Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 



Thăm Cha Brisson 10.8.2010

*

25.8.2010

*


Thơ mỗi ngày

Thấy mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer thiên tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là những người Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên….

Lê Thị Huệ, Gió O

V/v Isaac Bashevis Singer thiên tài, Nobel văn chương được mafia Do Thái ban cho.

Gấu nghi là bà Huệ có đọc một hai bài viết nào đó, về vụ này. Trên TV có giới thiệu bài của Milosz, viết về Chaim Grade, theo ông, bảnh hơn Singer, đáng được Nobel hơn.

TV tóm tắt ở đây, và, thừa cơ tán phó mát thêm, về trường hợp nhà thơ TDT và giải thưởng Thơ của tông tông Diệm. Cũng 1 giai thoại trong chốn võ lâm. Và cái vụ chỉ còn vài ngày thì mất nước mà nhà thơ TTT đăng đàn đi 1 đường vinh danh Vũ Hoàng Chương, có thể có tí liên can. (1)

Cái vụ phát Nobel văn chương cho IBS gây một trường tán loạn trong giới Do Thái nói tiếng Yiddish ở New York. Grade xứng đáng hơn, nếu nói về nền tảng. Ở Mẽo, tốt nhất là đến từ Wilno, tệ là từ Warsaw, quá tệ, từ Galicia. Theo ý kiến của đa số trong trường đấu đá này, Grade bảnh hơn Singer, nhưng lại ít được dịch dọt qua tiếng Anh, đó là lý do Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển không với tới Grade. Theo đa số này, Singer vớ được giải bằng lối cửa hậu. Quá bị ánh ảnh bởi sex, ông ta tạo dựng một thế giới Do Thái Ba Lan của riêng ông ta, chẳng có gì chung với thực tại sex, nghĩa là kỳ quái, đầy những “ngoại hứng”, những ma tình, ma nữ, yêu nữ…  như thể đó là thực tại hàng ngày ở khu vực Do Thái trong những thành phố. Grade là nhà văn thứ thực, trung thực với thực tại mà ông miêu tả, và ông xứng đáng được Nobel văn chương.
Source


Lê Thị Huệ: Trong đám đông túm lấy một người, thú thật với nhà thơ, phải vất vả lắm tôi mới tìm ra được một nhà thơ trong nhóm Thơ Tân Hình Thức mà tôi "đọc được". Ai đó có quyền bắn ná vào người tôi, nhưng tôi phải nói là tôi có "cố gắng" thưởng thức Thơ Tân Hình Thức. Chính vì sự "cố" này nó làm phiền tôi. Tôi chỉ là một người đọc. Đừng tin tôi. Bây giờ trở lại điều muốn thưa chuyện với nhà thơ, là hãy cho tôi biết, điều gì đã khiến cho bạn dấn thân vào khuynh hướng thơ Tân Hình Thức?

đài sử: tôi tự hỏi mình. tại sao làm thơ.  câu hỏi dội ngược.
chị “túm” ngay được tôi trong một nhóm có gần 100 người coi bộ tôi kém may mắn. hay cũng có thể tôi less tht nên chị “đọc được”. suy tưởng về việc chị thưởng thức thơ tht. tôi thấy mình có lỗi vì đã làm thơ kiểu này.
mà chị này thơ tôi làm là tht hả?
chắc có lẽ thơ tht ít người làm. gởi thơ tht khả năng được ông Khế Iêm chọn post cao hơn làm những loại thơ khác. (cười)

Gió O

Theo GNV, hoặc với riêng GNV, thơ Ðài Sử không phải thơ Tân Hình Thức, và giả như nhà thơ từ bỏ cái trò tân hình thức với cái kiểu "đót, đót" loạn cả lên, chắc chắn thơ dễ đọc hơn nhiều, và từ dó, dễ thấm hơn.
Nhưng biết đâu, sau những thử nghiệm như thế, thơ Việt đổi đi chăng?

Chứng cớ: Bài thơ sau đây, đâu phải THT? 

Tháng Mấy

            gửi một người không quen…

Tháng Mấy rồi, Em có biết?
tấm lịch sắp đi vào ngõ cụt
ngày không còn dông dài nói chuyện cũ
hàng cây thưa lá cho nắng và gió tự do bông đùa
chiếc xe em về đậu mỗi chiều
con đường dầy thêm với lá
rung rúc còi tàu không tìm được sân ga
những ngôi nhà nhả khói
và đêm về thắp đèn
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
chạy luống cuống những buổi sáng muộn
ngày se lạnh no tròn hạt sương sớm
đọng trên mái tóc
nụ hôn sâu trong đêm
những đổ vỡ chảy dài theo cuốn lịch
mất tích
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
con sông ngưng chảy
nheo mắt qua những xa lộ
nhịp thở chậm

Rồi buổi chiều cuối năm sẽ đến
ai bấm chuông cửa vào giữa đêm
tuyết chắc chắn sẽ rơi
và trời sẽ lạnh vô cùng

Tháng Mấy rồi sẽ qua

Vẫn còn một người đợi em

Đài Sử

Source

Thơ Ðài Sử, vẫn theo tôi, là thơ, ở chất trí tuệ của nó. Phần tình cảm, nếu lộ ra, thì cũng ăn theo vóc dáng trí tuệ, khác hẳn thứ thơ vãi linh hồn của đa số nhà thơ Mít, và luôn cả, đa số những nhà văn, nhà phê bình, cứ động đến chữ là vãi ra rồi.

Ðây là 1 vấn đề nghiêm trọng. Mô phỏng Kundera, nhà thơ và tên đao phủ cùng ngự trị cõi văn thơ của xứ Mít!

Trong Mặt Trời Vẫn Mọc, ngay ở đoạn mở ra câu chuyện,  tay võ sĩ gốc Do Thái  tính bỏ vợ, để giang hồ, và viết văn, bị cả vợ lẫn nhân vật kể chuyện [anh chàng mất chim do chiến tranh], chửi. Anh mất chim thì giải thích, mi đi đâu với cái đầu như thế, thì cũng vẫn không thể viết gì được. Còn bà vợ thì khuyên, đừng vãi nước mắt, mỗi lần làm tình, vì anh chỉ lo vãi như thế, thì còn đâu đủ lý trí, bình tĩnh mà viết văn, làm thơ?

Liệu đó cũng là thất bại của văn thơ Mít?

Sau cuộc chiến, đếch anh Mít nào còn chim?

Mỗi lần tính làm văn làm thơ là... vãi?

Thơ, sở dĩ đến già Gấu mới ngộ ra, 1 phần vì Gấu chưa từng “cố gắng” đọc nó. Hồi còn trẻ, đọc nó không được, là thôi, không cố gắng. Cũng trong cách đó, Gấu đọc THT, thấy không được, là không đọc. Và cái cách Gấu đọc thơ Ðài Sử: bỏ hết dấu “đót”, rồi mới bắt đầu đọc. Gấu đọc thơ của ông vua tán gái, “bạn Gấu”, cũng vậy, bỏ hết “xì lát”, rồi mới đọc.


Thời Sự Hình

Ông Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục làm thủ tướng
Như trông đợi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được Quốc hội bầu chọn tiếp tục nhiệm kỳ hai nhưng đối diện với nhiều thách thức về kinh tế.
Bi Bì Xèo

Cái tay Bắc Kít này, làm bồi Hồng Mao, nhưng vẫn không quên thổi VC.
Thường ra, người ta viết: Như đoán trước.

Trông đợi cái con khỉ Tẫu!

Note: Mới coi lại, thấy delete mất mẹ rồi!


Đọc ông Bùi Ngọc Tấn, ông kể chuyện dân Việt đi mua cá mè ở cửa hàng tổng hợp rồi so sánh với đoạn văn của quyển The Tiger’s Wife thì bạn sẽ thấy quyển Vợ của Cọp không hấp dẫn chút nào.
Nếu một quyển như The Tiger’s Wife được giải thưởng thì tôi tin văn học VN có chỗ đứng trên thị trường văn học nước ngoài.

Blog HH

Tôi nghĩ ngược lại, văn học VN không bao giờ sản xuất ra được 1 tuyệt tác như Vợ Hổ.
Thiếu lương tri, thiếu lương tâm, thiếu lòng trắc ẩn…  có nhà văn nhà thơ VN nào thực sự đau nỗi đau nỗi nhục của 1 người như tác giả Vợ Hổ?
Ðất nước quê hương của em nhí này có đủ nỗi nhau nỗi nhục như của VN, chỉ thiếu cái vinh quang thắng hai tên xâm lược vĩ đại là Pháp và Mỹ, nên mới ra cái nuớc VN như bây giờ.
Ðâu có biết đau biết nhục là gì đâu, mà viết nổi 1 cuốn như Vợ Hổ?

NQT

Gấu là người để ý đến cuốn này sớm sủa nhất, trong những độc giả Mít, do đọc bài điểm của Charles Simic, trên tờ NYRB, trước khi cuốn sách được giải Orange, dành cho các nhà văn nữ viết bằng tiếng Anh.
Cái câu vinh danh của Simic, mới thật lạ, chính vì thế mà Gấu tò mò đọc bài điểm của ông, và sau đó, đọc thêm mấy bài điểm khác, đều hết lời ca ngợi. Có lẽ đây là cuốn gần như toàn giới phê bình đều hài lòng, có thể còn đang mong mỏi một tác phẩm vậy, cho 1 vùng đất như vậy.

*

Cuốn tiểu thuyết thần sầu đầu tay của em nhí, Téa Obreht, Vợ Hổ, là một tác phẩm được viết với một tham vọng, và một táo bạo thật là lớn lao, vẽ ra một bức tranh không thể nào tẩy bỏ đi được, về cuộc sống tại một xứ sở thuộc vùng Balkan không được đặt tên, một xứ sở vẫn mắc míu vào cái di sản của cuộc nội chiến. Cùng lúc, nó mở ra cái gọi là thật tinh tế, thật yếu tính, của nghệ thuật kể chuyện, và vai trò của nó, trong cuộc sống của con người, đặc biệt là khi họ bị cuộc chiến và những xáo trộn xã hội biến thành quỉ, cả một lũ, và cần, một cách nào đó, móc nối những sự kiện chẳng làm sao móc nối để mà hiểu chuyện gì đang xẩy ra quanh họ.

Cô Obreht, sinh ra tại xứ xưa kia có tên là Yugoslavia, và lạ thường thay, viết, thật bảnh, thật hoạt, và còn trình ra một khả năng khác người, di chuyển thoải mái, liền lạc giữa cõi chai sạn của đời thực và thế giới của những câu chuyện cổ tích hoang đường của 1 thời hoang sơ khởi thuỷ của loài người. Truyện của cô không đậm chất hiện thực huyền ảo, theo truyền thống Gabriel García Márquez hay Günter Grass, nhưng mà là một cuộc khai triển rất đỗi mềm dẻo sự thành lập ám dụ và huyền thoại, và những đường hướng, qua đó những chuyện kể  (dù dị đoan, niềm tin văn hóa, hay giai thoại siêu nhiên) làm lộ ra – và phản chiếu lại - căn cước cá nhân, hay cộng đồng: những giấc mơ, nỗi sợ, thiện cảm và thù hận.

Ở khung của câu chuyện, một vị bác sĩ trẻ tên là Natalia Stefanovic làm một chuyến đi với một người bạn, tới một thành phố nhỏ quá biên giới để đem thuốc tới 1 trại mồ côi. Vị bác sĩ thì bị luẩn quẩn với những hồi ức về người ông thân thương của cô, một y sĩ nổi tiếng, vừa mới chết, trong một chuyến đi bí ẩn tới một làng khác chỉ cách nơi cô tới chừng một giờ chạy xe. Quyết định trở thành bác sĩ của cô, một phần là do tình yêu dành cho người ông, một phần là vì mặc cảm của cô về cuộc chiến - bằng ao ước cứu trợ, hàn gắn những tổn hại, thấy mình có lỗi khi qua cuộc chiến gần như chẳng có tí sẹo, trong thành phố có tên là “the City”, và quyết tâm cùng chia sẻ với bạn bè, ‘đánh bại những phóng chiếu của những tờ nhật báo, khi chúng cho rằng, thế hệ hậu chiến của ‘the City” thì coi như là vứt đi, vô phương cứu chữa”.

Ðiều làm Vợ Hổ cực đặc biệt là nó chẳng mắc mớ gì đến hồi ký di dân đặc dị, hay tiểu thuyết tự thuật hoá trang mỏng dính. Obreht, lên bẩy, khi rời Belgrade vào năm 1992, cùng mẹ và ông bà để chạy trốn những cuộc chiến ở Yugoslavia, và sống ở cả hai nơi, Cyprus và Cairo trước khi tới Mẽo, viết về những sự kiện ở nơi quê hương của cô, mà cô không trực tiếp kinh nghiệm, và về sự phân phối một số nhân vật giả tưởng. Cuốn tiểu thuyết của cô xẩy ra tại một xứ sở không có tên, thuộc vùng Balkans, trong những thành phố, làng mạc với những cái tên không thể kiếm thấy trên bất cứ một tấm bản đồ, và với một tình trạng địa lý thật hỗn độn, đến nỗi, ngay cả 1 người dân bản địa, thì cũng khó mà hình dung ra được, những sự kiện chủ yếu ở trong cuốn tiểu thuyết, đã thực sự xẩy ra ở những nơi chốn thực sự nào. Tôi tưởng tượng ra, đây là một cách chuyển hướng khác đi, thứ kinh nghiệm của người dân Czechs, khi họ đọc những ám dụ mờ đục của Kafka cho xứ sở của họ, trong những tiểu thuyết và câu chuyện kể của ông.
*

Tuy nhiên, rõ ràng là Obreht đang viết về Yugoslavia, trước và sau những cuộc chiến vào thập niên 1990, chúng làm xứ sở này tách ra thành 7 quốc gia độc lập. Một khi mà cuốn tiểu thuyết được dịch ra, tại xứ sở quê hương ngày nào của cô, thì độc giả sẽ phải có hai cái đầu, khi nghĩ về cái quyết định của cô, khi giữ riêng cho mình, những cái tên của những nhóm sắc dân khác nhau, những ông lãnh tụ nhà nước, và những tên tội phạm hình sự nổi tiếng, mà những hành động của họ mang tính quyết định trong cuộc tranh chấp tại vùng đất này.

Chất liệu viết thì cần một cái nền, và cần sự dẫn giải: những khó khăn như vậy khóa ngòi viết, mạch kể, và ngăn chặn tác giả viết cuốn tiểu thuyết cô muốn. Bằng cách làm u tối, mờ nhạt đi, tính địa lý của miền đất và, bằng cách sử dụng những sự kiện lịch sử “lệch pha” [chữ này thuổng của Thầy Cuốc] đi, Vợ Hổ quả có toan tính làm mờ nhạt đường ranh giữa cõi thực và cõi tưởng tượng. “Ngất ngư con tầu đi”, giữa thực tại và huyền thoại, nó [cuốn sách] sử dụng hai kỹ thuật kể tách biệt hẳn nhau, một, của cuốn tiểu thuyết, và một của chuyện kể dân gian; một cắm vào thời đại lịch sử, một “cho ra khơi”, cắm thuyền sông lạ, tách biệt ra khỏi 1 thời đặc biệt.

Charles Simic

Cuốn tiểu thuyết đầu tay của em nhí quả đang gây chấn động giang hồ, cả ở giới phê bình, viết văn, và độc giả.
Ðể được giải, cũng thật trần ai, vì phải tranh giành giữa những tác phẩm không thể nào dở, mà có khi còn lấn lướt nó. Thế mới thú. Vinh quang gian nan mới thú. Ðộc diễn thì chán chết.
Sở dĩ TV loay hoay tán em này, là vì tác phẩm của em có điều gì nhắn nhủ dân Mít, nhất là đám Bắc Kít, cũng đã biến thành cả một lũ Quỉ, sau 30 Tháng Tư!
Hà, hà!

Sáng Rực

Không có công thức cho sự sớm ra hoa, ra trái. Sự xuất hiện một tài năng như Téa Obreht, 25 tuổi, với cuốn đầu tay Vợ Hổ, lại khiến người đời thèm, cố tìm cho ra một phương thuốc bí truyền thất truyền.
Một bí mật cắt nghiã sự thành công của cô bé đặc biệt này, có thể là ở tiểu sử. Trong khi nó không giải thích tài năng, tính “lang bạt kỳ hồ” về mặt địa lý ở vào cái tuổi mới lớn ưa tò mò đó hẳn nhiên là nguồn cảm hứng của cô.
Cô Obreht sinh tại Belgrade của Yugoslavia ngày nào. Trải qua tuổi thơ ở đó, cũng như ở Egypt, Cyprus, và sau cùng là America, bây giờ. Vợ Hổ tóm lấy 500 năm đầy âm khí của lịch sử xứ Balkan từ 1940s đến 1990s [bỗng nhớ đến Bóng Ðè của Ðỗ Hoàng Diệu, và 4 ngàn năm ‘đầy âm khí’ của lịch sử Bắc Kít, hà, hà!], và tưới vãi lên nó [“lên đó” thì cũng được] những kinh nghiệm cá nhân đã được nhào nặn, biến hóa, giả tưởng hóa.. của một tác giả trẻ tò mò, ưa tra hỏi. Kết quả, là câu chuyện của một vị bác sĩ trẻ, tên là Natalia, của gia đình cô, quê hương của cô, được kể một cách rất ư là uyên nguyên, tếu tếu, và đáng sợ, và là 1 đóng góp rất đáng mừng rỡ vào cái sự viết lách về miền này.

Kể ra tài “hửi” của Gấu cũng thật bảnh. Gấu khám phá ra em khi em chưa được giải thưởng, nhân đọc bài của nhà thơ Charles Simic, điểm cuốn sách mới ra lò của em trên tờ NYRB, và bị cái câu phán của ông làm tò mò.

Cái đẹp kỳ kỳ của một câu chuyện kể thật ngon lành!

Tuyệt thật. Phán như thế với 1 tác phẩm đầu tay của 1 nữ tác giả, làm Gấu nhớ đến trường hợp VP, khi phán về em “Nhà có cửa không khoá trái”!

*

Hơn nữa, làm sao so BNT với em nhí này được. Nhà văn VC, người tù VC, đi tù về cám ơn VC rối rít, nhờ đi tù mà có đại tác phẩm, nhờ chính sách “pha lê hóa” Miền Bắc, qua đó, bắt hết mọi thành phần chống VC, như ông ta, hay như tác giả Hoa Ðịa Ngục, hay như Hoàng Hưng, hay như… mà chiến thắng cuộc chiến; một nhà văn mất hết lương tri, không phân biệt được thiện và ác như thế mà so với em nhí này, thì quá nhảm.

Mà đâu phải chỉ 1 ông ta?

NQT

Vợ Hổ

Cái sự mất lương tri, hay đúng hơn cái sự bị liệt một nửa bộ óc của đám tinh anh trong nước, nó hiển hiện thực là rõ nét, qua “nghịch lý” này:
Một khi bạn vẫn coi cuộc chiến thắng Mỹ Ngụy là đỉnh cao, vẫn coi cái đám người chết uổng 3 triệu ở cả hai phía, là hy sinh cần thiết, thì bạn phải coi tình trạng sa đọa của đất nước VN như hiện nay, là thành quả của nó.
*

Lời giới thiệu trang bìa [front and back flap]

WEAVING A BRILLIANT LATTICEWORK of family legend, loss, and love, Tea Obreht, the youngest of The New Yorker’s twenty best American fiction writers under forty, has spun a timeless novel that will establish her as one of the most vibrant, original authors of her generation.

In a Balkan country mending from years of conflict, Natalia, a young doctor, arrives on a mission of mercy at an orphanage by the sea. By the time she and her lifelong friend Zóra begin to inoculate the children there, she feels age-old superstitions and secrets gathering everywhere around her. Secrets her outwardly cheerful hosts have chosen not to tell her. Secrets involving the strange fammily digging for something in the surrounding vineyards. Secrets hidden in the landscape itself.

But Natalia is also confronting a private, hurtful mystery of her own: the inexplicable circumstances surrounding her beloved grandfather's recent death. After telling her grandmother he was on his way to meet Natalia, he instead set off for a ramshackle settlement none of their family had ever heard of and died there alone. A famed physician, her grandfather must have known that he was too ill to travel. Why he left home becomes a riddle Natalia is compelled to unravel.

Grief struck and searching for clues to her grandfather’s final state of mind, she turns to the stories he told her when she was a child. On their weekly trips to the zoo he would read to her from a worn copy of Rudyard Kipling's The Jungle Book, which he carried with him everywhere; later, he told her stories of his own encounters over many years with "the deathless man," a vagabond who claimed to be immortal and appeared never to age. But the most extraordinary story of all is the one her grandfather never told her, the one Natalia must discover for herself. One winter during the Second World War, his childhood village was snowbound, cut off even from the encroaching German invaders but haunted by another, fierce presence: a tiger who comes ever closer under cover of darkness. "These stories," Natalia comes to understand, "run like secret rivers through all the other stories" of her grandfather's life. And it is ultimately within these rich, luminous narratives that she will find the answer she is looking for.

 
TEA OBREHT was born in Belgrade in the former Yugoslavia in 1985 and has lived in the United States since the age of twelve. Her writing has been published in The New Yorker, The Atlantic, Harper's, and The Guardian, and has been anthologized in The Best American Short Stories and The Best American No required Reading. She has been named by The New Yorker as one of the twenty best American fiction writers under forty and included in the National Book Foundation's list of 5 Under 35. Tea Obreht lives in New York.

www.TeaObreht.com

Cái tay chuyên điểm sách cho tờ Người Kinh Tế, mãi mới đây, Gấu mới biết nick: Prospero. Bài điểm Vợ Hổ của Prospero cũng thật tuyệt

Burning bright
Sáng Rực

About Prospero
Named for the hero of Shakespeare's "The Tempest", an expert in the power of books and the arts, this blog features literary insight and cultural commentary from our correspondents, and includes our coverage of the art market.
Prospero là tên 1 nhân vật của Bão, của Shakespeare.

 



*

*

Marilyn, étoile pensante

Par Augustin Trapenard

“Pour survivre, il aurait fallu qu'elle soit plus cynique ou moins proche de la réalité. Au lieu de cela, elle était un poète au coin de la rue essayant de réciter ses vers à une foule qui lui arrache ses vêtements. " Dans les Fragments de Marilyn, on trouve ces mots de Norman Mailer. On trouve aussi cette photo en noir et blanc qui lui donne des allures d'animal apeuré, loin des images glamour qui ont figé le mythe. Et puis ces fameux textes qu'elle a consignés dans ses carnets intimes de 1943 à la veille de sa mort, le 4 août 1962. Sous l'égide du directeur de la collection "Fiction & Cie ", les éditions du Seuil présentent en grandes pompes ces écrits lapidaires et heurtés : ébauches de poèmes et pensées éparses, listes de courses et fragments de journal, brouillons de lettres et brèves de lectures. Marilyn, cet être de mots tour à tour inventé, sublimé et fantasmé par la culture populaire, serait donc douée de sa plume? Marilyn, figurez-vous, qui fréquentait Karen Blixen et Carson McCullers, qui admirait Beckett et se plongeait volontiers dans un livre sur la Renaissance florentine! Marilyn si cultivée, lisant en maillot de bain rayé les dernières pages d'Ulysse sur une plage de Long Island ...

Mais, pour utiliser une formulation chère à Michel Foucault (1) : "Qu'est-ce que Marilyn Monroe? " Après tout, la grande révélation de ces Fragments se trouve sur la couverture: c'est l'apparition du nom d'auteur " Marilyn Monroe ", près de cinquante ans après la mort de Norma Jeane Mortenson. Et c'est une opération complexe et singulière que d'injecter ce nom dans le champ littéraire puisqu'il s'agit d'élaborer une construction culturelle à l'intérieur d'un mythe déjà établi. Dans un premier temps, mettre en œuvre (opus) un nom d'auteur que l'imaginaire collectif associe d'emblée au monde du cinéma. C'est l'admirable tour de passe-passe de Stanley Buchtal et Berrnard Comment, les deux éditeurs à l'origine du projet, qui ont pris soin de l'introduire en insistant sur l' "imagerie artificielle” créée de toutes pièces du vivant de l'icône, de la faire préfacer par un auteur reconnu (Antonio Tabucchi), qui met en lumière nombre d'affinités littéraires, et de glisser ici et là des fac-similés de manuscrits, des portraits de l'actrice en lectrice, voire une sélection de sa bibliothèque personnelle et de ses amitiés lettrées. Le deuxième subbterfuge consiste à opérer le passage de la femme-objet au sujet-créateur. D'une photographie de la main de Marilyn qui ouvre le livre et suggère à la fois le corps fantasmé et l'outil de l'artiste, on passe à une métaphore de l'écrivain-papillon signée de l'illustre préfacier, puis à la rigueur des transcriptions et à la précision de leur traduction par l'universitaire et critique Tiphaine Samoyault. Enfin, puisqu'il n'est un secret pour personne que le nom d'auteur fait vendre, la troisième opération est d'ordre commercial, suivant une logique de marketing savamment étudiée. On taquine le lecteur à coups de murmures, d'embarrgos et de rares bonnes feuilles; on parle de “documents”, de « dévoilement» et de « trésor» ; on soigne surtout la maquette pour composer un beau livre illustré qui fait la part belle, il faut en convenir, aux photographies de la star sur papier glacé. « Pourquoi ai-je ce sentiment - que les choses n'arrivent pas vraiment - mais que je joue un rôle? », écrit Miss Monroe dans son « Agenda italien» en 1955-1956.

Ce qui frappe dans ces Fragments, c'est avant tout cette volonté de se former à l'écriture - à force de lectures, de rencontres et d'ébauches griffonnées puis retravaillées. Cette ambition, aussi, de jeter son désesspoir sur le papier, malgré sa main tremblante et son orthographe erratique, « jusqu'à ce que le grand réserrvoir de l'esprit soit, non pas vidé, mais délivré ». Mais qui s'étonnera de l'obsession de l'écrit chez l'élève de Lee Strasberg, fondateur de l'Actors Studio, dont l'exigeante « Méthode» se fondait précisément sur l'introspection, l'autoanalyse et l'utilisation de l'expérience intime, quitte à passer par la psychaanalyse? Si le texte final a de faux airs d'autobiographie, c'est qu'il est justifié et nourri par cette esthétique de l'actorat qui postule un retour sur soi: « La vérité peut seulement être retrouvée, jamais inventée. » Reste la forme plus ou moins inconsciente du fragment, qui suggère la difficulté à mettre sa vie en ordre. Restent ces quelques fulgurances ou hallucinations déchirantes qui transpirent la « détresse implacable ». Restent les blancs du texte, surtout, cet espace du souffle et du cri dans lequel chaque lecteur ira projeeter ses propres fantasmes. Pour Antonio Tabucchi, « la voix off est féminine, douce, un peu nasale, et de grande séduction, c'est une voix enfantine et pourtant adulte qui semble demander d'être aimée ». +

Note: Bài viết. MM. Tuyệt.
“Pour survivre, il aurait fallu qu'elle soit plus cynique ou moins proche de la réalité. Au lieu de cela, elle était un poète au coin de la rue essayant de réciter ses vers à une foule qui lui arrache ses vêtements. "
Ðế sống sót, phải đểu giả và đừng có dí mặt thật gần vào đống kít, tức cuộc đời. Thay vì vậy thì em là thi sĩ ở 1 góc đường, cố tìm cách đọc thơ cho lũ người man rợ xúm nhau lại lột truồng em ra để chiêm ngưỡng bướm của em.


Biệt Kích Văn Hóa

*

Sven Birkerts
reviews Roberto Bolaño's
Between Parentheses

Elsewhere, taking a brash swipe at Isabel Allende, darling of Latin American literature, Bolaño writes: "Asked to choose between the frying pan and the fire, I choose Isabel Allende. The glamour of her life as a South American in California, her imitations of Garcia Marquez, her unquestionable courage, the way her writing ranges from the kitsch to the pathetic and reveals her as a kind of Latin American and politically correct version of the author of The Valley of the Dolls..." (110) I hear the hiss of that frying pan.

Finally—hard to resist this—is the very last bit from an interview Bolaño gave to Monica Maristain for the Mexican edition of Playboy near the end of his life, while he was awaiting a liver transplant. Maristain asks, "What would you have liked to be instead of a writer?"

Bolaño: I would much rather have been a homicide detective than a writer. That's the one thing I'm absolutely sure of. A homicide cop, someone who returns alone at night to the scene of the crime and isn't afraid of ghosts. Maybe then I really would have gone crazy, but when you're a policeman, you solve that by shooting yourself in the mouth.

Bolano

"LITERATURE IS NOT MADE FROM WORDS ALONE"
INTERVIEW BY HECTOR SOTO AND MATIAS BRAVO
FIRST PUBLISHED IN CAPITAL, SANTIAGO, DECEMBER 1999

Thật là bực mình khi nghĩ rằng chúng ta đọc rất nhiều những vị thần của chúng ta (James, Stendhal, Proust), qua bản dịch, qua những... xái xảm? Ðó là văn chương ư? Nếu chúng ta lèm bèm hoài về vấn đề này, liệu có thể đưa đến kết luận: từ ngữ không có một đồng đẳng, ngang hàng?

Tôi nghĩ, có. Hơn nữa, văn chương đâu chỉ làm bằng từ ngữ không thôi. Borges phán, có những nhà văn không thể dịch được. Tôi nghĩ ông ta coi Quevedo như là 1 thí dụ.  Chúng ta có thể thêm vô Garcia Lorca và những người khác. Tuy nhiên, Don Quixote có thể cưỡng lại ngay cả những đấng dịch giả tồi tệ nhất. Như là 1 sự kiện, nó có thể cưỡng lại tùng xẻo, mất mát nhiều trang, và ngay cả một trận bão khốn kiếp. Nghĩa là, nó cưỡng lại mọi thứ ở trên đời chống lại nó - dịch dở, không đầy đủ, hay huỷ diệt - bất cứ một bản văn Don Quixote nào vẫn có nhiều điều để mà nói ra, với một độc giả Trung Hoa, hay Phi Châu. Và đó là văn chương. Chúng ta có thể mất mát rất nhiều ở dọc đường, chắc chắn như thế, nhưng đó là định mệnh của nó. Có còn hơn không, thì cứ nói như vậy có tiện việc sổ sách.

Khi đọc tôi hạnh phúc hơn rất nhiều khi viết.
Blog NL

Với ý này, “Bô Na Nô” đi cả 1 bài, trả lời phỏng vấn: Ðọc thì luôn quan trọng hơn nhiều, so với viết, "Reading is always more important than writing”


Nén nhang muộn cho Nguyễn Khải


UNDER EASTERN EYES

Cuộc gặp gỡ giữa Parvus và Lenin là cái nơ, cú khủng nhất trong cuốn sách của Solz. Có những nét cọ thật tuyệt ở đó, khi hai mảng băng hoại, hư ruỗng cuốn quít với nhau, vờn lẫn nhau: một là âm mưu toàn thế giới, và một là ước muốn bất khả tri về quyền lực. Còn có những giọng ngầm chói tai. Parvus là 1 tên Do Thái lang thang nhập thân, một kẻ “chuyên sửa chữa” thuộc bậc đại sư. Ông đầu tư vào hỗn mang, chao đảo, hoảng loạn, như đầu tư vào chứng khoán. Không có Parvus, Solz nhủ thầm, là Lenin hỏng cẳng, đếch làm sao thành công. Lenin với sức mạnh, sự dẻo dai Tartar, trở thành kẻ mang con “vai rớt” ngoại [chủ nghĩa CS quỉ ma]. Trong bản gốc, những ám dụ mang tính biểu tượng sắc tộc này, có người cho rằng, thuổng Dos: cuộc đối đáp giữa Lenin-Parvus là từ những cuộc đối đáp lớn về siêu hình học về cái ác trong Anh em nhà Karamazov của Dos.