Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Ðúng trưa
ngày 19/5/1989, (1), chiếc xe taxi chở vợ chồng Gấu tới đây. Ở cái sân
có
cái xe van
nhỏ chở đồ cứu trợ, với hàng chữ UNHCR.
Gấu tạ ơn Trời Phật, và nghĩ thầm, tới nơi rồi!
Ðúng bữa Thứ
Bảy. Ngày 19 tháng 5 là sinh nhật Bác H.
Sau này, trước
khi đi xa, thật xa, nghĩ lại, thì mới ngộ ra là, cái thông điệp của
chuyến đi, là
cái phim coi trên chiếc xe buýt chở vợ chồng Gấu, chạy suốt đêm từ
thành phố biên
giới Lào Thái, Ubon, phía bên kia sông Cửu Long, bên này là Parksé. Có
1 cái gì
đó trong phim liên quan đến cuộc đời sắp tới của Gấu, và nó còn liên
quan đến
những lần mò xuống sông Mekong tắm, sau giấc ngủ trưa nằm bên dưới
tượng Quan Công,
ở hành lang phía sau chùa Long Vân, Parksé.
Có cái gì đó
liên quan đến câu của Heraclitus.
Có cái gì đó
liên quan tới dòng sông cuối cùng Ðường Tam Tạng phải vượt qua trước
khi vô Ðất
Phật!
(1)
1990 mới
đúng, vì 1989 là năm xẩy ra cú Thiên An Môn, trong lúc gia đình Gấu
đang trên
đường bỏ chạy quê hương, tới Vientiane đọc báo thì mới biết.
Khi ở Trại tị nạn,
viết
Lần Cuối Sài Gòn, bèn đưa sự kiện này vô, cho cho có tí mùi lịch sử:
Koestler,
enfin, retrouvé, cuốn "Le Zéro et l'Infini", tôi lục lọi cách chuyến
đi không xa, trong mớ sách "ký gởi" - một hình thức mới của sách vỉa
hè- tại một tiệm phía bên kia cầu Thị Nghè. Cái thiểu số hỗn độn may
mắn sống
sót sau những ngày tháng Tư, trở thành những nạn nhân đầu tiên thay con
người
Sài-gòn dãi dầu mưa nắng Trong số những người đang lục lọi quanh tôi,
có kẻ chỉ
tò mò lật vài trang đầu, tìm tên chủ nhân, có thể kèm theo đó là một
lời đề tặng
của chính tác giả cuốn sách. Cả hai đều đã đi xa, vợ con ở nhà mang mớ
sách kỷ
niệm đổi lấy một vài mớ rau, một hai lon gạo.
Gặp
lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang
nặng những
nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng
máu của
kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành
những
Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn
cả những
lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ,
bắt
họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...",
tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu
mang
trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó
Hemingway chú
giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại
Faulkner... -
Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác.
Staline
bắt chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi
sĩ, một
muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại
tuồng đốt
sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre
của Cách
Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là
một học
trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của
Cách Mạng
Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không
có một
cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu
thì rất
đáng ngờ.
Thời Sự Hình
Bức ảnh này
cũng sẽ đi vào lịch sử … chống ngoại xâm của Nhân dân Việt Nam
Tôi đang ở
xa, rất tiếc không thể có mặt hôm nay ở Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí
Minh để
tham gia biểu tình chống Trung Quốc cùng các bạn tôi và đồng bào. Nhưng
tôi vẫn
theo rõi sát tình hình và biết cuộc biểu tình sáng nay ở cả hai nơi đều
bị đàn
áp nặng nề. Tôi xin đặt câu hỏi: Giữa việc Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đi
gặp phía
Trung Quốc, thỏa thuận bí mật những gì để đi đến chỗ phía Trung Quốc
đưa ra bản
“Thông tin báo chí chung” rất xấu và Bộ Ngoại giao Việt Nam sau đó hoàn
toàn im
hơi lặng tiếng cho đến nay; việc Bộ Ngoại giao tìm mọi các tránh gặp và
trả lời
18 nhân sĩ, trí thức kiến nghị yêu cầu Bộ cung cấp thông tin minh bạch
về cuộc
gặp Việt Nam-Trung Quốc và Thông tin báo chí chung nói trên; với hành
động đàn
áp, bắt bớ, giải tán những người biểu tình yêu nước chống Trung Quốc
hôm nay có
phải là một chuỗi tất yếu không? Có phải thỏa thuận bí mật của ông Hồ
Xuân Sơn
trong chuyến đi Trung Quốc vừa rồi (bí mật vì đến nay vẫn không hề được
công
khai giải thích mặc dầu được ráo riết yêu cầu) là nguyên nhân trực tiếp
đưa đến
đàn áp biểu tình yêu nước của nhân dân hôm nay không? Có sự ám muội
được che dấu
nào ở đây?
Tôi nghĩ mọi
người dân Việt Nam đều có quyền nghi ngờ chính đáng và đặt những câu
hỏi đó, vì
đây là chuyện liên quan đến vận mệnh đất nước.
Nguyên Ngọc
Mẽo, phải đợi
mấy chục năm sau, mới khui hồ sơ mật, cho biết cú Maddox là ngụy tạo.
Nhưng dân Mít
chẳng bao giờ biết được bí mật cái cú đầu độc tù Phú Lợi, từ đó đưa đến
việc
thành lập
MTGP, ra ý đây là vấn đề nội bộ Miền Nam, không có Miền Bắc.
Liệu có bao
giờ người dân Việt Nam “có quyền nghi ngờ” chuyện Diễm Xưa đó không?
Giả như NN
có đi biểu tình, thì [nếu bị cảnh sát Ngụy tó], có rút điện thoại gọi
HU như
DMT không?
Dưới chế độ
toàn trị, làm sao có chuyện minh bạch? Ðến thằng Mẽo mà nó cũng không
minh bạch
liền tức thì nữa là.
Toàn trò hề! NQT
Tôi
nghĩ mọi người dân Việt Nam đều có quyền nghi ngờ chính đáng và đặt
những câu hỏi
đó, vì đây là chuyện liên quan đến vận mệnh đất nước.
NN
Như
vậy, Bắc Kít có “nghi ngờ chính đáng” gì không, khi anh Tẫu trang bị
cho
anh “bộ đọi” cụ Hồ, đến cái lông chim cũng “made in China”?
Rồi
trước đó, khi Bác H. nương náu ở Tầu, Bác Mao cung cấp cả gái cho Bác
H, để đỡ
nhớ nhà?
Nếu
không có bác Mao làm sao thắng Ðiện Biên, làm sao Võ tướng quân trở
thành vị
anh hùng dân tộc?
Khi
PVD ký "sơ ước" "bán" đảo, có xin ý kiến của… NN không?
"J'ai
perdu mes certitudes, j'ai gardé mes illusions." (1)
Entretien avec Jorge
Semprun
Tôi mất những
xác tín, tôi giữ lại những ảo tưởng.
Ông cựu CS,
cựu tù Nazi phán.
Quá tuyệt!
Những ông như
NN, có lẽ chẳng bao giờ hiểu được chính cái chủ nghĩa mà suốt đời họ
cúc cung
phục vụ nó.
Ðể hiểu nó, thì cũng dễ thôi, vì có câu của Arendt, để hiểu
chủ nghĩa
toàn trị, bạn chỉ cần nhớ có 1 câu này, nó không thí cho bạn bất cứ 1
cái gì.
Vậy mà còn đòi
hỏi minh bạch lịch sử.
GNV này thực
sự quá chán đám VC rồi. Chẳng bao giờ chúng dám nhận cái lỗi tày trời
của chúng,
như đám tinh anh thế giới đã từng vướng vào. Thí dụ như tay J.S. trên.
Ðấy là
chưa kể cái phần tạo ác của họ, với những anh hùng diệt Mỹ Ngụy như anh
hùng Núp
chẳng hạn. Truyện ngắn Tướng Về Hưu của
NHT, nghe nói, là do NN khui ra.
NN cũng
là 1 thứ tướng về hưu, vậy mà đọc không ra.
(1)
Câu này, Gấu
đã từng nghe 1 tay cầu thủ bóng đá, Brazil thì phải, than, khi thua
trận chung
kết: Ôi giấc mộng đã tan, sao ảo tưởng vẫn còn!
GNV đã chôm
để viết về BHD. Ôi em đã đi ra khỏi đời Gấu từ đời nảo đời nào, và bây
giờ, em
có lẽ cũng đã đầu thai kiếp khác, vậy mà cả giấc mộng lẫn ảo tưởng vẫn
còn
nguyên!
Cu An @
Vientiane, 17.7.2011
Chúc mừng
sinh nhật Ông Nội!
Cu Tý An
Ngư ông và Biển cả!
Gấu đi biển, kiếm con K của Gấu.
Trên tờ
Bách
Khoa ngày nào còn
Sài Gòn có đăng truyện ngắn K
của Buzatti. Đây
là câu chuyện một anh chàng, sinh ra là bị lời nguyền, đừng đi biển, đi
biển là
sẽ gặp con quái vật K, nó chỉ chờ gặp mày để ăn thịt. Thế là anh chàng
chẳng
bao giờ dám đi biển, cho đến khi già cằn, sắp đi, bèn tự bảo mình, giờ
này mà
còn sợ gì nữa.
Thế là
bèn ra Vũng Tầu, thuê thuyền đi một tua, và quả là gặp
con K thật. Con quái vật cũng già khòm, sắp đi, nó thều thào bảo, tao
có viên
ngọc ước quí, chờ gặp mày để trao, nó đây này...
Precocity
Exhibition
Bruce Duffy
fictionalizes the extravagant, unlikely life of Arthur Rimbaud
ALBERT
MOBILIO
Patti Smith
shoplifted a volume of his poems and found revelation. Jim Morrison
earnestly
corresponded with his English translator. On first reading the work,
Bob Dylan
reports that “bells went off.” Throw in Salinger, Dylan Thomas, and
most of the
Beats, and you’ve got a good idea of Arthur Rimbaud’s enduring fan
base: rebels
besotted with language. That all of these rockers and writers fell in
love with
the author when they were adolescents or just a little older is no
surprise—the
French Symbolist wrote all of his legendary poems before turning
twenty-one.
But Rimbaud’s heroic stature has always posed a problem to the young
and the
restless. While he revolutionized poetry—if not an entire cultural
sensibility—at a tender age, he then retreated from the bohemian
barricades to
spend the rest of his life as colonialist merchant, indeed something of
a gun
runner, whose pen only found work in a ledger book of accounts
received. In
short, the Orphic blasphemer and sexual renegade became the worst kind
of businessman.
Cuộc đời
Rimbaud được tiểu thuyết hóa: Disaster
Was My God: [Thảm họa là Chúa của tôi]
Chàng được miêu
tả như là 1 con quỉ thiêng: Rimbaud is described as a monstre
sacré
Thơ, đối với
R, gồm ba chữ "Ðù":
“About poetry he was consumed by the three
D’s—doubt, dread, and disgust. He had his integrity, and he was
increasingly
horrified by the cynicism, the selfishness, and the rampant
irresponsibility of
writing, of creating these vain word creatures.”
ON PASTERNAK
SOBERLY
Về Pạt, thật
nhã
Với những ai
quen thuộc với thơ của ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải
Nobel ban
cho ông vào năm 1958 quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một nhà
thơ mà thế
giá ở Nga, người ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca
Akhmatova; một đại gia về dịch
thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt", [hai từ đều thuổng
cả!], thì mới dám đụng
vô Shakespeare, vậy mà phải
viết một
cuốn tiểu thuyết to tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây
chấn động
giang hồ, cả Ðông lẫn Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một
best-seller,
[có lẽ phải
thêm vô, phải có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc
đó, những thi sĩ của những xứ sở Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được
Uỷ Ban Nobel ở Stockholm, thương tình để mắt tới.
Giá
như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì thế
mà mùi
vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng chứng về
một sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn
học Ðông Âu,
và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Sau khi được
Nobel, Pạt mới hiểu ra được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một
đại ác mộng
về sự hồ nghi, chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng khẳng
định với
chính mình, tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ gẫy
vì những
hoàn cảnh.
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi,
mi được Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm
đọc….
Milosz
POEMS ON
POLAND
I read poems
on Poland written
by foreign
poets. Germans and Russians
have not
only guns, but also
ink, pens,
some heart, and a lot
of
imagination. Poland in their poems
reminds me
of an audacious unicorn
which feeds
on the wool of tapestries, it is
beautiful,
weak, and imprudent. I don't know
what the
mechanism of illusion is based on,
but even I,
a sober reader,
am
enraptured by that fairy-tale defenseless land
on which
feed black eagles, hungry
emperors,
the Third Reich, and the Third Rome.
Adam
Zagajewski
Thơ về Ba
Lan
Tôi đọc những
bài thơ về Ba Lan,
được viết bởi
những nhà thơ nước ngoài. Người Ðức, người Nga
không chỉ có súng, mà còn có
mực,
cây viết, một dúm tim, và rất nhiều
trí tưởng tượng. Ba Lan trong thơ của họ
làm
tôi nhớ đến 1 con kỳ lân một sừng táo bạo sống trên mấy tấm thảm len,
nó thì
đẹp,
yếu ớt, và bất cẩn. Tôi không biết
cơ chế ảo tưởng nào đã được dựa trên đó,
nhưng
ngay tôi, một độc giả khiêm tốn
mà còn mê mẩn bởi mảnh đất thần tiên hiền hòa, cưu mang
những bầy diều hâu đen, những vì hoàng đế đói khát,
Ðệ Tam Reich, và Ðệ
Tam La Mã.
Adam
Zagajewski
1969
Gombrowicz
died; Americans walked on the Moon,
hopping cautiously, as though it might
break.
Erbarme
dich, mein Gott, one black woman sang
in a certain
church.
Summer
scorched us, the lake water was warm and sweet.
The cold war dragged on, the
Russians occupied Prague.
We met for the first time that year.
Only the
grass, worn and yellow, was immortal.
Gombrowicz died. Americans walked on the
Moon.
Have mercy, time. Have mercy, destruction.
Adam
Zagajewski
1969
Gombrowicz chết; người
Mẽo đi bộ trên mặt trăng,
thật cẩn trọng,
như sợ bể cái bánh bèo.
Erbarme
dich, mein Gott một bà đen hát
ở nhà thờ nào đó.
Mùa hạ đốt chúng
tớ cháy xém, nước hồ thì ấm và ngọt.
Cuộc chiến lạnh
cứ thế rề rề, người Nga chiếm đóng Prague.
Chúng mình gặp
nhau lần đầu tiên năm đó.
Chỉ có lũ cỏ,
khô đi, vàng đi, thì bất tử.
Gombrowicz
chết. Người
Mẽo đi bộ trên mặt trăng.
Hãy cứu chuộc,
hãy thời gian. Hãy cứu chuộc, huỷ diệt.
1969
Những đêm trực
ở Đài, hoặc ngủ ngay sau khi đọc vớ vẩn một mẩu báo, một trang tiểu
thuyết,
nghe lơ đãng một điệu nhạc, một giọng hát, chập chờn theo khói thuốc
rồi ngủ
lúc nào không hay. Có khi ngủ luôn tới sáng. Đó là những đêm thành phố
may mắn
không bị pháo kích, tình hình chiến sự tương đối yên tĩnh. Nhưng hầu
như đêm
nào cũng bị dựng dậy. Khi thì nhân viên viễn ký hai hãng AP, UPI yêu
cầu chỉnh
lại tín hiệu. Hoặc đồng nghiệp trực Đài phát tín Phú Thọ nhắc đến giờ
thay đổi
tần số liên lạc. Có khi một đồng nghiệp Phi Luật Tân ở mãi Manila réo
chuông
máy viễn ký liên hồi, chỉ để hỏi thăm thời tiết Sài-gòn, tình trạng vợ
con gia
đình, hay nhờ dịch giùm một message bằng tiếng Pháp của hãng SITA than
phiền
nhân viên RCA Manila làm ăn cẩu thả. Một lần ngủ quá say dù đã cẩn thận
để điện
thoại ngay kế bên, và chỉ giật mình thức giấc khi nghe tiếng đập cửa ầm
ầm: Anh
chàng Mẽo trưởng phòng tin tức AP và nhân viên viễn ký, cũng đồng
nghiệp Bưu Điện
làm ngoài giờ cho hãng thông tấn ngoại quốc, một đỏ gay tức giận, một
lắc đầu
ái ngại, hình như vào lúc đó hai ông Thiệu Kỳ đang gặp tổng thống
Johnson tại đảo
Midway. Hôm sau bị ông Tổng Giám Đốc, cũng may còn là thầy dậy cũ khi
học trường
Quốc Gia Bưu Điện, gọi lên văn phòng giũa cho một trận. Bị nặng nhất là
trong Mậu
Thân đợt hai. Khoảng gần nửa đêm, UPI vớ được hình đặc biệt, bằng mọi
giá phải
chuyển ngay đi Tokyo: Chừng trên dưới một chục ký giả, phóng viên ngoại
quốc,
ngồi xe díp lùn có gắn bảng báo chí, Press, ở kính trước, không may bị
Việt Cộng
tóm được tại khu chợ Thiếc. Sau cùng là thảm sát. Người gục chết trên
vô lăng,
kẻ vắt nửa khúc đầu trên sàn xe, nửa khúc đuôi trên mặt lộ. Sau này,
khi cuộc
chiến nghiêng về phía Miền Bắc, dư luận thế giới hình như chỉ còn nhớ
cảnh tướng
Loan xử bắn tù binh ngay trên đường phố. Hôm sau, Horst Fass, trưởng
phòng hình
ảnh AP, thay vì gọi điện thoại than phiền với Trưởng Đài Vô Tuyến Điện
Thoại,
anh viết văn thư tố cáo gã chuyên viên trẻ, Jeune Technicien, nhân viên
Bưu Điện
làm cho UPI, đã gửi hình trong giờ giới nghiêm. Sau cùng mọi chuyện
cũng ổn thỏa,
vì ngay những ngày đầu biến cố Mậu Thân, khi hai bên đang tranh giành
từng viên
gạch, hoặc đánh cuộc xem tao Dù hay mày Biệt Động Thành, ai chết trước
tại Đài
Phát Thanh Sài-gòn ngay kế bên, khi đám quân cảnh Mỹ đang vật lộn tay
đôi với
Việt Cộng tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cách đó cũng không xa, gã chuyên viên
trẻ do
nhà ở cạnh Đài, lại đúng đêm trực nên đã một mình "tử thủ", sau thêm
tay phóng viên AP được đám lính Dù, lính chiến xa mở vòng kẽm gai cho
vào bên
trong phòng tuyến. Gã chuyên viên trẻ đã chuyển hình cho AP, giùm ông
bạn già
trước cũng nhân viên Bưu Điện nhưng bị An Ninh Quân Đội cho đi nằm ấp
một thời
gian dài, khi được thả bị Bưu Điện cho về hưu non, do có kẻ tố cáo ông
là Việt
Cộng nằm vùng ngay từ hồi còn ông Diệm. Sự thực ông bị một đồng nghiệp
mưu hại
chỉ vì nhất định không vào đảng Cần Lao hay tham gia phong trào Cách
Mạng Quốc
Gia. Những ngày đầu tháng Tư, AP đề nghị cho cả gia đình ông đi Mỹ,
nhưng ông từ
chối.
Cõi Khác
NQT
Biệt Kích Văn Hóa
Nén
nhang muộn
cho Nguyễn Khải
Sau này anh
đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi
viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa
vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng
đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ
niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái
cánh sắp bay… trước khi tôi viết
Tôi giết bão
táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn
Mặt trời lên trên biển
Giết mưa và
giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu
thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng
xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này
rơi đến tay anh
Anh bảo đấy
là tôi
Không phải!
Nhưng cũng
chính là tôi – người có lỗi
Đã giết đi
bao nhiêu cái
Có khi không
có tội như mình.
Chế
Lan Viên
Bài
thơ trên, nếu biểu là thơ, thì không hẳn đúng, vì nó là 1 thứ sám hối,
mà cũng
nhảm. Nó làm Gấu nhớ đến Milosz, và bài thơ ông trích dẫn Szymborska,
chửi bố cái
thứ thơ “sám hối 1 nửa” này:
The chasm
doesn’t split us.
A chasm
surrounds us
Lỗ nẻ không
phân đôi chúng ta
Một cái lỗ nẻ
bao quanh chúng ta.
Nhà
thơ TDT khi trả lời độc giả trên DTL.com [đọc mục “thơ mỗi ngày”], đã
vinh danh
"thơ muộn" của Chế Lan Viên, hẳn là ông nghĩ tới những bài thơ như
trên.
Milosz,
trong cuốn Chứng từ Thơ, khi
viện tới bài thơ của Szymborska, là cũng nhắm tới
những cas như thế này.
Chỉ là trò
giả đò mà thôi.
Nên
nhớ, những nhà thơ như Szymborska, Milosz có chung những kinh nghiệm
như Chế,
như Khải.
Autonomy
In danger
the holothurian splits itself in two:
it offers
one self to be devoured by the world
and in its
second self escapes.
Violently it
divides itself into a doom and a salvation,
into a
penalty and a recompense, into what was and what will be.
In the
middle of the holothurian’s body a chasm opens
and its
edges immediately become alien to each other.
On the one
edge, death, on the other, life.
Here
despair, there, hope.
If there is
a balance, the scales do not move.
If there is
justice, here it is.
To die as
much as necessary, without overstepping the bounds.
To grow
again from a salvaged remnant.
We, too,
know how to split ourselves
but only
into the flesh and a broken whisper.
Into the
flesh and poetry.
On one side
the throat, on the other, laughter,
slight,
quickly calming down.
Here a heavy
heart, there non omnis moriar,
three little
words only, like three little plumes ascending.
The chasm
doesn’t split us.
A chasm
surrounds us.
To
the memory of Halina Poswiatowska
Tự Trị
Gặp nguy hiểm dưa biển tự phân
đôi,
Thí một nửa cho thế giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé đôi nó ra, một nửa là tận thế, một nửa là cứu chuộc
một nửa là trừng phạt, một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm qua, một nửa là ngày mai
Ở giữa dưa biển, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập tức trở thành xa lạ với nhau.
Một rìa, cái chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng, thì OK.
Nếu có công lý, thì là như vậy đó.
Chết như là có thể, trong hạn vi, không vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng biết cách phân thân
Nhưng chỉ để trở thành, một bên là thịt, một bên là lời thì thầm bị bẻ
gãy.
Một bên là thịt, và một bên là thơ ca.
Một bên là cổ họng, một bên là tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức thì.
Ðây, trái tim nặng nề, kia, non omnis moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba cái lông chim bay lên.
Lỗ nẻ không chia chúng ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng ta.
Auden phán,
thật hách, Thơ làm cho chẳng cái gì xẩy ra, “Poetry makes nothing
happen”.
Với Kundera, qua bài viết của Alain Schaffer,
khi đọc cuốn “Ðời ở đâu đó” của K, thì thơ là 1 trò đại ma đầu, siêu
lừa, siêu
gian trá, « La poésie, toute poésie, toute
pensée
poétique est supercherie. Ou plutôt: un piège, et l'un des plus
redoutables qui
soit", [thơ, mọi thơ, mọi tư duy về thơ là 1 siêu lừa, siêu gian trá.
Hay 1 cái bẫy, 1 trong những bẫy đáng sợ nhất], và
đây đúng là cái thứ thơ Bắc Kít nhờ nó mà ăn cướp được Miền Nam, « ce n'était pas seulement le temps de
l'horreur, c'était
aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau" [đâu phải
chỉ
là thời của ghê rợn, mà còn là thời của trữ tình, nhà thơ trị vì cùng
với đao
phủ”], « La révolution et la jeunesse forment un couple”, [cách mạng và tuổi trẻ tạo thành một cặp].
Công thức của
cái tít, la formule du titre, "Ðời ở đâu
đó", theo Alain Schaffner, tác
giả bài viết đã dẫn, thì ‘mượn’ của Rimbaud - Ðời thực thì vắng mặt.
Chúng ta
không có trên đời, Một mùa địa ngục – và
của André Breton: Sự hiện hữu thì ở đâu đó, Tuyên
ngôn của chủ nghĩa siêu thực. Tuy nhiên, cũng trong viết, tác giả
đi một cái note, theo Bernard
Pingaud, hiểu như thế là hiểu ngược nghĩa. Ðúng ra phải hiểu
là: “Ðời thực” vắng mặt không phải là đời khác, một cuộc đời mà chúng
ta hoài
mong, nhưng chính là cuộc đời vừa lỡ. [La ‘vraie vie’ absente n’est pas
une autre vie, à laquelle nous aspirerions, c’est cette même vie qui
vient à manquer
[ui chao, lại nhớ thơ của… Gấu: Không
phải tiếc cuộc đời đã sống/Mà một đời bỏ lỡ/Nhớ hoài]!
Thủ Thiêm
Vợ Hổ
UNDER EASTERN EYES
Và cuộc lưu vong, phát vãng
xứ người, ra khỏi khối u, hộp đau, cục uất đó, bây giờ ám ảnh
Solzhnitsyn. Với
con người mãnh liệt bị ám ảnh này, có một cảm quan thực, qua đó, sự
nhập thân nơi
Gulag đem đến vinh quang và sự miễn nhiễm ở Tây Phương. Solz ghét Tây
Phương, và
cái sự la làng lên của ông về điều này thì chỉ khiến người ta dửng dưng
và… vô
tri. Cách đọc lịch sử của ông theo lý thuyết thần học Slavophile thì
cực rõ. Cuộc
cách mạng Pháp 1789 thăng hoa những ảo tưởng thế tục của con người,
cuộc nổi loạn
hời hợt của nó chống lại Chúa Ky Tô, và mạt thế luận. Chủ nghĩa Mác là
hậu quả
tất nhiên không thể nào tránh được, của cái thứ tự do bất khả tri này.
Và chính
con vai rớt, khuẩn trí thức, “đặc mũi lõ” đó, được đám trí thức mất
gốc, phần lớn
là Do Thái, cấy vô máu Gấu Mẹ vĩ đại, là nước Nga Thiêng, the Holy
Russia.
Gấu Mẹ vĩ đại sở dĩ nhiễm độc là do những rất dễ bị tổn
thương, và hỗn loạn của hoàn cảnh, điều kiện một nước Nga sau những
khủng
hoảng quân sự lớn
1914. Chủ nghĩa CS là một nhạo nhại của những lý tưởng thực sự về đau
khổ, tình
anh em đã làm cho nước Nga được Chúa chọn.
Nhưng 1914 chứng
kiến một nước Nga nhếch nhác,
thảm
hại tàn
khốc, và vô phương chống lại cơn dịch của chủ nghĩa
duy lý vô
thần.
Từ
đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng khủng mà Solz đánh vào năm đầu của
cuộc Thế
Chiến, và sự giải quyết của ông, để làm bùng nổ ra mọi khía cạnh vật
chất và
tinh thần của 1914 [một mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra], và của
những sự kiện
đưa tới [Tôi nói đồng bào nghe rõ không] Tháng Ba, 1917, trong một dẫy
những “sự
kiện- giả tưởng” khổng lồ.
Nhưng
trong cái khoa nghiên cứu quỉ ma này, Lenin đặt ra 1 vấn đề mà Solz
cũng đã từ
lâu quan tâm tới. Chủ nghĩa Mác có thể là thứ bịnh [quỉ] của Tây Phương
và Hê-brơ
[Do Thái], nhưng Lenin là một Trùm Nga, và chiến thắng Bôn sê vích chủ
yếu là của
ông ta. Rõ ràng, trong những bản viết đầu tay của Solz đã có những dấu
vết chứng
tỏ, một cá nhân con người, như là tác giả những bài viết, chống lại 1
hình tượng
như là Lenin.
|
|