September
-For Petr Král
I was in Prague looking for
Vladimir
Holan's house,
the prison-house where he spent fifteen years.
(I thought I'd find it easily, roosters
would guide me and an old priest
in a neatly mended cassock would say:
here lived the poet, and suffering slept here
like a stray cat, hiding once a week
in a fur coat's sleeve.)
The light already felt like fall,
the sun was a bit offended. September kissed the hills
and treetops like someone leaving
on a long trip who realizes only at the station
that he's lost his keys.
Inside the labyrinth tourists moved warily,
consulting the black void of their cameras.
The elms' flames floated over parks
like Saint Elmo's fire. Bonfires in gardens
and gray smoke above the earth, the wells.
But chestnut leaves, light and dry,
like a certain kind of unconcerned old age,
kept sailing higher.
What are baroque churches? Deluxe
health clubs for athletic saints.
They didn't want to help me. (Whoever seeks another's home, one
handsome,
learned angel whispered,
will never find his own.) No one would help me.
Children shrieked happily
for no reason (full of cruelty just in case).
The wind was full of air, the air full of oxygen,
the oxygen held memories of a trip beyond the sea.
Was I right, were the palaces' walls, yellowed
as from nicotine, absorbed in border disputes?
I couldn't find Holan's house.
Life triumphed, as always, but the dead poet
dwelled in oblivion, in the sparks shooting
from beneath the welder's palm, in my growing exhaustion.
Nowhere, nowhere, nowhere at all.
He comes here, but only at night,
someone finally told me who wasn't there.
Adam Zagajewski: Mysticism for
Beginners
Nowhere, nowhere, nowhere at
all.
He comes here, but only at night,
someone finally told me who wasn't there.
Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại
Hànội chờ tầu
về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng,
phố Trần
Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm
nhắc thành
tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..",
TTT: Trong Đất
Trời Nhau
Le Parfum des humanités
Blog
NL
Les humanités
Je vais vous dire ce
que me rappellent,
tous les ans, le ciel agité de l’automne, les premiers dîners à la
lampe et les
feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent ; je vais vous
dire ce
que je vois quand je traverse le Luxembourg dans les premiers jours
d’octobre,
alors qu’il est un peu triste et plus beau que jamais ; car c’est
le temps
où les feuilles tombent une à une sur les blanches épaules des statues.
Ce
que je vois alors dans ce jardin, c’est un petit bonhomme qui, les
mains dans
les poches et sa gibecière au dos, s’en va au collège en sautillant
comme un
moineau. Ma pensée seule le voit ; car ce petit bonhomme est une ombre
; c’est
l’ombre du moi que j’étais il y a vingt-cinq ans.
…
Il y a vingt-cinq ans, à pareille époque, il
traversait, avant huit heures,
ce beau jardin pour aller en classe. Il avait le cœur un peu serré :
c’était la
rentrée.
Pourtant, il trottait, ses livres sur son dos, et sa
toupie dans sa poche.
L’idée de revoir ses camarades lui remettait de la joie au cœur. Il
avait tant
de choses à dire et à entendre.
…
C’est ainsi qu’il traversait le Luxembourg dans l’air
frais du matin. Tout
ce qu’il voyait alors, je le vois aujourd’hui.
C’est le même ciel et la même terre ; les choses ont
leur âme d’autrefois,
leur âme qui m’égaye et m’attriste, et me trouble ; lui seul n’est plus.
C’est pourquoi, à mesure que je vieillis, je
m’intéresse de plus en plus à
la rentrée des classes”.
Anatole
France, Le livre de mon ami, X.
Les humanités
"Les Humanités", Gấu nhớ,
đã
từng được ai đó dịch là "Sự Tồn Cổ".
Cái đoạn văn đầu tiên mở ra bài viết của A France trên
đây, đã có 1 thời. gần như bất cứ một học sinh Trung Học, trong có Gấu,
thuộc lòng.
Sau này, khi viết về BHD, Gấu lại thuổng, khi nhìn em tha thẩn trong
vườn Bờ Rô,
mỗi lần đưa cô em đến trường, trường Kiến Thiết, ở 1 con hẻm Phan Ðình
Phùng gần
Chợ Ðũi, trở về nhà. (1)
(1)
"Sao không hát cho những người
vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng
nước
mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích.
Của cuộc
chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống
thảm hại,
nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn
Duyệt-Phan
Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt
hải chạy
ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé
dời lên
đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu
Chợ Đũi,
đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu
đường. Khi
về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo
chiếc lá
nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Lần
Cuối Sài Gòn
Bạn đang nhìn bức hình, thì đây
là con đường băng qua vườn Bờ Rô, sau lưng bạn là đường Nguyễn Du,
Gấu đang chạy
xe solex có em BHD ngồi phía sau, tới trường Gia Long, phía trước mặt.
Hà, hà!
Bức hình này, đúng là thời gian đó, cỡ 1966-7.
Tôi sẽ nói
cho bạn biết hàng năm bầu trời chập chùng mùa thu, những bữa cơm chiều
đầu tiên
ăn dưới ngọn đèn, những chiếc lá úa vàng trong những hàng cây run rẩy;
tôi sẽ
nói cho bạn biết điều mà tôi nhìn thấy khi băng qua vườn Lục Xâm Bảo
những ngày
đầu tháng Mười, trời thì hơi buồn nhưng đẹp như chưa bao giờ đẹp như
thế;
Ui chao, hình như Gấu, hồi
nảo hồi nảo, đã từng tập tành dịch….
Xưa rồi Gấu
ơi!
Hằng
năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những
đám mây
bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu
trường.
Tôi
không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng
tôi như
mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những
ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi
và ngày
nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới
nón mẹ lần
đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi
sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm
nắm tay
tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi
lại lắm
lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều
thay đổi,
vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
My hunger is
infinite and my hands always empty.
Down city
streets I carry at night the moon on my fingers
and leave my
sadness under the windows of unhappy women.
I would give
everything and yet I have nothing.
My hunger is
infinite and my hands always empty.
RADE DRAINAC
[1899-1943]
Drainac was
a famous Belgrade bohemian who spent his life in the taverns of the
city often
playing the violin. He served in the Serbian army in the First World
War. His
first book Purple Laughter was published in 1920. He wrote three more
collections of poetry plus a novel and a war diary. He was influenced
by
Apollinaire, Cendrars and Esenin. He died of consumption.
Cơn đói của
tôi thì vô cùng, hai bàn tay của tôi thì trống trơn.
Dưới phố,
tôi nhón mặt trăng bằng những ngón tay
và để nỗi buồn
của tôi ở bên dưới cửa sổ những phụ nữ bất hạnh.
Tôi cho mọi
thứ, tuy nhiên, tôi chẳng có gì.
Cơn đói của
tôi thì vô cùng, và hai bàn tay của tôi thì trống trơn.
Thỉnh thoảng
lại thấy mấy hạt sạn trên TV :
1.
The
trembling finger of a woman
Goes down
the list of casualties
On the
evening of the first snow
The house is
cold and the list is long.
All our names
are included.
Ngón tay run
rẩy của người đàn bà
Chạy dọc
theo, không phải
danh sách
chiến lợi phẩm,
mà là những
mất mát, tổn hại.
Vào một buổi
chiều đầu tuyết
Căn nhà thì
lạnh, và danh sách thì dài.
Tên của tất
cả chúng ta thì đều có trong đó.
List of
casualties : Danh sách tổn thất (nhân mạng: những người chết , bị
thương, mất
tích .. .)
2. Trong một
đoạn phỏng vấn Murakami, " To make up one's mind " có nghĩa là "
quyết định" (làm một việc gì đó) chứ không phải "đổi cái đầu " .
Đoạn ấy đâu rồi tìm không thấy trên mấy bài đang đăng nên không copy
and paste
được . (1)
Và một số
khác, nhưng chừ quên rồi .
K
Tks. Sẽ sửa
lại. NQT
Khi dịch “List of casualties”, và “made up your mind”,
“lệch pha” như
trên, Gấu bị THNM, và nghĩ đến đám… VC.
Chúng đâu cần biết tổn thất, mà chỉ
nghĩ đến chiến lợi phẩm. Chúng làm sao "quyết định", nhưng giả như
chúng
"đổi cái đầu", vờ đi ít lâu
văn học hiện thực xạo hết chỗ nói, may ra có khác đi chăng!
Ða tạ. NQT
ps: Và “bà mẹ
huyền thoại” của TCS, hẳn là thua bà mẹ trong bài thơ “Chiến Tranh” sau
đây, của
Charles Simic. (2)
Làm sao mà bằng Bà Mẹ Gio Linh của
Phạm Duy được !!!
K
Cả hai bà mẹ
Mít, Mẹ “giao liên, huyền thoại, che mưa”… và Mẹ Gio Linh, đều thua Mẹ
Serbia của
Simic.
Một ông da vàng, hát nhạc vàng, mê nhạc đỏ… và một ông" đi và về cùng 1
nghĩa như nhau", cả hai đều lợi dụng thơ và nhạc cho mục đích, mục tiêu
cá nhân,
để “khuây khỏa” lòng dạ đen tối của họ.
Một, chạy tội, một, “bi thảm hóa thảm kịch”.
Thảm kịch đã khốn nạn rồi, vậy mà còn bi thảm hoá nó, để "ăn khách" hơn
lên.
"Em" TT, người đẹp trong truyện ngắn Cửa
Sau của MT, chẳng đã thú tội trước bàn thờ, mỗi lần hát
Mẹ Gio Linh, là mỗi lần khóc ư?
Làm sao so được với thứ
thơ ca “thực”, được.
NQT
Cô Tư, trong Một Mối
Tình, có phán 1 câu, áp dụng vô đây, thì thật là "thông minh
và sáng tạo",
để phân biệt giữa nước mắt, thực và giả, giữa giấc mộng đã tan sao ảo
tưởng vẫn
còn!
Chợt nó hỏi:
-Sao Dì Út
không lấy chồng, Dì ở vậy hoài Ngoại rầu lắm đó."
-Dì còn phải
đi hát.
-Dì hát vui
hay Dì lấy chồng vui?
Tôi cười, lấy
chồng vui hơn, nhưng phải lấy ngay trân người mình thương kìa. Còn đi
hát thì
không vui không buồn, mơ hồ lắm, thấy cười ha ha chưa chắc đã vui, thấy
rặn ra
một đống nước mắt vậy mà hổng phải buồn. Có lúc đang ở nhà lại muốn đi,
có lúc
đang hát ở trên sân khấu vậy tự nhiên thèm về nhà. Bầu hỏi tôi thường
đóng vai
gì, tôi kể, nhiều lắm, hiền có, ác có, mà toàn vai phụ không thôi... Tự
dưng
tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, tôi bảo, nhưng có một vai Dì
thèm mà
không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình thường, có chồng, sống
với
nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi sáng, chở mớ rau vườn ra chợ, mua
ít thức
ăn về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ
chồng từ
ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô nhà.... Và để được nghe con trai
mình
nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi. Ừ,
Dì chỉ ước
có vai bình thường vậy....
Cái thứ nước
mắt rặn ra cả đống đó, chính là cái mà đám nhà văn nhà thơ nhạc sĩ Mít
mong muốn.
Thảm như thế đấy. Ông TCS thì biết gì về bà mẹ huyền thoại. Ông PD thì
cũng rứa.
Cả đời cả hai ông không dám khóc “thật”, đành làm thứ “xướng ca vô
loài” xin tí
nước mắt của người đời!
Hai ông làm sao đóng vai
một người bình thường?
Trong cái đời
thường của nghệ sĩ, người đọc nhận ra họ cũng như mình, cũng có những
nỗi đau
khổ mình ên, và có những lúc, họ khóc thật, cho riêng họ. Ðây là cái sự
khác biệt,
cực khác biệt, giữa mũi tẹt và mũi lõ, và chính vì thế mà cái dạng văn
học tiểu
sử cũng rất được ưa chuộng ở Tây Phương, như qua những nhận định sau
đây về
Brodsky, trong bài viết The
Gift:
Joseph
Brodsy và những vận may của sự không may, Joseph
Brodsky and the fortunes of misfortune.
Brodsky
experienced all the struggles of his generation on his own hide, as the
Russians say. His exile was no exception.
Brodsy kinh
nghiệm tất cả những cuộc chiến đấu của thời đại của ông, mình ên, như
người Nga
nói. Cái sự lưu vong của ông thì cũng không ngoại lệ.
Trong khi đó,
chúng ta đâu thấy ông PD “vật lộn” với những cuộc vật lộn của thời của
ông? Kháng
chiến, ông đi, được mấy ngày, bỏ về, vì chịu không nổi cái đói, cái
khổ. Ông
TCS thì cũng thế, trốn lính, mê VC, sau 30 Tháng Tư, bèn tưởng tượng ra
bà mẹ
huyền thoại che mưa cho đàn con, trong không có ông, để trình ra cho Hồ
Tôn Hiến
thấy, để đổi lấy vài ly rượu!
Chẳng ông nào
‘mình ên’ đau cái đau 1 mình, nhưng mà là của chung một thời đại của
mình cả.
NQT
Bài viết này, Cô Tư
cũng kinh nghiệm tất cả những cuộc chiến đấu của thời của mình, mình ên!
Tháng
Tư
Bỗng nhớ
tới
Simenon.
Cái
câu chuyện Simenon nhờ nữ sư phụ Colette phán cho một câu, mà trở thành
nhà
văn, Gấu đọc, như một giai thoại, vào thời mới lớn, mới tập tành viết,
và cứ gật
gù mãi, ấy là vì, Simenon học chỉ một chiêu mà thành đạt ghê gớm như
vậy, trong
khi Gấu được ông anh, thay mặt Trình Giảo Kim trong Thuyết Đường truyền
cho tới
ba chiêu búa thần, chẳng lẽ không nên cơm cháo gì sao! Bây giờ, vớ được
bài phỏng
vấn, thì mới thủng chuyện.
Georges Simenon.
Chỉ một mẩu khuyên, a piece of advice, từ một nhà văn mà thật quá có
ích cho
tôi. Đó là từ Colette. Tôi đang viết truyện ngắn cho tờ Matin, Buổi
sáng, và
Colette thì là nhà biên tập văn học vào lúc đó. Tôi nhớ là tôi đưa cho
bà hai
truyện ngắn, và bà quẳng lại, và tôi lại thử nữa, nữa, và cứ thế, cứ
thế. Sau
cùng, bà nói, Coi nè, nó quá văn chương, luôn luôn quá văn chương.
[Look, it is
too literary, always too literary]. Vậy là tôi theo lời khuyên của bà.
Và đó là
điều tôi làm khi viết, và là công việc chính của tôi, khi tôi viết lại,
the
main job when I rewrite.
Ông muốn nói gì với từ ‘too literary’? Những gì ông cắt
bỏ, một số từ này, từ
nọ?
Tính từ, trạng từ, bất cứ một từ có đó để tạo hiệu ứng,
effect. Mọi câu có
đó chỉ như là câu. Every sentence which is there just for the sentence.
Bạn biết
không, bạn có một câu đẹp, cắt! Mỗi khi tôi thấy một câu như thế ở
trong một
trong những cuốn tiểu thuyết của tôi, là cắt.
Ông đọc lại theo kiểu đó?
Hầu hết là như vậy.
Chứ không phải chuyện coi lại, chỉnh lại tình tiết
[revising the plot
pattern]?
Ô, chẳng bao giờ tôi làm chuyện đó. Đôi khi tôi thay
đổi tên nhân vật…
Ông phóng viên cho biết, trong phòng ông, có đủ thứ niên giám điện
thoại, chỉ để
ông tìm tên cho nhân vật
Có thể nói,
cõi văn thơ nhạc... Mít, thì đều lâm vào tình trạng “ăn mày ăn xin nước
mắt”, hơi
1 tí là vãi linh hồn, lúc nào cũng chờ dịp ca sáu câu vọng cổ cả!
Bỗng nhớ những
ngày ở Trại Cấm Thái Lan, thời gian đang đợi thanh lọc. Phúc đức làm
sao, nhờ dạy
Anh Văn, một đấng học trò một bữa mang tới tặng Thầy cuốn “Hai mươi năm
văn học
Miền Nam”, của Nguyễn Ðông Ngạc xb, còn có cái tên thật bảnh là “Những
truyện ngắn
hay nhất của quê hương chúng ta”. Trong có truyện Mộ Tuyết của Gấu Nhà
Văn.
Một bà xồn xồn, mê viết
văn, đã từng có
truyện ngắn đăng trên LV, qua GNV viết thư gửi gấm NNN, bèn mượn
đọc, xong,
bĩu môi, truyện viết về người em trai tử trận mà bói không thấy 1 giọt
nước mắt,
chẳng biết "hay nhất" ở chỗ nào!
Gấu viết
truyện đó, đúng thời gian lậm Faulkner, trong có những câu gần như
thuổng nguyên xi Thầy,
và khi chọn, đưa vô tuyển tập, là cũng nghĩ, liệu sau này có người nào
nhận ra,
đây đúng là thứ văn Mít đang... thiếu: Một dạng văn học, bề ngoài
có vẻ như là 1
thứ báo cáo, report, phóng sự, reportage, gạt bỏ hết "ê mô xườn",
emotion…
Sau này đọc
Sebald, nhất là những bài có tính chất ký, pha tiểu luận văn học, nhận
ra cùng
1 dạng.
Gấu qua được
thanh lọc, một phần, là nhớ cuốn sách này.(1)
Do
đến trại tị nạn sau “tử điểm”, tức là sau thời hạn được “tự động” coi
là tị nạn
chính trị, những người như tôi phải trải qua một cuộc thanh lọc, qua đó
nhà
chức trách nước tạm dung sẽ quyết định coi đủ tư cách tị nạn chính trị,
hay chỉ
là di dân kinh tế.
Thời
gian chờ đợi thanh lọc thường trên dưới một năm. Với chúng tôi, nó còn
là thời
gian “chạy thuốc”: liên lạc thân nhân ở nước ngoài, nếu có, hoặc bạn
bè, cơ
quan, đơn vị cũ… để xin tiếp tế và lo giấy tờ xác nhận, hoặc làm hồ sơ
bảo
lãnh.
Nhân đọc một số báo (hình như của lực lượng kháng chiến Hoàng Cơ Minh)
ở trong
trại, thấy tên nhà văn Trùng Dương, tôi viết thư tới bà, qua địa chỉ
toà soạn.
“Thư của bạn tới tôi sau khi đã đi gần hết nửa vòng trái đất,” bà viết
thư trả
lời, từ một địa chỉ Hồng Kông, do đang được học bổng nghiên cứu về
Trung Hoa
lục địa. Bà than giùm, “Bạn qua trễ quá!”
Kèm, là thư của Nguyễn Ngọc Ngạn (khi đó là chủ tịch Văn Bút Việt Nam
Hải
Ngoại), gửi cho Trùng Dương, chứ không phải cho tôi, “Bạn nhờ tôi can
thiệp cho
một ông bạn nào đó, nhưng lại quên không cho địa chỉ…”.
Tôi liên lạc. Anh trả lời, gửi tặng sách (cuốn Ý Trời, nguyên tác tiếng
Anh,
anh là tác giả, The Will of Heaven, chắc là muốn dặn dò khéo: hãy cố lo
học
tiếng Anh!).
Kèm giấy xác nhận. Là hội viên Văn Bút Việt Nam từ trước 1975.
Sau này gặp, anh cho biết, đã phải nhờ một tờ báo địa phương lo
in giùm,
chỉ bốn giấy chứng nhận, với tiêu đề Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại thật
tuyệt. Bốn
tờ xác nhận, cho bốn người, lúc đó đang ở trại tị nạn vùng Đông Nam Á.
Ở Thái
Lan, có ký giả Hồ Ông và tôi.
Có thể, việc xác nhận là “bổn phận” của anh, với tư cách đương kim chủ
tịch Văn
Bút Việt Nam Hải Ngoại, nhưng cứ nghĩ đến cảnh anh loay hoay nhờ cậy
người này
người nọ “vẽ” giùm cho một “tác phẩm” đẹp tuyệt vời như trên, thật là
đáng quí.
Thật sự, nếu gặp một người khác, không phải anh, có thể mọi chuyện
không đơn
giản như vậy.
Chả là, trước 1975, do viết ba thứ phê bình điểm sách, khi tuổi còn
trẻ, ngựa
non háu đá, như các cụ nói, Gấu tui gây không ít ân oán giang hồ.
Cứ
nghĩ, nếu gặp một ông, hay một bà, đã từng bị Gấu tui phạng, chưa chắc
người đó
đã xử sự như Nguyễn Ngọc Ngạn. Hơn nữa, tôi còn nhớ, đúng thời gian đó,
một số
nhà văn hải ngoại đang vận động ký tên danh sách yêu cầu nhà nước Việt
Nam thả
nhà văn Dương Thu Hương [thời gian 1990 -1992, hình như vậy]. Trên tờ
Làng Văn,
có bài viết về trường hợp này, của Nguyễn Ngọc Ngạn. Anh cho rằng, cái
việc
khóc người hàng xóm, trong khi bà con thân nhân của mình đang bị kẹt ở
trại tị
nạn, và có nhiều nguy cơ bị trả về cho ông nhà nước xi-xi, là một việc
làm cần
xét lại.
Tôi
gặp Hồ Ông tại trại cấm Sikiew, do anh tới trại trước, và đã trải qua
thanh
lọc. Anh dặn tôi, khi đi thanh lọc, phải nổ. Và nổ thật dữ. Đừng khiêm
tốn.
Không được quyền khiêm tốn!
Anh lấy thí dụ, tay thanh lọc đã hỏi anh:
-Ông có nghĩ, ông là một ký giả nổi tiếng, chống Cộng, và rất nguy hiểm
cho chế
độ hiện thời ở Việt Nam?
Hồ Ông trả lời:
-Đúng như vậy. Riêng về trường hợp nổi tiếng, tôi có thể chứng minh
liền lập
tức. Khi thuyền tị nạn chúng tôi tới bờ biển Thái Lan, đài truyền hình
địa
phương đã cho phóng viên tới gặp, và phỏng vấn tôi.
Ngoài
tờ giấy xác nhận của Văn Bút, tôi có thêm được một tài liệu quí giá
cũng chẳng
kém: cuốn "Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam", còn có tên thật nổ là
"Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta", do Nguyễn Đông
Ngạc xuất bản. Trong, có hình tôi, và vài dòng tiểu sử. Cuốn này tôi
cũng tình
cờ gặp được ở trong trại. Chủ nhân cuốn sách, một học trò học tiếng Anh
của
tôi, đã tặng luôn cho thầy, làm tài liệu thanh lọc.
Phỏng vấn thanh lọc, thường do một sinh viên luật Thái Lan đảm trách,
với một
thông dịch viên,thưòng là một người Việt ở Thái Lan. Như đa số ở đây,
họ đều có
cảm tình với miền bắc. Nhà thường có treo hình ông Hồ. Nhưng cảm tình
hay không
cảm tình, nói chung, họ cố dịch trung thực những gì họ nghe, và hiểu
được.
Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, có mấy chi tiết thật lý thú liên quan
tới “văn
chương” có lẽ cũng nên viết ra ở đây, để bạn đọc cùng thưởng thức.
Nói chung, thường rất khó mà hiểu được, người phỏng vấn tin hay không
tin,
những câu trả lời. Và thường ra, họ giữ một bộ mặt hết sức khách quan,
phải nói
là dửng dưng, lạnh lẽo, suốt buổi hỏi cung. Riêng trường hợp của tôi,
khi nghe
tôi nói là nhà văn, anh sinh viên luật nhìn phần lý lịch ghi trên tờ
phiếu cá
nhân trong hồ sơ Cao Uỷ Tị Nạn, và không qua thông dịch viên, hỏi thẳng
bằng
tiếng Anh:
-Anh nói anh là nhà văn, nhưng anh viết thứ gì?
Nhớ lời dặn của Hồ Ông, tôi cho tới luôn:
-Tôi viết truyện ngắn, và phê bình văn học.
Anh nhìn lại tờ lý lịch và nói:
-Tôi cho anh nói lại. Ở đây, thấy ghi anh học hết trung học, có một văn
bằng
đại học. Anh nói anh làm thơ, viết truyện ngắn, tôi tin. Nhưng phê bình
văn
học, tôi không tin. Tôi cho anh nói lại.
-Tôi mê văn chương từ hồi nhỏ, lại may mắn biết chút ngoại ngữ, nên có
đọc văn
chương thế giới, và có chút khiếu về phê bình văn học.
-Anh học tiếng Anh ở đâu, bao nhiêu năm?
-Tôi học hồi trung học, và sau đó có làm cho một cơ quan thông tấn nước
ngoài.
-Anh nói, anh có chút hiểu biết về ngoại ngữ, anh biết mấy thứ tiếng?
-Tôi biết ba thứ tiếng.
-Trong này chỉ ghi tiếng Anh?
-Tôi biết tiếng Pháp nữa.
-Như vậy mới có hai, làm sao anh nói ba?
Tới lúc đó, tôi cũng hết còn bình tĩnh, và hỏi lại:
-Ông quên tiếng mẹ đẻ của tôi ư?
Anh ta chợt mỉm cười.
Tôi nghĩ, trong số những người bị phỏng vấn, có lẽ tôi là người độc
nhất được
hưởng một nụ cười như vậy!
[Sách
Quí 2]
(1)
Như lính giữa rừng
Tôi
và N. ngồi giữa vườn cây trong lúc hai bà len lỏi giữa lối đi thời gian
dẫn về
một làng da đỏ tại vùng Bắc Mỹ 500 năm trước đây với tất cả nền văn
minh, lối sống
của họ, nay được thu nhỏ lại để trình bày cho du khách. N. trước năm 75
là một
giáo sư trung học, ngoài ra còn viết văn, làm xuất bản. Thời gian tụi
này ở trại
cấm Thái Lan, anh thường gửi tiền, và cùng một vài người bạn can thiệp,
vận động
mong cho tụi này qua được thanh lọc.
Tuyển tập truyện ngắn do anh xuất bản năm
1974, trong có bài, hình ảnh cùng vài dòng tiểu sử tụi này tình cờ gặp
được
trong đám người chung số phận, không ngờ thật hữu ích khi thanh lọc.
Tấm hình
Cao Lĩnh chụp vào một buổi chiều tại Sở Thú Sài-gòn là tấm hình độc
nhất đánh dấu
những ngày cá nhân tôi mê mải với những chữ.
N vẫn còn
phong độ, nghĩa là vẫn đẹp trai, vẫn còn những nét lỉnh kỉnh như cái
ống
vố, cách bập bập thuốc, như để giữ ấm hơi đời, ở cõi người lạnh giá
này. Và anh
vẫn còn đam mê làm nhà xuất bản, vẫn muốn có dịp qui tụ một số cây
viết, trong một
cuốn sách có những dòng chữ đẹp như những bức hình của Cao Lĩnh ngày
nào. Tôi
nói với anh, có những cuốn sách tạo nghiệp. Cuốn trước, trong lời tựa,
anh coi
đây là vốn liếng một đời cho quê hương, cho bạn bè. Chưa đầy một năm,
Cộng Sản
thôn tính Miền Nam.
Bây giờ anh lại lăm le làm xuất bản, biết đâu cái nghiệp lần này khá
hơn, tụi
mình lại có dịp ngồi lai rai ở Quán Cái Chùa, tại Sài-gòn.
Tôi vẫn còn
nhớ cái nhìn của anh sinh viên Luật, người Thái Lan, được Bộ Nội Vụ
và Cao Uỷ Tỵ Nạn mướn làm thẩm tra viên trong buổi thanh lọc. Cái nhìn
dừng lại
rất lâu trên khuôn mặt tiều tuỵ ở ngoài đời so với trong hình. Có vẻ
anh tin.
Có vẻ anh thông cảm. Có vẻ anh sợ hãi, không ngờ sự khủng khiếp của một
chế độ
so với sức chịu đựng của con người.