Nhưng bạn đã
nhận ra sức căng của thời tiết, vào lúc trời đất rơi vào thu phân?
…
tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như
rừng rơi vào thu phân.
TMT
Tiện thể đi thêm 1 đường Prospero, về Thơ Ca và Chủ
Nghĩa Vác Ngà Voi: Thơ có thể nói cái gì?
Books, arts
and culture
Prospero
Poetry and
humanitarianism
What can
poetry say?
Sep 23rd
2011, 10:06 by E.H. | LONDON
THEODOR
ADORNO famously declared in 1951 that to write poetry after Auschwitz
was
“barbaric”. Mindful of the limits of words, generations of poets still
strive
to use them to describe the impossible.
“Poetry and
the State”, an event that took place on September 20th, was haunted by
this
problem: how to put into words events that leave you speechless.
Organized by
the poetry initiative “Poet in the City”, the magazine Modern Poetry in
Translation and Amnesty International, the evening aimed to show the
relevance
of poetry in making “a public statement with a universal reach”. The
five poets
who gave readings were connected, in some way or another, to
humanitarian
causes. They included Timothy Allen, a former aid worker, Zuzanna
Olszewska, a fellow
from Oxford who conducts anthropological studies with female Afghan
refugees,
and Carlos Reyez Manzo, Amnesty’s first poet in residence, who survived
torture
under Pinochet’s regime in Chile.
This
makes it a difficult event to criticize.
But although there were moments of joy in the readings—for instance,
the
concluding lines in Mr. Allen’s translation of Ho Chi Minh’s “Prison
Diary”
from the Vietnamese, “my poems are made of steel / and each is an act
of
resistance”—on the whole, the evening did not hold together. It felt as
if the
poets had been chosen more for the problems they wrote about rather
than how
well they wrote. The question of translation only seemed pertinent when
Amarjit
Chandan read from his poems both in Punjabi and English, creating a
delightful
interplay between the two languages.
Swamped by
the various causes they were connected to, and only speaking for an
average of
12 minutes each, the poets were unable to stand out as individuals.
They were
gathered together under an umbrella of worthiness, but there was no
examination
of the relationship between poetry and humanitarianism. We were meant
to take
it for granted that poetry is a force for good against subjects as
diverse as
Pinochet, Britain’s cuts in arts funding (which David Constantine of
Modern
Poetry in Translation decried for making the country the “philistine
place
we’re in”), and the state of the environment.
“Poetry and
the State” seemed to hold a complacent view of poetry as an inherently
ethical
or comforting medium that brings people together. But in doing so, the
evening
undermined the power of any one poet to say much of anything.
TTT 2011
Thảo Trường, giỗ
đầu
Cali 8, 2011
Cali
3.08
@ Lý Kiến
Trúc, Văn Hóa Magazine's Office. Hình vụ Trần Trường
Lần qua
Cali, cuối tháng Hai, đầu tháng Ba, 2008 gặp Nguyễn Tôn Nhan, gặp nhiều
bất
ngờ thú
vị.
Qua ngày hôm trước, hôm sau dự đại tiệc, ngồi bàn danh dự, VIP, có
rượu, khỏi
phải trả tiền.
Cú này là do
1 cô thuộc ban tổ chức, bà con của NDT lo liệu hết. Hô hào quyên góp
làm 1 cái
cổng chào, một thứ cầu treo hình như thế, ở Tiểu Sài Gòn.
Lần đầu tiên gặp VTD ở đây. Anh chắc cũng trong ban tổ chức, bèn kéo
Gấu tới
giới thiệu 1 vị quan khách bự, là 1 chánh án Mẽo gốc Mít, NTN.
Ông này Gấu quen. Bạn của bạn C. em nhà thơ TTT. Mừng quá, quên cả lịch
sự, Gấu
la lớn: Ô, mày đó hả, nhớ tao không? NQT, bạn PDC, em TTT, nhớ
không?
Mặt ông chánh án Mẽo da
vàng mũi tẹt 1 đống, đếch thèm nói 1 tiếng.
Mấy bữa sau,
dự 1 bữa tiệc nữa, cũng quyên góp, nhưng cho một cơ sở từ thiện
Thiên Chúa
Giáo ở Việt Nam.
Gặp ca sĩ Ngọc Hạ. Em trình diễn free cho bữa tiệc.
Cô em bà con của NDT kéo Em
tới ngồi
với Gấu.
Có NDT ngồi
cùng bàn, nhưng thôi, bạn mình biến đi cho được việc!
Ngọc Hạ
Website
NDT &
PTH & Nguyễn Tôn Nhan
@ Paracel
Seafood, Little Saigon, Cali
Hình cái cổng chào ở trên tường.
Cũng là lần
đầu tiên gặp NDB, bạn nhậu
Dịch
là Phản?
Note: V/v vị tác
giả VCL này, GCC có lần mail cho 1 diễn đàn mà ông hay đóng góp bài vở,
cũng về
cái vụ dịch dọt như vầy, và vị chủ diễn đàn trả lời, tui biết, nhưng
thà đăng
những bài như vầy còn hơn là đăng mấy bài chửi bới, chính chị, chính em!
Số Granta Winter, 2004, về
Mẹ, có bài viết của Ryszard Kapuscinski, When there is talk of 1945 [Nói về
năm
1945 khi nào], thật là tuyệt, với Mít, vì 1945 đúng là cái năm
khốn khổ khốn
nạn của nó.
Ðây là 1 hồi ức về tuổi
thơ của ông, lần đầu nghe bom nổ, đâu biết
bom là gì, chạy đi coi, bị mẹ giữ lại, ôm chặt vào lòng, và thì thào,
cũng một điều
đứa bé không làm sao hiểu nổi: “Chết ở đó đó, con ơi, There’s death
over there,
child”.
Những năm tháng chiến tranh trùng hợp với ấu thời, và rồi, với những
năm
đầu của tuổi trưởng thành, của tư duy thuần lý, của ý thức. Thành thử
với ông,
chiến tranh, không phải hòa bình, mới là lẽ tự nhiên ở đời, the natural
state. Và
khi mà bom ngưng nổ, súng ngưng bắn, khi tất cả im lặng, ông sững sờ.
Ông nghĩ
những nguời lớn tuổi, khi đụng đầu với cái im lặng đó, thì bèn nói, địa
ngục chấm
dứt, hòa bình trở lại. Nhưng tôi không làm sao nhớ lại được hòa bình.
Tôi quá trẻ khi đó. Vào lúc chiến tranh chấm dứt, tôi chỉ biết địa
ngục.
Một trong những
nhà văn của thời của ông, Boleslaw Micinski, viết, về những năm đó:
Chiến tranh
không chỉ làm méo mó linh hồn, the soul,
của những kẻ xâm lăng, mà còn tẩm độc nó, với thù hận, và do đó, chiến
tranh còn làm
biến dạng những linh hồn của những kẻ cố gắng chống lại những kẻ xâm
lăng”. Và
rồi ông viết thêm: “Ðó là lý do tại sao tôi thù chủ nghĩa toàn trị, bởi
vì nó dạy
tôi thù hận”.
Trong suốt
cuộc chiến, hình như Bắc Kít chưa từng quên hai chữ thù hận. Nhưng hết
cuộc chiến,
vẫn không bao giờ quên cả. Thành thử, cái còn lại muôn đời của cuộc
chiến Mít,
theo GNV, chỉ là thù hận.
Một người
như Kỳ Râu Kẽm, “bó thân về với triều đình”, như thế, mà đâu có yên
thân. Chuyện
ông bị đám hải ngoại chửi thì còn có lý, vì rõ là phản bội họ. Nhưng
khốn nạn
nhất là lũ VC chiến thắng, chúng vẫn giở cái giọng khốn nạn ra,
thôi tha
cho tên tội đồ. Cái “gì gì” đứa con hư đã trở về nhà.
Cái còn lại
chỉ là thù hận, nhưng khủng nhất thì vẫn là giữa những đấng Bắc Kít.
When
There
Is Talk of 1945
Ryszard
Kapuscinski
When there
is talk of the year 1945, I am irritated by the phrase, 'the joy of
victory'.
What joy? So many people perished! Millions of bodies were buried!
Thousands
lost arms and legs. Lost sight and hearing. Lost their minds. Yes, we
survived,
but at what a cost! War is proof that man as a thinking and sentient
being has
failed, disappointed himself, and suffered defeat.
When there
is talk of 1945, I remember that in the summer of that year my aunt,
who
miraculously made it through the Warsaw Uprising, brought her son,
Andrzej, to
visit us in the countryside. He was born during the uprising. Today he
is a man
in late middle-age,
and when I
look at him I think how long ago it all was! Since then, generations
have been
born in Europe who know nothing of what war is. And yet those who lived
through
it should bear witness. Bear witness in the name of those who fell next
to
them, and often on top of them; bear witness to the camps, to the
extermination
of the Jews, to the destruction of Warsaw and of Wroclaw. Is this easy?
No. We
who went through the war know how difficult it is to convey the truth
about it
to those for whom that experience is, happily, unfamiliar. We know how
language
fails us, how often we feel helpless, how the experience is, finally,
incommunicable.
And yet,
despite these difficulties and limitations, we should speak.
“Niềm vui
chiến thắng”. Niềm vui nào, khi nói về cái ngày 30 Tháng Tư 1975 đó?
Bao nhiêu
con người chết, để được 1 nước Mít băng hoại, sa đọa, không còn một
chút tự hào
nào về giống Mít.
Ðúng, chúng
ta sống sót, nhưng biến thành 1 cái giống quái gì, ngay 1 tên VC nằm
vùng như
DH mà còn nghĩ là có thể do ăn nhằm phải 1 thứ gì đó mà VC biến thành
ruồi...