Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 





Thơ mỗi ngày

*

Two Poems by Adam Zagajewski

SELF-PORTRAIT IN A LITTLE MUSEUM

A swarthy Christ watched me
from small trecento paintings;
I didn't understand his gaze,
but I wanted to open up before it.
A rapt, darked-haired Christ,
unswervingly attentive,
bounded by Byzantium's gold frame,
watched me while my thoughts
were elsewhere-
I followed, with growing vexation,
an elderly couple, French:
in the quiet museum, nearly empty,
he read out loud, too loud,
from the appropriate page in the guidebook.

Chân dung tự họa trong một viện bảo tàng nhỏ

Một đấng Ky Tô da ngăm ngăm đen ngắm tôi,
từ những bức họa trencento nhỏ;
Tuy không hiểu cái nhìn của Người
Nhưng tôi muốn trải lòng ra trước cái nhìn đó

Đấng Ky Tô tóc đen, trong cái khung Byzantium bằng vàng,
chăm chú theo dõi tôi, còn tôi thì thả hồn đi đâu đâu –

Tôi nhìn theo một cặp vợ chồng già, người Pháp,
Và thật là bực:
Trong viện bảo tàng im ắng, gần như chẳng có ai,
Ông chồng đọc lớn, quá lớn,
một trang vừa ý, trong cuốn cẩm nang chỉ dẫn.

NOW THAT YOU'VE LOST YOUR MEMORY

To my Father

Now that you've lost your memory
and can only smile, defenseless,
I want to help-it was you,
after all, who opened my imagination like a demiurge.
I remember our excursions, woolly clouds
swimming low over a damp mountain forest
(you knew every path in those woods), and
the summer day when we scaled the heights
of a lighthouse above the Baltic
and we watched the endless rippling of the sea,
its white stitches frayed like basted seams.
I won't forget that moment, I think you were
moved too-we seemed to see the whole world,
boundless, calmly breathing, blue and perfect,
at once distinct and hazy, near and distant;
we felt the planet's roundness, we heard the gulls,
who played at aimless gliding
through warm and chilly currents of the air.
I can't help you, I have only one memory.

Bây giờ, một khi mà cha đã mất trí nhớ

Gửi cha tôi

Bây giờ, cha đã mất trí nhớ
và đành mỉm cười, vô phương chống đỡ
Con muốn giúp - thì chẳng phải đúng là cha,
nói cho cùng, là người, như một đấng quỉ thần, đã mở cửa trí tưởng tượng của con.
Con nhớ những chuyến đi xa của hai cha con, những đám mây mềm như tơ,
bơi bên dưới một cái đập ở vùng rừng núi
(Cha biết từng bước đi, trong những khu rừng đó), và
những ngày hè, khi chúng ta đo chiều cao của ngọn hải đăng  vượt lên khỏi biển Baltic
và hai bố con ngắm đến mệt nghỉ, biển cuộn sóng, nhè nhẹ, nhè nhẹ;
những đợt sóng trắng của nó bện vào nhau như những sợi libe.
Con không thể nào quên khoảnh khắc đó,
con nghĩ bố cũng rất ư là xúc động -
có vẻ như cả hai cha con ta thì được nhìn thấy trọn thế giới,
không bờ bến, thở nhẹ nhàng, xanh và tuyệt hảo,
liền lập tức, bất thình lình, phân biệt rạch ròi, mù mù sương khói, gần gần gụi gụi, và ngàn trùng xa cách
Hai bố con mình cảm thấy cái tròn tròn của trái đất, nghe những con mòng biển
nô đùa, trượt bâng quơ, qua những đợt không khí âm ấm, lành lạnh.
Con không thể giúp bố, "xo ghì",
Con chỉ có 1 hồi nhớ.

(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

NYRB May 26, 2011

*

Note: Bài này, cái tít ở trang bìa, báo giấy, thú hơn nhiều: Bạn và người yêu của Joseph Brodsky.
Câu mở ra bài viết cũng thú:

Vào mùa đông năm 1963, ở Leningrad, ở cái xứ còn có tên là Liên Bang Xô Viết, nhà thơ trẻ Dmitry Bobyshev chôm cô bạn gái của bạn mình, cũng nhà thơ trẻ, Joseph Brodsky.
Đếch ra cái chó gì cả, nhỉ.
Hai đấng thi sĩ trẻ lại rất thân.

OUT WALKING

Sometimes out walking, on a country road
or in a quiet green forest,
you hear scraps of voices, perhaps they're calling you,
you don't want to believe them, you walk faster,
but they catch up quickly,
like tame animals.

You don't want to believe them, then later
on a busy city street
you're sorry you didn't listen
and you try to summon up
the syllables, the sounds, and the intervals between them.

But it's too late now
and you'll never know
who was singing, which song,
and where it was drawing you.

Adam Zagajewski

 
Ngoài trời tản bộ

Ðôi khi tản bộ ngoài trời, trên con đường quê
Hay trong một khu rừng xanh êm ả
Bạn nghe những mẩu tiếng nói, chúng đang gọi bạn,
Bạn không muốn nghe, và bước nhanh
Nhưng chúng mau lẹ bắt kịp
Như những con vật đã được thuần hóa

Bạn không muốn nghe chúng, và rồi sau đó
Trên con phố đông người, bận rộn
Bạn cảm thấy buồn rầu vì đã không chịu lắng nghe
Và bạn cố chắp vá những âm thanh, và những khúc ngưng giữa chúng

Nhưng quá trễ rồi
Và bạn chẳng bao giờ biết
Người nào hát, bài hát gì
Và nó đưa bạn đi đâu



&

Pour saluer Semprun

La première est de Maurice Blanchot : « Qui veut se souvenir doit se confier à l’oubli, à ce risque qu’est l’oubli absolu et à ce beau hasard que devient alors le souvenir ».

[Kẻ nào muốn nhớ là phải “bán mình” cho lãng quên, cho rủi ro chẳng nhớ 1 tí chó gì về em hết, và cho nỗi tình cờ tuyệt vời, chính cái này sẽ trở thành kỷ niệm để đời, "không nàm sao quên lổi"]

La seconde est d’André Malraux : « … je cherche la région cruciale de l’âme où le Mal absolu s’oppose à la fraternité ».

Người nào mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm được hình thành.

Người ta biết rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành ký ức, để sau này khỏi quên đó mà .

K 

I seek the crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.

-Andre Malraux 

Tôi tìm vùng chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ 

Có Ðức Ông “Don” Quichotte trong Jorge Semprun, vừa mới mất, 87 tuổi. Nhưng 1 Don được những cơn hỗn mang của thế kỷ 20 đẽo gọt, tạo dáng. Ông là đứa con trai của chiến tranh. Từ đầu đến chân, ngửi chỗ nào cũng có mùi chiến tranh. Và thế là ông không làm sao ra khỏi. Như thể, lúc nào ông cũng cà khịa với 1 kẻ nào đó, hay 1 điều gì đó. Ba cuộc chiến quần ông nát bấy người, chúng biến thành gia tài của… riêng ông: cuộc chiến Tây Ban Nha, vũ trụ trại tập trung Nazi, và hoạt động bí mật dưới cờ VC quốc tế cho tới năm 1964.


*

Súng của Tây và Tây của Súng

*

Tông Tông Chirac hôn tay Rice


*

A Country Without Libraries


*

Orange prize 2011 goes to Téa Obreht

Surprise victory for The Tiger's Wife makes Obreht the award's youngest ever winner

Orange Prize về tay tác giả trẻ nhất trong lịch sử 16 năm của giải này với cuốn đầu tay Sư Tử Hà Ðông, Tiger's Wife [Vợ Hổ].

TV là trang Mít đầu tiên giới thiệu, không vì tác giả trẻ, tác phẩm hay, mà là vì bài điểm sách của Charles Simic, với câu phán thật quái dị, nhất là cho 1 tác phẩm đầu tay. (1)

GNV tính nhân bài điểm sách của ông, để nêu ra 1 đề tài: Làm thế nào biết 1 tác phẩm đầu tay, bảnh, tác giả sẽ đi xa, và liệu, chính khi bạn phán “đúng” về tác giả, khi họ mới ló ra, ở cái tuổi đời và tuổi viết còn "đẹp 1 cách vụng dại", là 1 cách, bạn giết họ?

Theo truyền thuyết của Tẫu, một thiên tài trẻ măng, cỡ NTHL, đi thi Trạng Nguyên - gửi bài cho Chợ Cá, thí dụ [SCN rất khó trong chọn bài, chỉ đọc hai ba dòng đầu, thấy không ngửi được là quăng thùng rác] - bèn bị đánh rớt: Chỉ có cách đó mới làm cho thiên tài trở thành thiên tài, và tránh cho thiên tài chết non: Bị ông Trời ghen tài!

Nó trẻ quá mà phán nó là thiên tài, là giết nó!

Hình như Lều Chõng của Ngô Tất Tố có viết về đề tài này: Bài viết thì dư sức Trạng Nguyên, nhưng tuổi còn nhỏ quá, cho nó đậu là giết nó.

Thầy Cuốc cũng lâm trường hợp này: Bị [hay “được”] MT khen, “Cuốc” đó hả, trẻ quá nhỉ! [Gấu nhớ là chính Thầy Cuốc viết ra, đừng nghĩ Gấu phịa!]

Trường hợp VP phán về Trần Thị NgH: Khen khủng quá, thế là em bị 'thui', bị 'chột', hết viết được nữa!

Hay trường hợp của Gấu, với tác phẩm đầu tay, truyện ngắn Những Con Dã Tràng. TTT phán, mi sẽ đi xa hơn DNM!
Chính câu phán của ông làm Gấu ngưng viết, lo học, chỉ đến khi xơi hai trái mìn của… DH, hay của bạn của ông, không chết, lúc đó mới dám mang bản thảo Những Ngày Ở Sài Gòn ra sửa, và gửi đăng Nghệ Thuật và trở thành Gấu Nhà Văn!

(1)

Sư Tử Hà Đông

Charles Simic đọc Vợ Hổ, Tiger's Wife:

The Weird Beauty of the Well-Told Tale

Cái đẹp thật là kỳ cục của một câu chuyện được kể thật là ngon lành

Bữa trước Blogger HH có vẻ ngạc nhiên, vì cái sự ghét đọc những bài điểm sách của GNV. Sự thực, Gấu chỉ ghét cái kiểu đọc sách của Mít ta, ở cả hai phía, người điểm sách, và độc giả, thường chỉ cần đọc bài điểm, là kể như biết về cuốn sách, tha hồ vung vít, nếu có ai hỏi tới, hoặc cũng chẳng cần có ai hỏi tới, thì cũng giơ đôi giầy mới lên khoe, tớ mới tậu nè. Ngưồi điểm sách Mít thường là không học qua cái nghề này, viết tuỳ hứng, hoặc tuỳ tác giả có phải phe ta hay không. Cả 1 dòng văn học Miền Trung, trong thời kỳ chiến tranh, ở một số tác giả làng nhàng, được in ấn lại, "chỉ dành cho những độc giả mê đọc sách, những đấng mắt xanh", và được những nhà phê bình phe ta đưa lên tận mây xanh!

Mớ sách quí đó, phải được đọc đúng, hiểu đúng, về chúng, về những tác giả viết ra chúng, không thể viết “khơi khơi” như thế được.
Hình như HH có 1 bài viết về Lê Văn Thiện, được lắm, theo cái nghĩa, lần đầu đọc nó, và ở cách xa cuộc chiến...
Để check lại, rồi viết tiếp. NQT

Chúng ta chưa có thói quen đọc những bài điểm sách đúng đắn, nghiêm túc, về một tác giả.

G rất mê đọc sách, để kiếm sách đọc!

Nhờ những bài điểm sách trên Partisan Review, thời mới ra được hải ngoại mà G khám phá ra cái mỏ Đông Âu, và biết ơn tờ báo, đúng cái kiểu biết ơn mà Âu châu đang bày tỏ, trước một tác giả như Kundera, thí dụ, qua bài viết trên blog của tay PA [không phải Phan An, hay Phan Anh, nhe!]

Ce que l’Europe centrale doit à Kundera
[Ðiều Trung Âu hàm ơn Kundera]

(1) Bài trên tờ Books, về K, đọc thú hơn. NQT

Bài viết của tay này chôm hình từ bài viết của Gấu, chôm từ một số báo Granta, có bài viết Cuộc Trở Về Vĩ Đại, của K.
Chàng về Hà Nội [Prague], khóc ròng khi thấy dấu vết của tụi thực dân trên thân thể 1 em Bắc Kít, qua biểu tượng của nó là... Hà Lội!
Thằng khốn kiếp để lại hai cú thật là nặng nề trên thân thể em!

Súng lớn mà!

Dzui thôi mà!

The Weird Beauty of the Well-Told Tale

Vợ Hổ, của một cô gái Serbian, 25 tuổi, tới Mẽo năm 1997 khi mới 12, đã được khen ngợi - thật đúng theo tôi – như là một cuốn tiểu thuyết đầu tay thật bảnh. Téa Obreht là một nhà văn có tài một cách khác thường, rất ư là diệu nghệ trong phối hợp nhiều kiểu kể chuyện khác nhau - từ miêu tả có tính quan sát, khách quan những sự kiện cho tới những câu chuyện trộn cái thần tiên, kỳ ảo với cái thực – theo 1 đường hướng khiến tôi [Simic] nhớ đến những cuốn tiểu thuyết của Mikhail Bulgakov, Gabriel García Márquez, và của Milorad Pavić, người Serbian, tác giả Dictionary of the Khazars.
Simic

Bettany Hughes, một giám khảo, phán, cuốn tiểu thuyết vượt quá cả ‘tiêu chí’ [chữ này của VC, Gấu mượn đỡ] của giải, vốn đòi hỏi, phải uyên nguyên, dễ bò vô bò ra, và tuyệt vời. “Một cuốn sách can đảm”, bà phán. “Chúng ta tìm một cuốn sách giống như 1 thứ luyện kim, làm trò huyền thuật, 1 thứ lò cừ, nó thay đổi chúng ta, như là độc giả, và thay đổi cách chúng ta nhìn thế giới, và Sư Tử Hà Ðông làm được điều này. Ðúng là 1 cuốn sách đặc biệt”.



Thủ Thiêm


 Paul Auster

From Cakes to Stones

Pages on Kafka



Zinovy Zinik

THE Q&A: TIMOTHY SNYDER, AUTHOR

Author of the controversial book "Bloodlands: Europe between Hitler and Stalin"



The Gift

Vào mùa Thu năm 1963 ở thành phố Leningrad của xứ sở khi đó còn gọi là Liên Bang Xô Viết, nhà thơ trẻ Dmitry Bobyshev chôm cô bạn gái của, cũng nhà thơ trẻ, Joseph Brodsky. Chẳng ra cái gì cả. Hai đấng thi sĩ trẻ là bạn thân. Họ thường xuất hiện, theo vần abc, ở những buổi đọc thơ vòng vòng Leningard. Bobyshev thì 27, và vừa thôi vợ. Brodsky, 23, lúc có việc lúc không. Cùng hai nhà thơ đang lên khác, họ họp thành một nhóm được gọi là “bản đồng ca thần kỳ”, bởi bạn bè, và vị nữ thần thi ca đỡ đầu, là Anna Akhmatova, người tin rằng họ đại diện cho sự trẻ hóa truyền thống thơ Nga, sau những năm tháng đen tối dưới thời Stalin. Khi được hỏi ai trong số những nhà thơ trẻ được bà mến mộ nhất, Akhmatova chỉ nêu tên Bobyshev và Brodsky.

Thế hệ trẻ Xô Viết cảm nhận thập niên 1960 sâu xa hơn nhiều, so với tuổi trẻ Mẽo hay Tây cùng thời với họ, bởi vì nếu Suy thoái và sự Chiếm đóng bởi ngoại bang thì tồi, chủ nghĩa Stalin tồi tệ hơn nhiều. Sau khi Stalin chết Liên Xô bắt đầu nhoài về thế giới. Lệnh cấm nhạc Jazz được gỡ bỏ. Ernest Hemingway được xb.Viện Bảo tàng Pushkin ở Moscow chủ trì 1 cuộc triển lãm tranh Picasso. Năm 1959, Moscow mở hội chợ bày bán những thực phẩm Mẽo, và cha tôi, một thành viên của thế hệ này, đã nếm Pepsi lần đầu tiên trong đời.

Chim và bướm, cái gọi là libido, thì đều được giải phóng. Nhưng đi đâu bây giờ?  Ðám trẻ sống với bố mẹ, và bố mẹ, tới lượt họ, sống với ông bà, trong những căn phòng chung. “Chúng tôi không hề có cái gọi là phòng riêng để mà lùa bướm vô để mà làm thịt, bướm thì cũng thế”, Brodsky viết như vậy, khi đã lưu vong xứ Mẽo. Ông có nửa căn phòng, chia cách với căn phòng của bố mẹ bằng những cuốn sách, và vài tấm màn. “Cuộc tình của chúng tôi thì chỉ là cùng đi tản bộ, và nói, và nói. Nếu tính ra, có thể chúng tôi đã từng đi bộ lên tới mặt trăng, rồi trở về, đứa nào về nhà đứa nấy”. Người đàn bà mà Brodsky đi bộ và nói chuyện dòng dã hai năm, người đàn bà làm tan vỡ bản đồng ca thần kỳ, là Marina Basmanova, một nữ họa sĩ trẻ. Người đương thời mô tả nàng, im lặng một cách tuyệt vời, đẹp một cách tuyệt vời. Brodsky làm thơ tình, thứ uy mãnh nhất, hung hãn nhất, cho nàng, bằng tiếng Nga, tất nhiên: “I was only that which / you touched with your palm,” he wrote, “over which, in the deaf, raven-black / night, you bent your head. . . . / I was practically blind. / You, appearing, then hiding, / taught me to see.”

Ðọc đoạn trên, là Gấu bèn nghĩ ngay đến Gấu. Gấu muờng tượng ra bướm, lần đầu tiên trong đời, là thời gian về Hà Nội học, 1951-2, cỡ đó, được bà cô nuôi, ở cái villa số 60 Nguyễn Du, nhìn ra hồ Halais, của Sở Hoả Xa Ðông Dương, dành cho hai ông Tây kỹ sư, một trẻ, một già. Ông Trẻ chức cao hơn ông già, chồng bà cô của Gấu. Thành ra lương lậu khá hơn, nuôi vợ chồng 1 anh bồi, và 1 ông già làm bếp. Ông Tây già, bà vợ Việt lo hết.
Ông bồi già vào những ngày cuối tuần, chủ đi chơi xa, bèn dẫn gái về cái hành lang tối thui ở phía trước villa, hành sự. Chuyện này Gấu kể rồi, và nó đúng là 1 cú "prelude" mở ra đủ các thứ bướm sau này, khi đã vô nước Sài Gòn, năm 1954.

Bởi vì có nhìn thấy gì đâu!

Gấu cùng thằng em của anh bồi nằm bên trong căn phòng, cách hành lang 1 bức tường dầy, chẳng thấy gì hết, chỉ nghe tiếng hổn hển của ông bếp già. Rình nghe đâu được vài lần thì không hiểu sao bà cô biết, bắt tại trận: Trong căn phòng tối thui làm sao mà bà thấy được cái tai của Gấu, xách lên, và vả cho mấy cái xưng cả má, rồi chẳng nói gì hết, bỏ đi.



*

The Outsider: On the Death of
Adlai Stevenson
after a Press Conference in London on the Vietnam War

Tiredness can resemble dishonesty,
and when he spoke to us,
it was only a matter of minutes
before the tired heart stopped.

So we were amazed by the words he used –
'We shall always fight against an outsider
imposing his will, ' he said.
'Who is the outsider?' we demanded,
but he gave us no reply.
For tiredness can resemble dishonesty,
and you must be very tired when you die.

The outsider was waiting,
on the Embassy steps, in Grosvenor Square –
the outsider who is always finally there,
even though you begin
with an advantage in tanks & guns
and a 7th Day Adventist fleet;
the defences fall & the outsider steps within
and death resembles defeat.

July 1965
Graham Greene: Reflections

'Who is the outsider?' we demanded,
The ousitder, Kẻ Lạ, Người Dưng…là thằng cha nào vậy?
Yankee Mũi Lõ, hay Mũi Tẹt?

Kẻ bên ngoài: Về cái chết của
Adlai Stevenson
theo cuộc họp báo ở Luân Ðôn về Chiến Tranh Việt Nam

Mệt mỏi có thể giống bất lương,
và khi anh ta nói với chúng ta
thì chỉ còn vài phút
là trái tim mệt mỏi ngừng đập.

Bởi thế chúng ta ngỡ ngàng vì những từ anh dùng -
“Chúng ta luôn chiến đấu chống ngoại bang
khi kẻ này muốn áp đặt ý muốn của nó lên chúng ta”, anh nói.
“Ngoại bang là thằng khốn nào vậy” chúng ta hỏi
Nhưng anh không trả lời
bởi vì mệt mỏi có thể giống không thành thực
và bạn phải mệt mỏi lắm khi bạn chết.

Tên ngoại bang thì đang đợi
ở bực thềm Tòa Ðại Sứ, ở Công Trường Grosvernor -
kẻ ngoại bang sau cùng luôn luôn ở đó,
ngay cả bạn bắt đầu với lợi thế xe tăng & súng đạn
và hạm đội “7th Day Adventist fleet”
công cuộc phòng thủ thất bại, kẻ ngoại bang bước vô
và cái chết giống như thua trận.

Gặp gỡ ở Ðiện Cẩm Linh

Thưa Ngài TBT,
Thú thực, tôi tới diễn đàn này có tí bi quan. Tôi thuộc về ‘khu’ số 2 – Văn hóa.

Nói, lèm bèm, bẻm mép… thì thường được coi như là 1 sự tẩu thoát, chạy trốn hành động – thay vì là một màn mở đầu đưa tới hành động – và những từ trừu tượng lớn lao thì thường ùa đi thật xa, và thật nhanh. Tôi cảm thấy không thể, thực sự là vậy, tóm tắt một vài tiểu luận dài, tuyệt, được đọc ở trong “khu” của tôi. Làm như thế là bất công đối với tác giả và trí nhớ của tôi, như là 1 người già, thì yếu xìu.
Ðiều mà tôi nhận ra, thì cũng chỉ là cá nhân, riêng lẻ, là, tôi thường bị tấn công vài lần, bởi đám ký giả Tây Phương, mặc dù tôi cố tránh họ: “Tại sao mi ở đây?

Ấy là vì, trên trăm năm nay vẫn có cái sự hồ nghi - thù địch, phải nói như thế - giữa “nhà Chúa Ky tô La mã”  và chủ nghĩa CS. Ðây không phải chủ nghĩa Mác xít thứ thiệt, bởi vì Marx đã kết án vua Henry VIII, vì đã đóng cửa những tu viện. Nhưng sự hồ nghi thì vẫn còn. Vào khoảng chừng 15 năm vừa qua, chừng đó, tôi thường trải qua khá nhiều thời gian của đời mình ở vùng Mỹ châu La tinh, và ở đó, tôi cảm thấy hạnh phúc, khi nói rằng, sự hồ nghi này thì đã chết, và được chôn vùi, trừ một dúm tín hữu Ky Tô, cá nhân từng người, và gần như đều già cằn như tôi. Nó không còn hiện hữu. Chúng ta đang chiến đấu – Ky tô La mã đang chiến đấu – cùng với những người Cộng sản, và làm việc với những người Cộng sản. Chúng ta cùng chiến đấu chống lại những Ðội Hành Quyết ở El Salvador. Chúng ta cùng chiến đấu chống lại bọn Contras ở Nicaragua. Chúng ta cùng chiến đấu chống lại Tướng Pinochet ở Chile.

Không có sự phân chia về tư tưởng giữa tín hữu Ky tô – Ky-tô La mã – và những người CS. Ở nơi Chính quyền Sandinista, bạn tôi Tomas Borge, Bộ trưởng Nội vụ Mác xít, làm việc thật thân mật, bạn bè sát cánh bên nhau, với Ðức Hồng Y, Bộ trưởng Văn hóa, Ðức Hồng Y Jesuit, trông coi về sức khỏe, y tế và giáo dục, với Cha D’Escoto, Bộ trưởng Ngoại giao. Chẳng còn rào cản giữa Ky tô La mã và chủ nghĩa CS.

Giấc mơ của tôi, tôi muốn nói ra ở đây, nhưng lại sợ không nằm trong ‘khu’ Văn hóa, đó là, sự cùng-hợp tác giữa Ky tô La mã và chủ nghĩa CS sẽ trải dài trải rộng mãi ra, tới tận Âu Châu, Tây và Ðông. Và tôi còn dám mơ như thế này nữa cơ, thưa Ngài Tổng Bí Thư, đó là, sẽ có một ngày, trước khi tôi chết, một vị Ðại sứ của Liên Xô, tới giảng đạo CS cho Vatican.

Bài diễn thuyết này được đọc tại Moscow ngày 16 Tháng Hai, 1987.

Graham Greene: Reflections


Trăm Năm Văn Chương


*

Il a haussé le Sud profond des Etats-Unis, espace mental autant que géographique, à la dimension d'un mythe. Il en a fait la scène grandiose d'une tragédie où l'homme affronte ses démons et son destin. “Si je n'avais pas existé, quelqu’un d'autre aurait écrit mes œuvres”, affirmait-il en 1956. Ce n'est pas seulement une boutade orgeuilleuse ou roublarde qu'il faut lire ici mais une conviction quant à la fonction et à la nécessité de l'art. A l'ombre de cette certitude, un homme a travaillé, souffert, a accueilli la gloire. Patrick Kéchichian

Ông ta đã đẩy Miền Nam Sâu Thẳm của nước Mẽo, một không gian tâm thần và địa lý, thành một huyền thoại. Ông bầy ra một sàn diễn lớn lao, một bi kịch, nơi con người đương đầu với những con quỉ và định mệnh của nó. “Nếu tôi không viết, thì cũng có người khác viết những tác phẩm của tôi”, ông nói, vào năm 1956. Ở đây, không chỉ là một câu nói đùa kiêu ngạo, hay ranh ma, mà còn là một xác tín, về phần vụ và sự cần thiết của nghệ thuật. Ở nơi cái bóng của niềm tin này, một con người làm việc, đau khổ, và gặt hái vinh quang.

Si je t'oublie, Saigon

Raymond Carver