Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
@ Montreal
"Columbo" actor Peter Falk
dead at 83
LEARN TO BE
LIKE LIEUTENANT COLUMBO
What did you
make of the latest chapter, the news of Osama bin Laden's death?
Salman Rushdie:
I thought:
good. It's about time. And of course I loved the fact that it turns out
he
enjoyed looking at pornography, and watching himself on TV – the more
of a jerk
he looks, the better for everyone. One of the likely consequences of
the Arab
spring is that al-Qaida immediately starts to look more irrelevant. It
shows
that this argument (which has been far too prevalent in the west) that
there is
a different set of criteria you have to use when you look at Muslim
countries
is bullshit. This is not an ideological revolution, or a theological
one; it is
a demand for liberty and jobs, desires and rights that are common to
all human
beings.
Ông
nghĩ sao về cái chết của Bin Laden?
Tốt.
Ðây là về thời gian. Thú nhất là cái sự kiện Bin Laden khoái coi phim
con
heo....
Thơ mỗi ngày
Thiếu Khanh
Hoàng Hạc
Lâu – Lầu Hoàng Hạc
Trong các
bài thơ về Lầu Hoàng Hạc được truyền tụng từ xưa, có lẽ bài Hoàng Hạc
Lâu của
Thôi Hiệu được ngưỡng mộ hơn cả. Nhiều thi sĩ Việt Nam cũng đã dịch bài
này ra
thơ Việt. Có người cho biết, đã có hơn bốn trăm bản dịch tiếng Việt từ
bài thơ
Hoàng Hạc Lâu này. Trong số đó có bản dịch của nhiều thi sĩ nổi tiếng,
từ Tản
Ðà, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng San, Vũ Hoàng Chương vân
vân.
Riêng bản dịch của nhà thơ họ Vũ được những người biết đến đánh giá rất
cao
nhưng có lẽ do thời thế (được nhà thơ dịch sau năm 1975) mà ít người
được thưởng
thức bản dịch này. Ở đây người viết xin giới thiệu bản dịch tài hoa này
của thi
sĩ Vũ Hoàng Chương cùng với một số bài dịch sang các ngôn ngữ Anh,
Pháp, Đức của
các nhà Trung Hoa học Tây Phương nổi tiếng, và một bài dịch tiếng Anh
của người
viết.
TK
Theo Gấu, bản
dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ
Hoàng Chương, quá hay, nhưng không theo kiểu nhận định về "hay dở"
thông thường, hay khi phải so với những bản dịch khác!
Nói rõ hơn, vấn đề ở đây,
là bản dịch của VHC khác hẳn các bản dịch khác.
Gấu đã lèm bèm về bài thơ này một đôi lần.
Nguyên tác sử
dụng vần trắc, thành ra những bản dịch, trong số đó, hay nhất, là của
Tản Ðà với
riêng Gấu, thì đều sử dụng vần bằng, thành ra mất hẳn cái “air” trượng
phu,
viril, của bài thơ, theo kiểu “ba năm mẹ già cũng đừng trông”, của Thâm
Tâm,
hay kiểu Brodsky, "Doomed
Never to Return Home": kẻ bị kết án đi một
lèo, không quay lại…
Ðó là cái ý hoành
tráng của câu thơ đầy sảng khoái:
Hoàng hạc nhất khứ bất
phục phản.
Dịch nhảm kiểu
Gấu:
Một lần Gấu đi là đếch có về nữa!
Chính vì thế
mà VHC, khi dịch, đã sử dụng vần trắc.
Bài thơ, và tác giả của nó, từ ngàn xưa mà đã nhìn ra thân phận lưu
vong của Gấu,
hàng ngàn năm sau.
Thế mới khủng!
Có thể vì vậy,
mà người đời cứ dịch đi dịch lại hoài, nó.
Bởi vì mỗi
thời, con người lại cần 1 bản dịch của
Hoàng Hạc Lâu.
Bài Biển của
Gấu, theo nghĩa đó, cũng là 1 bản dịch của Hoàng Hạc Lâu!
Hà, hà!
Biển
Buổi chiều đứng
trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng,
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì
thầm của biển...
Bài thơ của
VHC, dịch HHL, không phải được dịch sau 1975.
Gấu đã từng
nghe nó, khi học Ðệ Tam, [Ðệ Nhị, Gấu học nhảy, bỏ Ðệ Tam, lên Ðệ Nhị,
cuối năm thi Tú Tài 1, đậu, vô Chu Văn An, học Ðệ Nhất, quen Bạn C, ông
em nhà thơ...], trường Hồng Lạc, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài
Gòn, kế
ngay bên vườn Bờ Rô, khi là học trò của nhà thơ. Như thế, phải khoảng
năm 1956
-7, bởi vì Gấu đậu Tú Tài 2 năm 1958.
Ông dậy Việt
Văn, và có lần khen 1 bài luận của Gấu, nhưng cảnh cáo, bài luận làm
đúng thể
thức 1 bài luận, đừng có nghĩ là nó hay, mà vênh mặt lên!
Ngay lần đó,
ông đã cho biết, lý do ông dịch HHL, sử dụng vần trắc, như trên.
Bài Biển
này, từ khi ra đời, là đã gặp nhiều
hạnh ngộ, và gây cho tác giả của nó, hạnh phúc, có, và bất hạnh, càng
có, và càng
khổ.
Ðã từng được diễn đàn Gió-O đọc, trong mục đọc thơ. Một vị, bạn tù của
Gấu,
quen ở nhà tù quốc tế Bangkok, và sau đó, định cư tại Úc, viết thư khen
nức nở,
hào khí ngất trời. Một vị, cũng Bắc Kít, quen ở hải ngoại, trong 1 lần
nhậu xỉn,
phán, chỉ cần bài thơ này, là đủ rồi, khỏi cần làm thơ nữa. Vụ này đã
kể trong
bài viết Dạ Vũ Ký Bắc
Một trong những
vị độc giả đầu tiên, là cô bạn. Bài thơ này được làm ra, là vì cô bạn,
lần cả
hai gia đình đi thăm Wasaga.
Gấu mất 1 vị
độc giả quá thân, là vì bài thơ này.
Ðúng ra, là vì Gấu không
giữ đúng điều kiện:
ta cấm mi không được post mail của ta.
Sorry,
please take care. NQT
NOTHING ELSE
Friends
of
the small hours of the night:
Stub of a
pencil, small notebook,
Reading lamp on the table,
Making me
welcome in your circle of light.
I care
little the house is dark and cold
With you sharing my absorption
In this book
in which now and then a sentence
Is worth repeating again in a whisper.
Without you,
there'd be only my pale face
Reflected in the black windowpane,
And the bare
trees and deep snow
Waiting for me out there in the dark.
-Charles
Simic
NYRB Jan 13,
2011
Vậy đủ rồi,
chẳng cần chi nữa
Những bạn bè
của những giờ nho nhỏ vào buổi đêm:
Mẩu viết chì,
cuốn sổ tay
Cây đèn bàn
Chào mừng tôi
lọt vô vòng ánh sáng của em
Tôi đâu có để
ý gì đến căn nhà tối và lạnh
Khi có em cùng
chia sẻ nỗi say mê
Trong cuốn sách
hẳn là có một câu
Thật đáng để
mà thì thầm vào lúc này lúc khác
Không có em,
thì chỉ có bộ mặt xanh nhợt của 1 anh già sắp đi xa,
là cu Gấu Bắc Kít ngày
nào
Phản chiếu từ
cái khung cửa sổ đen
Và cây trần
trụi, và tuyết thẳm sâu
Ðang đợi Gấu
ở ngoài trời tối
SKILLS
Blondin made
a fortune walking back and forth
over Niagara Falls on a tightrope-blindfolded,
or inside a
sack, or pushing a wheelbarrow, or perched on stilts,
or lugging a man on his
back. Once, halfway across,
he sat down
to cook and eat an omelette.
Houdini,
dumped into Lake Michigan chained
and locked
in a weighted trunk, swam back to the boat
a few
moments later. He could swallow more than a hundred needles
and some thread,
then pull from between his lips
the needles
dangling at even intervals.
I can close
my eyes and see your house
explode in a
brilliant flash, silently,
with a
complete absence of vibration. And when I open them again,
my heart in my
mouth, everything is standing
just as
before, but not as if nothing had happened.
-Jonathan
Aaron
Kỹ năng
Blondin kiếm
được cả một gia tài khi,
mắt bịt kín,
đi đi lại lại trên 1 sợi dây vắt ngang
Thác Niagara
Falls
hay là ở trên
trong 1 cái bao tải
hay là đẩy 1
cái xe cút kít
hay là đi cà
kheo
hay là cõng
1 người trên lưng. Một lần, đi được nửa đường,
anh ngồi xuống nấu cái hột
gà ôm-lét
Và xơi luôn.
Houdini, được
cho đi mò tôm ở Hồ Michigan, chân tay bị xiềng,
bị khóa ở trong 1 cái xe tải,
bơi
về lại thuyền vài phút sau đó.
Anh ta có thể nuốt cả trăm cây kim treo tòng teng,
không phải 1 lần mà là vài lần cách nhau,
kèm theo cả 1 khúc chỉ, và sau đó, hé
môi, kéo ra….
Tôi có thể
nhắm mắt và nhìn thấy căn nhà của em nổ tung, lặng lẽ,
trong ánh lửa sáng chưng,
không một chút rung động.
Và tôi lại mở mắt ra,
Trái tim ở
trong miệng, mọi vật đều đứng y như trước đó,
Nhưng không
phải như thể,
chẳng có chi xẩy ra.
NYRB August
10, 2006
Introducing
Elizabeth Bishop
RICHARD D.
BEARDS
I am neither
here nor there
Never can I
be at home
Water claims
me not, nor air,
Nor the
light of fairy foam
On the hills
I cannot pass
Clouds are
low
For me to
roam.
As the sun
upon the grass,
As the water
touched by air
Stirs life
shadows in a glass,
I shall come
where you are fair,
Quick, look
up and see me there. (1)
On the first
free endpaper of the Modern Library edition of Jude the
Obscure that I bought at a flea market in Adamstown,
Pennsylvania, is a neatly penciled ownership signature: "Elizabeth
Bishop". The same page also carries a tiny paper sticker from The Old
Comer Bookstore, Boston, Massachusetts. When I cheeked the signature
against
those in the Rare Book Collection at the University of Delaware, there
was no
doubt - it had been the poet Elizabeth Bishop's copy. Jude the Obscure first
appeared in the Modern Library Series in 1927, when Bishop was sixteen
years
old and was living with an aunt in Revere, a suburb of Boston.
An even more
interesting prize, written in the same clear hand as the signature, was
to be
found on the blank free endpapers at the rear of the volume. On the
left-hand
page there are three lines about sky gazing. On the facing page are
twelve
lines which have all the appearance of a completed poem about
adolescent
longing and the speaker's sense of homelessness among the elements. The
hand-writing matches precisely that found in the facsimile of Bishop's
poem
"I introduce Penelope Gwin" which appeared in the Paris
Review, Summer 2005, and subsequently in Edgar Allan
Poe & the Juke-Box: Uncollected poems, drafts and fragments,
edited by
Alice Quinn (reviewed in the TLS, April 28, 2006). The lines on the
left-hand
endpaper read: "A halo of deep quiet in the wind / A twilit place for
me
amid the dark / A church without a god, between the clouds". The poem
on
the right-hand endpaper is printed here.
The unnamed
editor in the Paris Review assumes
that "I introduce Penelope Gwin" was written when Elizabeth Bishop
was seventeen, and suggests it might be the first known poem by her. In
her
notes to the same poem Alice Quinn writes, "It's possible that it's one
of
the 'two or three comic poems'" Bishop refers to, in a letter of 1975,
as
having been written at her high school in 1928-9 or "a bit later". I
suspect the lines written in my copy of Jude the Obscure might have
been
written even earlier.
TLS March 25 2011
(1)
Tôi chẳng ở đây,
mà cũng chẳng ở đó
Chẳng bao giờ
tôi có thể ở nhà
Nước vờ tôi,
khí trời cũng vờ tôi,
Vờ tôi luôn,
là thứ bọt ánh sáng thần tiên
Trên những ngọn
đồi mà tôi không nào vượt qua
Mây thì thấp,
làm sao tôi lang thang, dù trời thật gần
Khi mặt trời
trên cỏ
Khi mặt nước
chạm không khí
Khuậy bóng đời
trên ly
Tôi sẽ tới nơi
mà bạn ưng tôi
Lẹ lên, coi kìa,
bạn sẽ gặp tôi ở nơi đó
Take a
newspaper.
Take a pair
of scissors.
Choose an
article as long as you
are planning
to make
your poem.
Cut out the
article.
Then cut out
each of the words
that make up
this article and
put them in
a bag.
Shake it
gently.
Then take
out the scraps one after the other in the order in which they left the
bag.
Copy
conscientiously.
The poem
will be like you.
And here you
are a writer,
infinitely
original and endowed
with a
sensibility that is
charming
though beyond the
understanding
of the vulgar.
Dada Manifesto by Tzara 1920
The Dada Painters and
Poets. p.92
Charles
Simic trích dẫn, trong bài viết về Dada: Making
It New, NYRB August 10, 2006
Không dada,
siêu thực
Khởi từ ca
dao sang tự do
TTT
On the Couch
with Philip Roth,
at the Morgue with Pol Pot
Charles
Simic
As a rule, I
read and write poetry in bed; philosophy and serious essays sitting
down at my
desk; newspapers and magazines while I eat breakfast or lunch, and
novels while
lying on the couch. It’s toughest to find a good place to read history,
since
what one is reading usually is a story of injustices and atrocities and
wherever one does that, be it in the garden on a fine summer day or
riding a
bus in a city, one feels embarrassed to be so lucky. Perhaps the
waiting room
in a city morgue is the only suitable place to read about Stalin and
Pol Pot?
Oddly, the
same is true of comedy. It’s not always easy to find the right spot and
circumstances to allow oneself to laugh freely. I recall attracting
attention
years ago riding to work on the packed New York subway while reading
Joseph
Heller’s Catch 22 and
bursting into guffaws every few minutes. One or
two
passengers smiled back at me while others appeared annoyed by my
behavior. On
the other hand, cackling in the dead of the night in an empty country
house
while reading a biography of W.C. Fields may be thought pretty strange
behavior
too.
Wherever and
whatever I read, I have to have a pencil, not a pen—preferably a stub
of a
pencil so I can get close to the words, underline well-turned
sentences,
brilliant or stupid ideas, interesting words and bits of information,
and write
short or elaborate comments in the margins, put question marks, check
marks and
other private notations next to paragraphs that only I—and sometimes
not even
I—can later decipher. I would love to see an anthology of comments and
underlined passages by readers of history books in public libraries,
who
despite the strict prohibition of such activity could not help
themselves and
had to register their complaints about the author of the book or the
direction
in which humanity has been heading for the last few thousand years.
Witold
Gombrowicz says somewhere in his diaries that we write not in the name
of some
higher purpose, but to assert our very existence. This is true not only
of
poets and novelists, I think, but also of anyone who feels moved to
deface
pristine pages of books. With that in mind, for someone like me, the
attraction
some people have for the Kindle and other electronic reading devices is
unfathomable. I prefer my Plato dog-eared, my Philip Roth with coffee
stains,
and can’t wait to get my hands on that new volume of poetry by Sharon
Olds I
saw in a bookstore window late last night.
December 14,
2009 12:55 p.m.
Trên tràng kỷ
với Philip Roth,
Ở nhà xác,
với Pol Pot
Như là luật,
tôi đọc thơ ở trên giường; triết và tiểu luận nghiêm túc ngồi trên ghế,
ở nơi bàn
viết; báo chí khi ăn sáng hay trưa, và tiểu thuyết thì nằm dài trên
tràng kỷ.
Căng nhất là
tìm ra một chỗ thật ngon để đọc lịch sử, bởi vì cái thứ mà bạn đọc đó,
thì đầy
rẫy những bất công, những điều ghê rợn, và một khi bạn đọc nó, thì có
lẽ nên đọc
ở ngoài vườn, vào một ngày hè đẹp trời hay là khi đi xe buýt trong
thành phố, bạn
cảm thấy bực bội, bị làm phiền, nhờ vậy mà thành ra may mắn. Nhưng có
lẽ nhà xác
của một thành phố là chỗ thật thích hợp để đọc về Stalin và Pol
Pot.
Lạ lùng làm
sao, cũng như vậy, là với hài kịch. Ðâu có dễ mà tìm được đúng chỗ, và
hoàn cảnh
để tự cho phép mình cười một cách thoải mái, tự do. Tôi lại nhớ cái lần
đọc Joseph
Heller’s Catch 22 cách đây nhiều năm,
khi ngồi trên xe điện ngầm đông người ở New York, trên đường đi làm, và
cứ vài
phút lại cười hô hố một cách thật là sảng khoái. Một vài hành khách
nhìn tôi mỉm
cười, trong khi những người khác tỏ ra rất ư là bực bội.
Mặt
khác, quang quác như gà mái đẻ trong cái chết của một đêm đen, trong
một căn nhà
ở miền quê, khi đọc tiểu sử W.C. Fields thì tâm thần
có vấn đề,
hơi bị mát dây, hẳn là như vậy.
Ở
đâu, đọc, bất cứ cái chi chi, là tôi phải thủ cho mình 1 cây viết chì,
không phải
viết mực - tốt nhất là một mẩu viết chì, như thế tôi có thể tới thật
gần với những
chữ, gạch đít những câu kêu như chuông, viết tới chỉ, những ý nghĩ sáng
láng,
hay, ngu thấy mẹ, những từ thú vị, đáng quân tâm, những mẩu thông tin,
và chơi
một cái còm ở bên lề trang sách, một cái dấu hỏi, đánh dấu trang, đoạn,
đi 1 đường
mật mã mà chỉ tôi mới hiểu được, [và có khi, chính tôi cũng chịu thua],
như là
dấu chỉ đường, nhằm đọc tiếp những trang sau đó. Tôi rất mê đọc một
tuyển tập
những cái còm, và những đoạn được gạch đít, của những độc giả, trong
những cuốn
sách lịch sử ở trong thư viện công cộng, đã từng có mặt ở trên trái đất
này hàng ngàn năm, mặc dù sự cấm đoán rất ư là
chặt chẽ.
Witold
Gombrowicz có nói đâu đó, trong nhật ký của ông, là chúng ta viết không
phải là
để nhân danh những mục đích cao cả, nhưng chỉ để khẳng định cái sự hiện
hữu rất
ư là mình ên của mình. Ðiều này không chỉ đúng với thi sĩ, tiểu thuyết
gia, mà
còn đúng với bất cứ 1 kẻ nào cảm thấy bị kích thích, chỉ muốn làm xấu
đi 1
trang sách cổ xưa.
Với ý nghĩ
này ở trong đầu, một kẻ như tôi thật không thể chịu nổi cái sự ngu si
của người
đời, khi bị quyến rũ bởi ba thứ quỉ quái như là sách điện tử, “tân bí
kíp”
Kindle! Tôi khoái cuốn Plato quăn góc
của tôi, cuốn Philip Roth của tôi với
những vết cà phe, và nóng lòng chờ đợi cái giây phút cực khoái: được
mân mê tuyển
tập thơ mới ra lò của Sharon Olds mà tôi nhìn thấy vào lúc thật khuya
đêm qua,
tại khung kính của 1 tiệm sách.
An
interview with Joseph Brodsky
Hanoi Saigon 2002
Cả 1 băng đảng,
suốt cuộc chiến không đứa nào sứt 1 sợi lông… chân, bỏ chạy cũng lẹ
nhất, bao
nhiêu năm ở hải ngoại, không làm được chỉ 1 việc nhỏ cho ‘đại cuộc’,
chỉ chăm
chăm lo làm giầu, tất cả bây giờ giầu xụ, bao nhiêu cơ quan báo chí,
truyền
thanh… đều thuộc vào tay chúng hoặc hậu duệ của chúng, thử hỏi sự khốn
kiếp đâu
có thua gì VC ở trong nước?
Chúng chửi
VC, bằng thứ tâm địa khốn kiếp như thế, làm sao có… phép lạ xẩy ra?
GNV từng lèm
bèm, sở dĩ đám tinh anh Bắc Kít, không có lấy 1 mống, đau vì một “Miền
Nam Sâu
Thẳm” biến thành “Cánh Ðồng Bất Tận”, chiều chiều đĩ lượn như muỗi rừng
U Minh,
ấy là vì một nửa bộ óc của chúng, dù bảnh cỡ Nobel Toán, bị liệt.
Cũng thế, là
ở đám tinh anh hải ngoại, thí dụ, bộ lạc Cờ Lăng. Không những không
đau, chúng còn
mừng: nếu không có cuộc chiến tàn khốc, làm sao chúng… sống sót, trở
thành chứng
nhân của lịch sử, tố cáo Cái Ác của VC, làm sao có được cơ ngơi như
hiện nay ở
Mẽo: Chúng ông tới đây rồi là chúng ông không đi đâu nữa như đám này đã
từng
tuyên bố.
Cái sự thành
công của băng đảng Cờ Lăng, và cái sự làm chủ cả nước Mít của băng đảng
Mafia Ðỏ,
có cái gì đó làm chúng ta hoảng sợ, và, ghê tởm.
Thứ nhất, nó
chứng minh, cuộc chiến Mít nuốt sạch những ai thực sự đám dương đầu với
nó, thực
sự mong muốn, đó là cuộc chiến sau cùng của Mít, một khi đất nước qui
về một mối,
thì tha hồ mà xây cái nhà Mít.
Thứ nữa, nó
chứng minh, đây là cuộc chiến của chỉ những đám Bắc Kít với nhau, nào
là Bắc
Kít / PXA, vô Nam từ hổi nảo hồi nào, do mảnh đất quê hương Hải Dương
của cha
ông của ông ta đói quá, không nuôi nổi 1 cộng đồng cứ ăn rồi lại đẻ mãi
ra [điều
này không phải Gấu, mà là cái tay viết về PXA, trên tờ The New Yorker
phán], rồi
Bắc Kít/ Tô Hoài, một kẻ đã từng tới thiên đàng Miền Nam, trở lại đất
Bắc, và mỗi
lần nhớ tới là thèm… , rồi tới đám Bắc Kít di cư, trong có tên “Người
của chúng
ta ở Paris”, có Gấu, ông số 1, và ông số 2. Và tất nhiên, đám Bắc Kít
sinh Bắc
tử Nam, đám Bắc Kít sống sót sau cùng theo xe tăng vô Dinh Ðộc Lập.
Cả 1 lũ Bắc
Kít đánh nhau loạn xà ngầu, gây họa cho cả thế giới.
Khủng khiếp
thật!
Ðó là hai mặt,
phải và trái, của cuộc chiến Mít.
Thủ Thiêm
Vợ Hổ
Luminous
Fables in a Land of Loss
By
MICHIKO KAKUTANI
Published:
March 10, 2011
Những câu
chuyện thần tiên chói lọi của một Miền Ðất Mất
Cuốn tiểu
thuyết thần sầu đầu tay của em nhí, Téa Obreht, Vợ Hổ,
là một tác phẩm được viết với một tham vọng, và một táo bạo
thật là lớn lao, vẽ ra một bức tranh không thể nào tẩy bỏ đi được, về
cuộc sống
tại một xứ sở thuộc vùng Balkan không được đặt tên, một xứ sở vẫn mắc
míu vào
cái di sản của cuộc nội chiến. Cùng lúc, nó mở ra cái gọi là thật tinh
tế, thật
yếu tính, của nghệ thuật kể chuyện, và vai trò của nó, trong cuộc sống
của con
người, đặc biệt là khi họ bị cuộc chiến và những xáo trộn xã hội biến
thành quỉ,
cả một lũ, và cần, một cách nào đó, móc nối những sự kiện chẳng làm sao
móc nối
để mà hiểu chuyện gì đang xẩy ra quanh họ.
Cô Obreht,
sinh ra tại xứ xưa kia có tên là Yugoslavia, và lạ thường thay, viết,
thật bảnh,
thật hoạt, và còn trình ra một khả năng khác người, di chuyển thoải
mái, liền lạc
giữa cõi chai sạn của đời thực và thế giới của những câu chuyện cổ tích
hoang
đường của 1 thời hoang sơ khởi thuỷ của loài người. Truyện của cô không
đậm chất
hiện thực huyền ảo, theo truyền thống Gabriel García Márquez hay Günter
Grass,
nhưng mà là một cuộc khai triển rất đỗi mềm dẻo sự thành lập ám dụ và
huyền thoại,
và những đường hướng, qua đó những chuyện kể (dù
dị đoan, niềm tin văn hóa, hay giai thoại siêu
nhiên) làm lộ ra – và
phản chiếu lại - căn cước cá nhân, hay cộng đồng: những giấc mơ, nỗi
sợ, thiện
cảm và thù hận.
Ở khung của
câu chuyện, một vị bác sĩ trẻ tên là Natalia Stefanovic làm một chuyến
đi với một
người bạn, tới một thành phố nhỏ quá biên giới để đem thuốc tới 1 trại
mồ côi.
Bị bác sĩ thì bị luẩn quẩn với những hồi ức về người ông thân thương
của cô, một
y sĩ nổi tiếng, vừa mới chết, trong một chuyến đi bí ẩn tới một làng
khác chỉ
cách nơi cô tới chừng một giờ chạy xe. Quyết định trở thành bác sĩ của
cô, một
phần là do tình yêu dành cho người ông, một phần là vì mặc cảm của cô
về cuộc
chiến - bằng ao ước cứu trợ, hàn gắn những tổn hại, thấy mình có lỗi
khi qua cuộc
chiến gần như chẳng có tí sẹo, trong thành phố có tên là “the City”, và
quyết
tâm cùng chia sẻ với bạn bè, ‘đánh bại những phóng chiếu của những tờ
nhật báo,
khi chúng cho rằng, thế hệ hậu chiến của ‘the City” thì coi như là vứt
đi, vô
phương cứu chữa”.
*
Ui chao,
không hiểu băng đảng Cờ Lăng có tí mặc cảm nào không, khi chúng “sống
sót cuộc
chiến”, lành lặn, cả tâm hồn lẫn thể xác, đến sợi lông chim cũng không
bị sứt,
và "sống sót lưu vong" nơi nước người, với cả một cơ ngơi đồ sộ, và
hàng
ngày nhớ quê nhà, bằng 1 bài bình loạn chính trẹo, chửi VC, và nếu cần,
thì mượn
đỡ 1 câu thơ của ông số 1, cũng là 1 cách tưởng niệm, hẳn thế.
Paul
Auster
The Gift
Greene:
Reflections
UNDER EASTERN EYES
Có một cái
gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết
không chịu
bỏ nước ra đi.
Khi dịch câu
trên, Gấu nghĩ đến Nguyễn Huy Thiệp, Văn Cao.
Nhất là NHT,
và câu chuyện do anh kể, “tớ” đã từng đi vượt biên, nửa đường bỏ về, bị
tay dẫn
đường “xém” làm thịt!
Nhớ luôn cả
cái tay phỏng vấn Gấu, và câu mở đầu cuộc phỏng vấn, “off-record”, lần
Gầu trở
lại đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách:
Tôi cũng đi
vượt biên, mấy lần, mà không thoát.
Nhưng, nhớ,
nhất, là, Quê Người của Tô
Hoài.
Dưới con mắt
Đông phương
Có
một nghịch lý về thiên tài văn chương Nga.
Từ Pushkin đến Pasternak, những sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga,
thuộc về thế
giới trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt của những
vần thơ trữ
tình, những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy
một điều,
không có chúng là không xong. Chúng ta không thể sẵn sàng bầy ra cái
bảng mục lục
những cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại nói chung, nếu không có
chúng ở
trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử, chỉ có văn học cổ
Hy Lạp là
có thể so đo được với văn học Nga, nếu nói về tính phổ quát. Tuy nhiên,
với một
độc giả không phải người Nga, khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky,
Mandelstam, họ
vẫn luôn luôn là một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác
mình đang
nghe trộm, đọc lén một bản văn, một cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng
thật dễ hiểu,
sức truyền đạt cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả, phê
bình Tây
phương, cho dù ở những tay sắc sảo nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu
đúng vấn đề.
Có một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và
nhất quyết
không chịu bỏ nước ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới
ngôn ngữ,
hay chính xác hơn, đến những gam, những mảng quai quái, hoang dại của
ngôn ngữ,
từ tiếng địa phương, của giới quê mùa cho tới thứ tiếng nói của giới
văn học
cao và Âu Châu hóa được những nhà văn Nga thi thố. Những trở ngại mà
một
Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản
dịch tròn
trịa, giống như một con nhím xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này
có thể xẩy
ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều ngôn ngữ, và, nói cho
cùng, có
một mức độ, tới đó, những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua
(Hãy tưởng
tượng "quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha và Con, hay Chiến
tranh
và Hòa bình, hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị em). Và nếu có người
vẫn nghĩ
rằng, không đúng như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào một bản
văn thì
đã làm méo mó, sai lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì không thể
chỉ là
do khoảng cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga
được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống
dân đầu
tiên đưa ra nhận xét có tính chuyện thường ngày ở huyện này. Lấy đơn vị
là một
năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [là phai rồi thương nhớ], mọi thứ “sĩ”
của
Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết,
với con
mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tác của
Nga hiện
hữu “mặc dù” chế độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài kiểm duyệt, nhìn
chỗ nào
cũng thấy có cặp mắt của…cớm, vậy mà Nga vưỡn có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm
như thế, nó chửi bố chế độ, nó mời gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực
tiếp, hoặc
với một sự mặc cả hàm hồ nào đó, với chính quyền, hoặc Chuyên Chính Nhà
Thờ, hoặc
Mác Xít Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà
Nga có 1 thật câu thật hách [thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít], nhà
văn nhớn
là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ, đổi chiều”, “the alternative state”.
Những
cuốn sách của người đó, là một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc
nhất - của
sự chống đối chính trị.
Trong trò
chơi mèo chuột khó hiểu như thế đó, và nó gần như không thay đổi, kể từ
thế kỷ
18, Viện Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và có khi còn cho phát hành, quảng
bá những
tác phẩm nghệ thuật hiển nhiên mang tính nổi loạn, phản động.
Với dòng đời
trôi qua, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những tác phẩm như thế đó -
của
Pushkin, Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng là những cái van
an toàn
chuyển vào miền tưởng tượng một số những đòi hỏi thay đổi, đổi mới
chính trị,
mà thực tại không cho phép. Cuộc truy lùng, săn đuổi những nhà văn-từng
người,
tống vào tù, cấm đoán sách của họ, là 1 phần của sự mà cả giữa đôi bên.
Một kẻ ở bên
ngoài, không phải Nga, chỉ có thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào nỗi
đau khổ của
Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù của Dostoevsky ở Siberia,
cuộc chiến
đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt của Tolstoi, hay nhìn vào bảng mục
lục dài
những kẻ bị sát hại, mất tích, nó là cái biên nhận về sự thành tựu văn
học Nga
thế kỷ 20, và anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà văn Nga xục xạo,
dính líu
vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào nhân dân Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh ta
dí mũi
vào đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn chán, và dễ dãi của đồng nghiệp Tây
phương.
Thường xuyên, trọn ý thức Nga được truyền vào ngòi viết của anh ta. Và
để đổi lại,
là mạng sống của anh ta, nói cách khác, anh ta trải đời mình, len lỏi
đời mình,
suốt địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực sự cũng không nói
trọn sự
thực, nó vẫn giấu đi ở trong chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực
giác, nó
thì thật là hiển nhiên giữa những đấng nghệ sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài
đừng
hòng nắm bắt được.
Lịch sử Nga
là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được,
hay, chấp
nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ -
nuôi dưỡng
những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất
vô nhị,
hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một
thành
ngữ của “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một
xứ sở
thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1
xứ nào
khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người
trở lại với
trần gian.
G. Steiner
Bài viết này
thật là thần sầu.
Một cách nào
đó, Gấu bị lừa, vì một “thiên sứ” dởm, bởi vậy, khi Chợ Cá vừa xuất
hiện là Anh
Cu Gấu bèn cắp rổ theo hầu SCN liền tù tì.
Gấu đọc NHT
là cũng theo dòng “chuyện tình không suy tư” như vậy: “chấp nhận” Tướng
Về Hưu,
"thông cảm" với ông ta, sau khi góp phần xây dựng xong xuôi Ðịa Ngục
Ðỏ của xứ Mít, bèn về hưu, sống nhờ đàn heo, đuợc vỗ béo bằng những
thai nhi của
cô con dâu Bắc Kít...
|
|