Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
The
Fading
Dream of Europe
NOTES ON A
VOICE: JOAN DIDION
Remembering the
evils of the past: Keeping the flame
GOODBYE TO
BRICKS AND MORTAR
Madame_NCK_Exile
Madame Nhu 1
2
"I've
Done My Share”
Sác Lô @
Berlin
Nguyễn Quốc
Chánh, Two Poems
A Deluge of
New Vietnamese Poetry
|
Thăm
Cha Brisson 10.8.2010
Jennifer @ Paris 2011
Thơ mỗi ngày
SUBMERGED
CITY
That city
will be no more, no halos
of spring
mornings when green hills
tremble in
the mist and rise
like barrage
balloons-
and May
won't cross its streets
with
shrieking birds and summer's promises.
No
breathless spells,
no chilly
ecstasies of springwater.
Church
towers rest on the ocean's floor,
and flawless
views of leafy avenues
fix no one's
eyes.
And still we
live on calmly, humbly-from suitcases,
in waiting
rooms, on airplanes, trains,
and still,
stubbornly, blindly, we seek an image, the final form of things
between
inexplicable fits
of mute
despair-
as if
vaguely remembering something that cannot be recalled,
as if that
submerged city were traveling with us, always asking questions,
and always
unhappy with our answers –
exacting,
and perfect in its way.
Adam
Zagajewski
Thành phố chìm
Thành phố đó
không còn nữa, không còn những vầng hào quang
của những buổi sáng mùa xuân, khi những
ngọn đồi xanh run rẩy trong sương mù
và dâng lên như những trái banh tạo thành
1 con đập –
và Tháng Năm
đâu còn lướt qua những con phố của nó
với những đàn
chim cười ngặt nghẽo và những hứa hẹn mùa hè.
Không say mê
nghẹt thở,
không cực lạnh giếng nước ngầm.
Những tháp
nhà thờ nằm nghỉ trên sàn biển,
Và những cái
nhìn toàn mỹ những đại lộ rợp lá
sẽ chẳng bắt
mắt ai.
Và chúng ta
vưỡn sống ở đó, trầm lặng, khiêm tốn - từ
những chiếc va li
trong phòng đợi, trong máy bay, xe lửa,
và vưỡn, bướng
bỉnh, mù lòa, chúng ta tìm một hình ảnh,
vóc dáng sau cùng của sự vật,
giữa những
mẩu không làm sao giải thích được của sự chán chường câm nín -
như thể mơ hồ nhớ một điều
chi không thể nào
nhớ lại được,
như thể thành
phố chìm du hành cùng chúng ta, luôn luôn hỏi những câu hỏi
mà nó tkhông hài lòng
với những câu trả lời của chúng ta –
đúng, hoàn hảo theo cách của nó.
Zagajewski
on Rilke
Thời Sự Hình
Hãy
cẩn thận, về điều này: Anh chiến đấu vì cái gì - và có thể nhờ vậy, anh
sẽ có
được nó.
Châm ngôn Nga.
D.M
Thomas: Solz, thế kỷ ở trong ta
Ui
chao, đúng là cái cảnh tượng đám tinh anh VC đi biểu tình: Chúng ăn
cướp Miền Nam, là để được như thế!
Cảnh sát Ngụy
chưa từng ngang nhiên đạp vô mặt người biểu tình như cớm VC. Chúng chưa
đến nỗi
mất hết nhân tính như thế.
Mấy tên VC nằm vùng nhìn hình có thấy nhục không?
ON PASTERNAK
SOBERLY
TO THE
MEMORY OF A POET
Like a bird,
echo will answer me.
B.P. (Boris
Pasternak)
1.
That
singular voice has stopped: silence is complete,
And the one
who spoke with forests has left us behind.
He turned
himself into a life-giving stalk of wheat
Or the fine
rain his songs can call to mind.
And all the
flowers that hold this world in debt
Have come
into bloom, come forward to meet this death.
But
everything stood still on the planet
Which bears
the unassuming name. . . the Earth.
2.
Like the
daughter of Oedipus the blind,
Toward death
the Muse was leading the seer.
And one
linden tree, out of its mind,
Was blooming
that mournful May, near
The window
where he told me one time
That before
him rose a golden hill,
With a
winged road that he would climb,
Protected by
the highest will.
1960
Akhmatova
Boris
Pasternak: 1890-1960, renowned Russian poet and novelist.
2
Oedipe
aveuglé guidé par sa fille,
La muse l'a
conduit jusqu'à sa mort.
Un tilleul
fou, auprès de ma fenêtre
A fleuri
seul en ce mai de douleur,
Juste à
l'endroit où il m'avait confié
Qu'il voyait
serpenter devant ses yeux
Un sentier
d'or aux ailes déployées
Où le
gardait la volonté des cieux
Traduction
Michel Aucouturier. Revue des Belles-Lettres, mars 1996.
Pasternak, ed
Quarto Gallimard
Tưởng nhớ một nhà thơ
Like a bird,
echo will answer me.
Như một con
chim, tiếng dội sẽ trả lời tôi
B.P. (Boris
Pasternak)
1.
Cái giọng đặc
dị đó đã ngưng: im lặng tất.
Và người từng trò chuyện với những rừng cây đã bỏ chúng ta lại phía sau.
Người thi sĩ
ấy biến
thành mầm sống
Thành hạt mưa mịn màng mà những bài hát của chàng làm
nhớ về.
Và tất cả những
bông hoa đã cầm giữ thế gian này như món nợ
đồng nở bung
ra và đồng tới với cái chết đó
Nhưng mọi vật
thì vũ như cẩn trên hành tinh
mang tên Trái
Ðất.
2.
Như cô con gái
của Oedipus mù,
Bà Chúa Thơ
dẫn nhà tiên tri tới cái chết,
Và một bông đoan,
như phát khùng,
Nở rộ, vào
Tháng Năm đau buồn đó,
Ở gần nơi cửa
sổ, nơi nhà thơ đã có lần tâm sự với tôi,
Trước mặt nhà
thơ mọc lên một ngọn đồi vàng
Một con đường
vòng vèo,
với những cánh
mở rộng,
nhà thơ có
thể leo lên nó,
được
che chở
bằng một ý chí thần thánh.
D.M.Thomas
cho biết, Hamlet, ngay từ
thoạt kỳ thuỷ của thời đại Stalin, đã bị cấm. Tuy
không chính thức, nhưng đám cận thần đều biết, Stalin không muốn Hamlet
được
trình diễn. Trong một lần tập dượt tại Moscow Art, Stalin hỏi, có cần
thiết
không, thế là dẹp. Vsevolod Meyerhold, đạo diễn, người ra lệnh
Pasternak dịch
Hamlet, đành quăng bản dịch vô thùng rác, nhưng ông
tin rằng, nếu bất thình lình, tất cả những kịch
cọt đã từng được viết ra, biến mất, và may mắn sao, Hamlet còn, thì tất cả những
nhà hát trên thế gian này đều được cứu thoát. Chỉ cần diễn hoài hoài
kịch đó,
là thiên hạ ùn ùn kép tới đầy rạp. Tuy nhiên, cả đời ông, chẳng có được
cơ may
dựng Hamlet.
Nguyễn Huy
Thiệp phải đợi 30 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, phải đợi chính đứa
thân yêu của
ông ngập vào ma tuý, mới nhìn ra vóc dáng ông hoàng Đan Mạch, và sứ
mệnh bi thảm
của hắn: Giết bố!
Ui choa, chẳng
lẽ cái cảnh biểu tình, là để… giết ông bố Bắc Kít?
Amen!
Thủ Thiêm
The
Thousand and One Nights
Trên Blog
Gỗ
Mun có dịch một đoạn bài viết về Ngàn Lẻ Một Ðêm của Pamuk.
Gấu
có đọc
bài này. Cách đọc của Pamuk thua xa cách đọc của Borges, và bài của
Borges là 1
trong những tuyệt vời viết về tuyệt tác này.
Gấu đọc Ngàn
Lẻ Một Ðêm từ hồi còn con nít, thì ai chắc cũng vậy, và còn giữ được
hai kỷ niệm
thật là tuyệt vời về nó.
Một, là về
"Ali Baba và 40 tên trộm", về anh chàng biết được mật mã mở kho tàng
của
40 tên
trộm, "Hạt Vừng Mở Ra", « Sésame, ouvre-toi !».
Vô
nhìn thấy
vàng bạc châu báu nhiều quá, lo nhặt nhạnh thu gom nhiều quá, mê quá,
đến nỗi
quên mẹ mất mật mã, và đành chờ đám cướp về…
Có vẻ như Gấu
bị chuyện này ám ảnh khủng khiếp đến nỗi sau này, mỗi khi có dịp "Hạt
Vừng
Mở Ra", về bất cứ thứ gì, tình yêu, sex, tri thức...
là đều luôn luôn cảnh giác, nè, coi chừng, đừng
để bội thực, quên mẹ mật mã!
Ngay
cả cái
chuyện “nhớ” cũng thế; cái gì cần nhớ thì Gấu mới nhớ, cái gì nghĩ
không cần,
là cho quên luôn, vì chỉ sợ nhớ nhiều quá, thành.. khùng!
Khủng
đến nỗi,
là Gấu đọc bất cứ cái chi chi, là cái máy “gạt” hoạt động liền tức thì,
và liền
lập tức lọc giùm Gấu, cái gì không cần nhớ, không cần giữ!
Sau này, khi
biết đến cái gọi là rác, là spam… của PC, thì Gấu bật cười mà gật
gù, cái
này ta biết từ lâu rồi.
Kỷ niệm
thứ
nhì liên quan đến một bà bạn của bà cô, cũng Me Tây.
Một
trong những
câu chuyện mở ra Ngàn lẻ, thuật hai anh kẻ trộm, cùng quyết định đi ăn
hàng ở một
nơi khác, xa hẳn cối xay đã từng ăn quẩn. Và cả hai thế nào lại trọ
chung 1 quán,
và mến nhau đến độ cùng nhau dùng bữa, và đến lúc lôi đồ ăn mang theo
ra bày lên
bàn, thì lạ làm sao, mỗi đấng có 1 nửa con gà quay, ghép lại thì thành
1 con gà.
Hóa
ra là
hai anh trộm, một trộm ngày, một trộm đêm, có cùng 1 bà vợ!
Bà
bạn của bà
cô của Gấu, me Tây như cô của Gấu, có hai ông chồng Tây, bà ở với
1 ông từ
đầu tháng tới giữa tháng, nửa tháng sau thì qua ông chồng thứ hai!
Bà
này là bà
con của cái gia đình mà mỗi tháng Gấu tới đó lấy tiền trả tiền cơm,
thời gian ở
trọ bên Thủ Thiêm, học trường Hồng Lạc ở đường Sương Nguyệt Anh. Lớp Ðệ
Nhị.
Thi Tú Tài 1, đậu, vô trường công, học Ðệ Nhất, lớp B.8, ngay ở cổng
trường, nhà
trường là 1 cái góc đất sau trường Chu Văn An, gọi là Xóm Nhà Lá, sau
trở thành
Trung Tâm Học Liệu.
Thú
vị là,
hai anh sau đó thi tài, đứa nào nhất thì được quyền lãnh trọn cô vợ!
Năm học Ðệ
Nhất B. 8 đó, Gấu quen bạn C, em nhà thơ TTT. Bạn đưa về nhà giới
thiệu, thấy
ông anh ngồi ở 1 góc phòng khách, co cả hai chân lên cái ghế, chẳng
thèm để ý đến
chuyện gì khác, Gấu giật mình, nhìn ra tương lai của mình: Sau thì ta
cũng thế!
Và thế thực!
UNDER EASTERN EYES
Và
cuộc
lưu vong, phát vãng
xứ người, ra khỏi khối u, hộp đau, cục uất đó, bây giờ ám ảnh
Solzhnitsyn. Với
con người mãnh liệt bị ám ảnh này, có một cảm quan thực, qua đó, sự
nhập thân nơi
Gulag đem đến vinh quang và sự miễn nhiễm ở Tây Phương. Solz ghét Tây
Phương, và
cái sự la làng lên của ông về điều này thì chỉ khiến người ta dửng dưng
và… vô
tri. Cách đọc lịch sử của ông theo lý thuyết thần học Slavophile thì
cực rõ. Cuộc
cách mạng Pháp 1789 thăng hoa những ảo tưởng thế tục của con người,
cuộc nổi loạn
hời hợt của nó chống lại Chúa Ky Tô, và mạt thế luận. Chủ nghĩa Mác là
hậu quả
tất nhiên không thể nào tránh được, của cái thứ tự do bất khả tri này.
Và chính
con vai rớt, khuẩn trí thức, “đặc mũi lõ” đó, được đám trí thức mất
gốc, phần lớn
là Do Thái, cấy vô máu Gấu Mẹ vĩ đại, là nước Nga Thiêng, the Holy
Russia.
Gấu Mẹ vĩ đại sở dĩ nhiễm độc là do những rất dễ bị tổn
thương, và hỗn loạn của hoàn cảnh, điều kiện một nước Nga sau những
khủng
hoảng quân sự lớn
1914. Chủ nghĩa CS là một nhạo nhại của những lý tưởng thực sự về đau
khổ, tình
anh em đã làm cho nước Nga được Chúa chọn.
Nhưng 1914 chứng
kiến một nước Nga nhếch nhác,
thảm
hại tàn
khốc, và vô phương chống lại cơn dịch của chủ nghĩa
duy lý vô
thần.
Từ
đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng khủng mà Solz đánh vào năm đầu của
cuộc Thế
Chiến, và sự giải quyết của ông, để làm bùng nổ ra mọi khía cạnh vật
chất và
tinh thần của 1914 [một mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra], và của
những sự kiện
đưa tới [Tôi nói đồng bào nghe rõ không] Tháng Ba, 1917, trong một dẫy
những “sự
kiện- giả tưởng” khổng lồ.
Nhưng
trong cái khoa nghiên cứu quỉ ma này, Lenin đặt ra 1 vấn đề mà Solz
cũng đã từ
lâu quan tâm tới. Chủ nghĩa Mác có thể là thứ bịnh [quỉ] của Tây Phương
và Hê-brơ
[Do Thái], nhưng Lenin là một Trùm Nga, và chiến thắng Bôn sê vích chủ
yếu là của
ông ta. Rõ ràng, trong những bản viết đầu tay của Solz đã có những dấu
vết chứng
tỏ, một cá nhân con người, như là tác giả những bài viết, chống lại 1
hình tượng
như là Lenin.
Trong
một nghĩa chỉ có tí phần có tính ám dụ, Solz hình như cảm ra được rằng,
ý chí, ước
muốn kỳ quặc
và viễn ảnh của riêng ông có gì xêm xêm của Lenin, và, cuộc chiến
đấu cho linh
hồn và tương lai của nước Nga, sẽ là cuộc tử đấu giữa ông và người tạo
ra hệ thống
Xô Viết: Trời cho mi ra đời là để dựng nên Xô Viết, còn ta, để huỷ diệt
nó. Và
tiếu lâm thay, đúng như 1 cú của định mệnh, thiên đường không đi, mà cả
hai cùng
hẹn nhau, không cùng lúc mà là trước sau, lần lượt: Solz thấy mình ở
Zurich, cũng
trong tình trạng lưu vong, với Lenin, là trước cú tận thế
1914. Solz
đã
đi 1 chương về Lenin trong “Tháng Tám 1914”, và còn dư chất
liệu cho những tập kế tiếp mà ông đặt tên
là “Knots". Nhưng cú tính cờ Zurich thì quá giầu có để mà bỏ đi. Từ đó,
xuất
hiện Lenin ở Zurich (nhà xb Farrar,
Strauss & Giroux).
Kết quả
thì
không tiểu thuyết mà cũng chẳng luận văn chính trị, mà chỉ là một bộ,
set, những
điểm xuyết nặng ký, in depth. Solz nhắm “lên sơ đồ, hoạch định, tìm ra”
những sở
đoản, điểm bại, tử huyệt của Lenin. Tin tức về Cách Mạng Nga đến với
Lenin
trong kinh hoàng, theo nghĩa, ông hoàn toàn ngạc nhiên đến sững sờ. Ðầu
óc thiên
tài quỉ quyệt với những âm mưu gây loạn của Lenin khi đó chỉ nhắm tạo
bất ổn ở
Thuỵ Sĩ và đẩy đất nước này vào 1 cuộc chiến.
Ngồi ăn sáng mà Lenin buỗn
nẫu ruột. Người
quậy tứ lung tung cố moi ra tiền vỗ lớn cái bào thai cách mạng. Người
nhức đầu
vì một người đàn bà khác trong cuộc đời khổ hạnh của Người, nàng Inessa Armand cực phấn kích, làm rùng mình, và
chấp nhận “lệch
pha ý hệ” ra khỏi nàng, và điều này có nghĩa là một đệ tử của
Thầy bị ăn
đòn!
Trên hết, như Solz, đích thị xừ luỷ,
Người nhận
thấy cái sự khoan thứ, rộng luợng đã được khử trùng và trở thành
trong
suốt của chủ nhà Thụy Sĩ khiến Người trở
nên khùng:
Cả Zurich,
chừng ¼ triệu
con người, dân địa phương , hay từ các phần khác của Âu Châu, xúm xít ở
dưới đó,
làm việc, trao đổi công chuyện, đổi tiền, bán, mua, ăn nhà hàng, hội
họp, đi bộ,
lái xe lòng vòng, mỗi người mỗi ngả, mỗi cái đầu thì đầy những ý nghĩ, tư tưởng chẳng
có trật tự, chẳng hướng về đâu. Trong khi đó, đứng trên đỉnh núi, Người
biết
cách hướng dẫn họ, và thống nhất thành một mối ước muốn của họ.
Ngoại trừ
điều này: Người đếch có tí quyền lực cần
thiết. Người có
thể đứng trên đỉnh Zurich, hay nằm trong mồ, nhưng không thể thay đổi
Zurich. Người
đã sống hơn một năm ở đó, mà mọi cố gắng của Người đều vô ích, chẳng có
gì thay
đổi.
Và, kìa,
chúng lại sắp hội
hè nữa kìa!
Lenin trở về
Nga, trong
cái “xe đóng khằn” trứ danh, với sự đồng lõa của nhà cầm quyền hoàng gia Ðức,
và bộ tướng lãnh (họ mong làm sao chiến tranh đừng xẩy ra tại Nga).
Nhưng Lenin
chẳng hề có tham vọng này. Nó là từ cái đầu của Parvus, alias Dr.
Helphand, alias Alexander Israel Lazarevich. Mặc dù cả một
cuốn tiểu sử hoành tráng của Z.A. Zeman và W.E. Scharlau, “Tên mại bản
cách
mạng”, "The Merchant of Revolution", chúng ta chẳng biết chi nhiều,
và rõ ràng, về ông này. Một nhà cách mạng a ma tưa, nhưng tầm nhìn đôi
khi vượt
cả của Lenin. Một tay gây vốn thiên tài cho Bolsheviks, nhưng còn là
gián điệp
nhị trùng, tam thùng, đi đi lại lại giữa các phần tử, đảng phái Thổ Nhĩ
Kỳ, Ðức,
và Nga. Ăn diện bảnh bao, dandy, người của muôn phương, cosmopolite,
chàng bèn
liền lập tức bị mất hồn và sướng điên lên vì chủ nghĩa khổ hạnh đến cuồng tín của
những đường hướng của Lenin. Tòa villa sang trọng, giầu sang mà Parvus xây
cho chính ông ta ở Berlin, và vào năm 1942, chết ở đó, sau
này được Himler sử dụng để đi một đường “giải pháp chót” [nhổ sạch cỏ]
cho giống
dân Do Thái.
Bài
điểm cuốn sách mới nhất
về Solz, trên tờ Điểm Sách London, 11 Sept, 2008
Nhiệm
vụ của Solz: Solz's Mission.
Nhiệm vụ gì?
Chàng ra đời, với số mệnh làm
thịt Xô Viết, cũng như Lenin, ra đời, để xây dựng nó!
Like any prophet - like
Lenin... he knew himself born to a historic destiny... In the end, his
mission,
like Lenin, succeeded. In fact, one might say that it succeeded at
Lenin's
expense, a triumphant negation of Lenin's success.
Cuốn sách khổng lồ, về tiểu
sử Solz: gần 1 ngàn trang, với những tài liệu mới tinh, từ hồ sơ KGB.
Một David vs Soviet Goliath
What a fighter!
Chàng dũng sĩ tí hon chiến
đấu chống anh khổng lồ Goliath Liên Xô mới khủng khiếp làm sao. Niềm
tin của
chàng mới ghê gớm thế nào: Tao lúc nào cũng đúng!
Chính trại tù đã làm nên
Solz. Nhờ lao động cải tạo mà ông được cứu vớt, mất đi niềm tin Mác xít
Lêninít,
và tìm lại được niềm tin Chính thống giáo khi còn nhỏ, và nhận ra lời
gọi [the
calling]: ta sẽ là một ký sự gia của trại tù và kẻ tố cáo hệ thống Xô
viết [the
camps’ chronicler and the Xoviet system’s denouncer]
Đây có lẽ là cuốn tiểu sử mới
nhất, đầy đủ nhất [sửa chữa những sai sót trước đó về Solz]. Và tuyệt
vời nhất.
Tin Văn sẽ scan bài điểm hầu quí vị!
*
Nhìn ra số mệnh của Solz như
thế, và gắn nó với số mệnh của Lenin như vậy, thì thật là tuyệt. Mi
sinh ra là để hoàn thành Xô Viết, còn ta sinh ra để huỷ diệt nó, và tố
cáo với toàn thế giới cái sự ghê tởm, cái ác cực ác của nó.
|
|