|
Lên
lớp 5
Happy
Birthday to U
5.7.2010
@
Subway, Toronto,
30.6.2010
Trên
đường xe điện ngầm về nhà, đọc loáng thoáng bài
điểm cuốn sách mới ra lò của Christopher Hitchens, [người đã từng hô
hào đưa
Kissinger ra tòa về tội ác chống lại nhân loại, xem bài Ngài
Henry thân mến], cuốn HITCH-22:
A MEMOIR, trên tờ London Review, 24 June, 2010; ông cho
biết, đã
từng mất trinh vì một cô gái coi ông như là thần tượng, lần cô này mời
ông về
phòng của cô, và thấy trên tường, trên bàn, xó xỉnh nào cũng có hình
của ông,
do cô gái lén chụp khi tò tò theo dõi ông từ phía xa… và kể từ đó, ông
không
làm sao làm điều gì xấu với các thiếu nữ…
Ui chao, sao giống GNV thế cơ chứ!
Cái mối tình mở đầu cho mọi mối tình của Gấu, là với một cô gái cùng
làng, đáng
tuổi chị Gấu, và như Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần rồi, hồi còn nhỏ,
tuy có bà
chị, nhưng Gấu vẫn rắp tâm tìm cho mình một bà chị ‘hơn cả bà chị
ruột’, để
thay thế cho bà mẹ của Gấu, góa chồng quá trẻ, và theo lời trù eỏ của
bà nội
của Gấu, con mẹ mày thể nào cũng bỏ chúng mày!
Một bà chị như thế, sẽ thương Gấu như mẹ, như chị của Gấu, nhưng còn
‘hơn thế
nữa’, như người yêu, như người vợ, nếu nhờ trời, nhờ duyên số mà nên!
Tất cả
những mối tình của Gấu, sở dĩ thánh thiện, ấy
là vì bị ảnh hưởng của mối tình đầu quá thánh thiện!
Kissinger: Kiến trúc sư dởm.
Kissinger
đã có lần an ủi ông thầy đau khổ của mình, là tổng thống bị hạ bệ
Nixon: Lịch sử sẽ nhẹ tay hơn, đối với mi, so với mấy người cùng thời
của mi.
Gậy ông đập lưng ông: Lịch sử xem ra quá nặng tay, đối với Kissinger:
Ông trở
thành một nhân vật phản diện, anti-heros, trong tất cả những gì được
viết ra,
liên quan tới ông, chưa kể nỗ lực của Christopher Hitchens, trong một
chiến
dịch nhằm đưa ông ra tòa án quốc tế, như là một tên tội phạm chiến
tranh.
Trên tờ TLS số đề ngày 15 Tháng Bẩy, có bài điểm cuốn tiểu sử
Kissinger, mới ra
lò, và nhân đó, bàn cuộc chiến Việt Nam.
Tin Văn sẽ giới thiệu trong những kỳ tới.
NKTV
William Trevor's quiet communion
Alcohol, adultery and
other forms of survival in
Trevor's short fiction
Trevor’s
status as, according
to John Banville, “the greatest living writer of short stories”
However,
notwithstanding Banville’s accolade and a pile of other garlands
lying at his feet, there is something defiantly un-great about Trevor.
Pugilistic novelists may reach for Olympia,
for the expansive epic canvas or the great American novel. But short
story
writers are modest miniaturists, quiet, self- effacing observers who
tend to be
the sort who have greatness thrust upon them. Now eighty-two, the
Irish-born
Trevor has lived in Devon
for over forty years. He has written some nineteen novels and novellas
and
hundreds of short stories, as well as screenplays and dramas. He has
acquired
the honors of the respected octogenarian writer and his adopted country
has
held him in sufficiently high esteem to appoint him CBE and KBE.
Trevor is a silent and watchful
figure in the literary world, greatly
respected
and admired but also an outsider, excelling in a form often dismissed
as the
poor sibling of the novel. Popular indifference to the short story is
in a
sense appropriate in that, as a literary genre, it tends to be peopled
by
overlooked, marginalized, mediocre characters. In his brief
introduction to the
Folio Society edition, Trevor quotes Frank O’Connor’s argument that
the
short story is a form typically without heroes where the dominant mood
is
loneliness. The short story is the home of the homeless, the
vulnerable, the
quiet failures and thwarted dreamers. Above all, it strains for the
ineffable.
The necessary economy of the medium turns out to be an apt form for
expressing
situations that resist expression or representation, of portraying
characters
who are inarticulate in one way or another, ignored or derided because
they are
unable to identify themselves or communicate their needs. Often,
from this
stultification or emotional paralysis, a shaft of painful illumination
and
self-awareness emerges. Sometimes the characters have an epiphanic
moment: the
man who realizes that leaving his wife for a shallow affair has
condemned him
to a life of lonely alcoholism (“Access to the Children”), the newly
married
woman who sees that her married life is a sham (“Teresa’s Wedding”). At
other
times it is the reader who fills in those haunting absences in which
the
economy of the form, and its strategic silence, accurately chime with
the
emotional sterilities of the characters.
Nhà văn vĩ đại nhất hiện đang
còn sống của thể loại
truyện ngắn.
Truyện ngắn là thứ truyện không có nhân vật, nơi bao trùm lên nó là sự
cô đơn.
Truyện ngắn là nhà của kẻ không nhà, dễ bị thương tổn, những thất bại
thầm
lặng, những con mộng dở. Trên tất cả, nó ôm riết lấy điều không thể nói
ra
được...
Yiyun Li coi Trevor như sư
phụ của bà. Gấu hồi
mới qua đây cũng mê
Trevor. Truyện ngắn của ông, nhất là những truyện viết về xứ Ái Nhĩ
Lan, làm
nhớ xứ Bắc Kít 'cực'. Có hai nhà văn nhà thơ, hễ Gấu vớ tới, và đọc,
là, và nhớ
xứ Bắc Kít: Brodsky và Trevor!
*
Bạn sẽ nghĩ, thật khó mà yêu
nổi, một nhà
văn làm tan nát trái tim của bạn. Vậy mà tôi mua hết ấn bản này tới ấn
bản khác
của cuốn “Đọc Turgenev”, 1991, đã từng vào danh sách chót Booker Prize,
để làm
quà tặng.
Truyện dài hay truyện ngắn, thì vẫn là một William Trevor, người kể
chuyện
tuyệt vời. “Có lẽ là nhà văn viết truyện ngắn vĩ đại nhất hiện còn sống
trong
tiếng Anh”, Stephen Schiff viết như vậy về ông, trên New Yorker. “
Trevor ‘bọc
nhân vật của mình bằng những lớp thân thương, xen với những lớp hài,
lớp tếu,
về cái sự khùng khùng điên điên của họ’. Nhưng cái tình cảm trội hẳn
lên, ở
trong một câu chuyện của ông, là nuối tiếc. Có thể nó vẫn từ thái độ
tưng tửng,
tếu tếu, hóm hỉnh mà ra, nhưng, ui chao, buồn, tiếc một cơ hội bỏ lỡ,
không thể
nói ra được điều bạn thực sự muốn nói….
Eleanor Wachtel: Writers & Company
Watchel: Là nhà văn Ái nhĩ lan nghĩa là gì? Có thêm
cái "bị" nào kèm theo
cái nón
đó?
Trevor: Không, với tôi. Tôi nghĩ về mình, như là một nhà văn, và tôi
cũng nghĩ
về mình, là một người Ái nhĩ lan. Tôi không nghĩ về mình, như là nhà
văn Ái
nhĩ lan.
Tôi không tin, có thứ đó.
The
Mystery of Innocence
May 25, 1995
by Hilary Mantel
Felicia’s Journey
by William Trevor
Viking, 213 pp., $21.95
William Trevor is the bard of
loss, the
poet of failed lives and ruinous impulses. His usual characters are
small
people, who do not have control over their own lives and who are
defined by the
words that other people use about them: “Strange when you think of it,
how
people are given their names. Strange, how people are allocated a
life.” In
thirteen novels and eight short-story collections he has shown himself
a close
observer, a fine stylist, a master psychologist. In Felicia’s Journey,
which in
the UK
won the prestigious Whitbread Prize, he brings all these qualities into
play,
and adds to them a teasing manipulation of the reader’s sensibilities,
so that
the book has the elegant tensions of a high-class thriller. It is a
departure,
his publishers claim, and certainly it has brought him a new and wider
public;
but the preoccupations of the novel are traceable in his earlier work,
and the
author’s voice is as dry and fastidious as ever.
5
năm TTT ra đi
Ba tập thơ tôi
đang giữ trong tay có tựa hǎ̉n hòi (tức là không có chỉ dấu hợp
chung
với các bài thơ khác của cùng tác giả), điều này chứng tỏ
chúng
đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tác giả, một giai đoạn
mà
tác giả đã phải chịu những hệ lụy nặng nề nhưng lại không nhất
thiết
đen tối cǎn cứ theo những gì được viết ra : tập “Thơ ở đâu xa”
của Thanh
Tâm Tuyền, tập “Hoa xương rồng” củạ Trần Minh-Hải và tập “Ác
mộng” của
Hoàng Hưng. Ở Thanh Tâm Tuyền, đối với những kẻ đã quen biết
thơ ông
hǎ̉n sẽ khám phá ra một khuôn mặt khác không giống khuôn mặt
người thơ
trẻ “nǎng nổ” kiêu kỳ phá phách thời “Tôi không còn cô độc” khi
ông còn
là một trong những nhà thơ tiên phong của nhóm Sáng Tạo. Thanh
Tâm Tuyền
trong thơ tù hiền lành như triết gia, tình cảm tự nhiên (vì
tình cảm
của ông hồi xưa lạ lǎ́m, nó mãnh liệt thật nhưng gần như bất
thường –hay
nói khác đi, vì mãnh liệt nên bất thường !) trầm tĩnh, lǎ́ng
đọng. Tôi
đặc biệt xúc động khi đọc những bài thơ ông viết cho con gái, cô
Th -viết
tǎ́t tên người, trịnh trọng như viết thư tình lần đầu cho người
yêu- nhân
ngày sinh nhật của cô (tôi ao ước viết được như vậy cho con gái
tôi). Nếu
không có những ghi chú ngày tháng cùng nơi chốn, nhiều bài thơ
của
ông đọc lên nghe như thơ Đường, nếu không thể là Đường của
Lý Bạch
được thì cũng Đường Vương Xương-Linh , mà nếu có giọng xã hội
một chút
thì là Đường của Đỗ Phủ , Đỗ Mục. Thí dụ bài Thức sớm có
khác chi với một bài đường thi hay ít ra là một bài đường thi
được
phỏng dịch ? Kẻ ở ngoài song sǎ́t chưa chǎ́c có được những
ý tưởng
trong lành như vậy. Hóa ra tâm tình chàng T3 thời Sáng Tạo còn
khúc
mǎ́c hục hặc với đời hơn là khi nǎ̀m trong trại tù Long Giao !
Nguồn
Thơ
Ở Đâu Xa
Note: Gấu đọc,
lần đầu bài thơ trên, của Beckett, là qua Thơ Ở Đâu Xa của
TTT.
Điều làm Gấu ngạc nhiên, là khúc trên được viết ở trong tù, mà lại viết
cho cô
con gái nhà thơ đọc, mà để nói về 'tôi muốn tình tôi chết'.
Chỉ đến khi
BHD mất đi, thì Gấu
mới ngộ ra, đây là nói về Hà Nội.
Gấu dùng lại 'điển tích' trên, để viết về BHD, và về Hà Nội của Gấu.
BHD gốc Hà
Nội.
*
Thí dụ bài Thức sớm có
khác chi với một bài đường thi hay ít ra là một bài
đường thi được phỏng dịch ?
GNV đã từng viện dẫn,
ý trên, để nói về thơ của... Gấu, trong bài viết Dạ Vũ Ký Bắc
*
Trong bài viết Thời giết người,
Killing
Time, về cuốn 1984 của Orwell, cho tờ Người Nữu Ước,
Steiner
cho biết, cuốn sách còn một cái tít nữa, là The Last Man in Europe,
Người cuối cùng ở Âu Châu, nhưng sau cùng, tác giả và nhà xb, còn là
bạn thân
của Orwell, đã chọn cái tít 1984. Bản thảo cuốn sách được hoàn tất
tháng 11 năm
1948, và Orwell đã giản dị đảo ngược 48 thành 84.
“Nó là một cuốn sách mà tôi không tính đánh bạc với nó trên phạm vi
lớn” [It
isn’t a book that I would gamble on for a big scale], ông viết thư cho
nhà xb
vào Tháng Chạp 1948.
Thành công của cuốn sách vượt quá sự tưởng tượng của mọi người, như
chúng ta
đều biết. Nhưng nhận định của Steiner về nó, mới thật là tuyệt cú mèo:
Bằng
cách gọi như thế, Orwell đã xén thời gian, lấy một mẩu cho riêng ông
(1). Và
như thế, theo Steiner, 1984 bảnh không thua gì K mẫu tự của Kafka: Kafka
nhận xét, vào
năm 1914: "Tôi nhận thấy mẫu tự (letter) K tởm lợm, hầu như phát mửa;
tuy
nhiên tôi viết nó ra, nó phải có một đặc trưng của tôi." Trong bảng mẫu
tự
cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ
một người.
Ui chao, nếu nhìn như vậy, thì
cuốn Bếp
Lửa có lẽ còn một cái tít thật bảnh cho nó là: 1954!
Và như thế câu phán của Quỳnh Dao lại quá quá thần sầu!
(1)
By opting for Nineteen Eighty-Four, George Orwell achieved an
uncanny
coup. He put his signature and claim on a piece of time. No other
writer has
ever done this. And there is, I think, only one genuine parallel in the
records
of consciousness. Kafka knew (we have his witness to this realization)
that he
had made his own a letter in the Roman alphabet. He knew that "K"
would for a long time to come stand for the doomed mask that he assumed
in his
fictions that it would point ineluctably to himself. The litany of the
letter
is spelled out by the English poet Rodney Pybus in his "In Memoriam
Milena":
K and again K and again K
K for Kafka
K from The Castle
K from The Trial
K the mnemonic of fear:
O Franz I cannot
escape that letter K after K-
But although it is now active
in scores of
languages (I understand that "Kafkaesque" has adjectival status even
in Japanese), the identification of “K" with Kafka probably does not
extend
beyond a literate minority. On a scale vastly beyond the enormous
readership of
the novel itself, Nineteen Eighty- Four has been, will be
drummed into
man's time sense. Shakespeare does not own "S"; no twelve months are
his monopoly. The Nineteen Eighty-Four preemption is one that
neither
literary theory nor semantics is really equipped to deal with.
G. Steiner: Killing Time [trong George Steiner at The New
Yorker]
“Cô không phải là
đàn ông. Hôm nay người ta có thể thân nhau lắm mà ngày mai đã hững hờ
rồi, vì
nhiều nguyên cớ mà cũng có thể chẳng có nguyên cớ nào hết. Rồi người ta
lại có
những người thân khác, thân khác nữa, mỗi năm, mỗi giai đoạn của cuộc
sống.”
Bếp Lửa
Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010,
là đúng 5
năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ của ông, có
của Quỳnh
Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được
đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của
một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh
hay khung
cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Năm năm đã qua, liệu đã đến lúc
chúng ta
giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của ông, như cách nhìn của Steiner về
nhà văn
và thời của người đó, rằng, tất cả văn chương lớn thì giầu có hơn, và
vượt ra
ngoài vòng ôm của một thời, that all literature is richer than any
single
subsequent time could possibly appreciate in full. (1)
Đây cũng là ý của Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai
của môn
nghiên cứu văn học Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn,
công
nhận, và đánh giá, chủ yếu về điều gần gụi với những ngày của chính họ.
Tác giả
bị cầm tù bởi thời của anh ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời
tiếp thời
và những thời kế tiếp nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm
tù, và
giới học giả được vời tới để tham dự vào cuộc giải phóng này”
After McChrystal
Barack
Obama has sacked his
commander in Afghanistan.
But the real worry is that the war is being lost
THE
national security adviser
of the world's greatest superpower is a "clown", its vice-president a
nobody and its president "uncomfortable and intimidated". With those
words the officers around General Stanley McChrystal, the American
commander in Afghanistan,
engulfed America
in a
storm as damaging to its war effort as any Taliban raid. America
rightly
sets great store by civilian control of its armed forces and on June
23rd a
distinctly uninitiated President Barack Obama made General McChrystal
pay for
his insubordination with his job. But presidential decisiveness cannot
conceal
a deeper truth. America
and
its allies are losing in Afghanistan.
Mr Obama had every reason to
cashier General McChrysstal. Officers, including his predecessor, have
gone for
less. Not to act could have left the president looking weak. And yet it
was a
heavy price to pay. Nothing could cheer the Taliban more than seeing
General
McChrystal out on his ear. He is a master of counterinsurgency (COIN),
he was
one of the few Americans who could work with President Hamid Karzai and
his
hand-picked commanding officers are in charge of a forthcoming
operation in Kandahar
that will
probably determine the course of the campaign (see page 29). To Mr
Obama's credit,
his place has been filled by General David Petraeus, the star of the
war in Iraq
and the
man who wrote the manual on COIN. Even so, the dismissal leaves America's
campaign pitched on the edge of failure.
Mr Obama once described the
fighting in Afghanistan
as "a war of necessity". The president must now put necessity aside
and pose two fundamental questions. Can the American-led coalition
still win in Afghanistan?
And if so, how?
Kabul fighting
This is
a terrible moment for
the generals to fall out with the politicians. In June Afghanistan
surpassed Vietnam
to become, by some measures, the longest
campaign in America's
history. More than 1,000 of its men and women have been killed and
almost 6,000
injured. Yet the Taliban are rampant, assassinating tribal leaders and
intimidating their people. A survey in 120 districts racked by
insurgency, a
third of Afghanistan’s total, found little popular support for Mr
Karzai. Over
a third of their inhabitants backed the insurgents.
Since November, when Mr Obama
promised 30,000 more of his country's soldiers to the campaign, little
has gone
right. General McChrystal's plan was for a "surge" that would seize
the initiative from the Taliban and create the scope for Afghanistan’s
government, backed by its army and police, to take charge. In practice
that has
not happened. Marja, a farming district in Helmand,
was supposed to show how COIN would win over the people and send the
Taliban
packing. General McChrystal himself now calls Marja a "bleeding
ulcer". Mr Karzai's supposedly corrupt half-brother was meant to go,
but
he remains in charge in Kandahar.
Fanciful Pentagon talk of Afghanistan’s
huge mineral wealth smacks of desperation.
America has, perhaps, until the end of the year to
show that
COIN can work.
The charitable view is that
frustration lay behind the reckless insults dished out by General
McChrystal
and his team in front of a journalist from Rolling Stone. COIN manuals
stress
the importance of "unity of effort": damning the idiots back in Washington does
not
help. But if the generals have not always done well by the politicians,
the
politicians have far more often let down the generals. George Bush and
his defense
chiefs neglected the war in Afghanistan
while they devoted themselves to bungling the war in Iraq.
Mr Obama and his advisers, at
odds over strategy, dithered over allocating troops and, far worse, set
a date
for them to start their withdrawal (see Lexington,
page 38).
This infighting and hesitancy
signal a lack of commitment that has drowned out Mr Obama's warlike
rhetoric.
That has blighted the war's chances of success. Too few Afghans and
Pakistanis
have thrown in their lot with the West, because too many think America
has no
stomach for the fight.
Were so much not at stake, it
would be tempting to give up and call the troops home. Yet, although
Western
leaders have done a poor job at explaining the war in Afghanistan
to
their voters, a defeat there would be a disaster. The narrow aim of
denying
al-Qaeda a haven, already frustrated by the terrorists' scope to lodge
in
unruly parts of northern Pakistan,
Yemen
and Somalia,
would
become impossible to achieve. A Western withdrawal would leave Afghanistan vulnerable to a civil war
that might
suck in the local powers, including Iran,
Pakistan,
India
and Russia.
Sooner or later, the poison
would end up harming America
too: it always does. Defeat in Afghanistan
would mark a humiliation for the West, and for NATO, that would give
succor to
its foes in the world. And do not forget the Afghan people. Having
invaded
their country, the West has a duty to return it to them in a
half-decent state.
It would be idle to harbor
such dreams if they were unattainable. Yet, grim as it is, the violence
in Afghanistan even
now pales beside Iraq
at its
worst. In the pit of that conflict tens of thousands of people were
dying each
year, at least ten times more than in Afghanistan today. The
ranks of the
Afghan army and police force are slowly filling with recruits. There
are reasons
to think that many Afghans would like to be rid of the Taliban, if only
they
could believe in an alternative.
Still
the right plan
That is
where the appointment
of General Petraeus comes in. A losing cause does not automatically
have to
become a lost one: Iraq
showed that. The operation in Marja went badly, but putting down an
insurgency
needs time and lots of troops, preferably local ones. The real test
will come
in Kandahar.
Worryingly, one of General McChrystal's last acts was to postpone the
operation
there until the autumn, amid signs that local people were not yet ready
to back
it. Even so, Mr Obama owes it to the West and to the Afghan people to
determine
whether COIN can in fact succeed under his best general. The Afghan war
may yet
end in an ignominious retreat. But nobody should welcome such an
outcome.+
The Economist June 26-July 2nd
Ông
Tướng ngoài chiến trường
của Mẽo gọi Cố vấn an ninh của siêu cuờng Mẽo là một thằng hề. Phó Tông
Tông,
thằng vứt đi, đồ bỏ, và Tông Tông của nó, tức Ngài Obama, "chương
chướng, chẳng
ra làm sao, lúc nào cũng bực bội, và khó chơi" [tạm dịch cái cụm từ
"uncomfortable
and intimidated"]. Lẽ dĩ nhiên Ngài Obama kêu về và cho về vườn.
Nhưng thảm mội nỗi, là, Mẽo đang thua cuộc chiến ở đó.
Tuổi
thiên tài
Istanbul
Đã nhận
được "Istanbul
- Hồi ức và
Thành phố".….
Đọc "Istanbul" bỗng
dưng thấy nhớ Việt Nam,
nhớ những
ngày xưa kinh khủng.
Tôi vừa dịch vừa nhớ Sài Gòn!
NQT
30.4.2010
Người
Kinh Tế, số 19-25 June
2010 có tới 2 bài về Kyrgyzstan, với 2 cái tít thật thú vị. Một, những
nạn nhân
‘mới nhất’ của Stalin, và một, mùa gặt của Stalin. Cả hai cái tít đều
gợi hứng
cho… GNV, và từ những năm tới, vào cái ngày 30 Tháng Tư, chúng ta có
thể nói về
những nạn nhân mới nhất, mùa gặt mới nhất của 30 Tháng Tư 1975…đại khái
như thế!
TV post
cả hai bài, vì trong
đó, có gì tương tự với xứ Mít ‘của chúng ta’!
Mũi lõ
phân biệt nhạc có lời,
chanson, song, khác với nhạc không lời. Làm gì có thứ nhạc phổ thông?
Có thể có, nhưng
không liên quan mắc mớ đến nhạc lính, nhạc vàng, nhạc sến của Miền Nam.
Nhạc họ Trịnh,
tuy ‘phổ thông’ thật đấy, vì có rất nhiều người nghe nó, hát nó, nhưng
dễ ai hiểu
nổi ý nghĩa của những lời nhạc của ông?
Điều gì khiến ông viết lời bí hiểm, hũ nút
như thế?
Nhiều tay viết
nhảm, tìm cách ăn theo TCS, phịa ra, nào là thiền, nào là Phật, nào là
vô thường…
trong lời nhạc của TCS.
Gấu, sau khi giải ra được thai đố của Kafka, mới hiểu
ra được, đây là do thiếu 1 ngày lính.
Thiếu một ngày lính,
không chịu ở phía cuộc đời trong cuộc
đấu tay đôi sinh tử với nó.
Giống Văn Cao sau khi giết người.
Steiner
quan niệm âm nhạc
vượt lên khỏi xấu và tốt, thiện và ác. Khi mớm lời cho nó, là đẩy nó
vào cõi tục
lụy. Chẳng thế mà Văn Cao, sau khi làm thịt tay Việt gian DDP, không
làm nhạc
có lời được nữa, và chỉ ngao du trong cõi vượt ra khỏi thiện và ác của
những
thanh âm không lời. Chẳng thế mà mỗi lần PD làm nhạc có lời, là phải
mượn hứng
khởi, ở một nơi chốn ‘âm u và ẩm ướt’, là ‘bướm’ của một em nào đó, hay
phổ một
bài thơ.
Thơ, thanh cao, thành ra nhạc phổ thơ của ông gần tới cõi thiên thai
của nhạc
Văn Cao.
Ba thứ nhạc có lời kia của ông, đều thấm đẫm mùi tục lụy, cho rồi đòi
lại, nào
môi, nào vú, nào bướm!
Lẽ dĩ
nhiên, trong lời nhạc
TCS có những trầm tư về một cõi người ‘vô thường’ mang dấu ấn của Phật
của Chúa,
'hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi', thí dụ, nhưng đây là phản ứng tất
nhiên của một
kẻ đã không đứng về phía cuộc đời trong cuộc đấu sinh tử tay đôi với
nó. Không phải tự nhiên mà ông ghiền rượu sau 1975 ? Không phải tự
nhiên mà các em đẹp bu lấy ông...
The Paris
Review 4
Tưởng
niệm Hoàng Cầm
Tribute to
Koestler
Thật
quái đản, nhưng quãng đời
tù VC có thể coi như đẹp nhất trong suốt cuộc đời của
Gấu. Không chỉ những ngày tháng hạnh phúc, nó còn chỉnh sửa cả cuộc đời
Gấu, trước và sau đó.
Những ngày cuối đời, nhẩn nha sống lại nó, nhâm nhi nó, mới tuyệt vời
làm sao!
Applebaum
viết về những ngày
tù của Koestler, khi nước Pháp bị Nazi đô hộ:
Although
Darkness at Noon
remains high on lists of “great books of the twentieth
century,” his journalism, which in its time was at least as significant
as that
of Orwell, is hardly known at all. Before coming to write this review,
I had
not read Scum of the Earth,
Koestler’s autobiographical and journalistic account of the fate of
refugees in
wartime France.
I can’t remember anybody ever telling me to read it either. But because
Scammell praises it, and because Scum of
the Earth is still in print, I bought a copy. It was a revelation:
astonishingly fresh, clear, and relevant, not only explaining the rapid
collapse of France in 1940, but also illuminating some of the
difficulties that
France and other European countries still have in absorbing
“foreigners” even
today. After I’d finished, I lent the book to somebody else. And this,
it
occurred to me, is how a literary reputation revives.
Yesterday's
man?
Nhưng
hãy nghe chính Koestler, qua bà vợ kể lại,
viết về những ngày tù ở Verner, mới thú:
Liền ngay khi chiến tranh bùng
nổ, nhà cầm quyền Pháp phát động những cuộc lùng bắt ngoại nhân,
aliens, có hồ
sơ chính trị. Koestler và Leo bị bắt và quen nhau trong trại tù Le
Verner gần rặng
núi Pyrenees. Leo trở thành Mario
trong Scum of the Earth.
Koestler viết về kinh nghiệm
tù Le Verner của ông:
“Cuộc đời chúng ta là chứng cớ cho thấy khả năng đáp ứng của con người.
Tôi nghĩ,
ngay cả những linh hồn ở lò luyện ngục, sau một thời gian, cũng biến nó
thành
nhà của họ”
[“The life we led was a proof
of man’s capacity for adaptation. I think that even the condemned souls
in
purgatory after a time develop a sort of homely routine”]
Arthur and Cynthya Koestler: Stranger
on the Square [Kẻ lạ ở Quảng trường]
*
Nhưng, đúng hơn, có lẽ phải áp
dụng ‘nguyên lý phượng hoàng’ mà Brodsky đã từng nhắc tới, khi viện
dẫn Sontag. Bởi vì, quãng đời thê lương nhất của Gấu, khi khấu đầu làm
đệ tử Cô
Ba, sau này, ngẫm lại, vưỡn cảm thấy có điều gì hình như là tình yêu,
hạnh phúc
ở trong đó, thế mới lại càng tếu!
Brodsky cho rằng, một khi bạn
bắt đầu 'biên tập' đạo hạnh của bạn, liệu cái này được hay không được,
chiếu
theo hoàn cảnh, thế là bạn đang tán tỉnh thảm họa [When you start
'editing'
your ethics, your morality - according to what is or isn't allowed
today - then
you're already courting disaster].
Ông nhắc tới Susan Sontag. Một lần bà nhà văn Mỹ này nói, phản ứng đầu
tiên của
một con người, khi đứng trước thảm họa là hỏi, tôi có làm điều chi lẫm
lỗi, và
bây giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng xẩy ra nữa.. Tuy
nhiên, bà
nói, còn một cách nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu,
bạn lại
đứng lên được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng, the phoenix principle.
Và, ông rất tâm đắc với nó.
Theo truyền thuyết, phượng hoàng tái sinh, từ tro than của nó.
NKTV
The
Paris Review Xuân 2010
Liêu
Thái – Cuộc thảo luận
“lạ” về Trại Súc Vật trên bãi biển Đà Nẵng
Talawas
Note:
Bài viết, và những cái còm,
theo Gấu, chỉ nói được một ‘nửa sự thực’ về cuốn Trại Loài Vật.
Nhờ nó, và Bóng đêm giữa ban ngày
mà Châu Âu thoát bị nhuộm đỏ, theo bài viết của Applebaum về Koestler,
trên NYRB:
Yesterday's Man?
Coi
những nhân vật trong đó là
những 'quái vật' ở ngoài đời, là làm giảm thế giá của cuốn sách.
Phụ
trang văn học đặc biệt về
Orwell, của tờ Le Monde, đã sử dụng thuật ngữ “phát minh ra cái
thực”, "Orwell, ou l’invention du vrai", để dành cho sự nghiệp
văn chương của Orwell.
Đừng
đọc nó theo
nghĩa ám
chỉ, ẩn dụ, ngụ ngôn….
Cũng
theo nghĩa đó mà người dân Miến đã coi
Orwell như là
một nhà tiên tri của xứ sở của họ, như một trong bài xã luận của tờ
Asia
Literary
Review viết:
Ở Rangoon, người
ta nói,
Orwell viết câu chuyện của Miến điện trong ba cuốn tiểu thuyết, không
phải một,
và họ gọi ông là Nhà Tiên Tri. Những ngày Miến, Burmese Days,
là câu
chuyện quá khứ thực dân thuộc địa của Miến, Trại Loài Vật, Animal
Farm, những
năm khủng khiếp dưới chế độ độc tài của tướng Ne Win, và 1984:
Ác mộng
ngày hôm nay, [tạm dịch cụm từ “the soulless dystopia
of today”.]
Nguồn
Hơn nữa, cái tít
Trại Súc Vật, hơi bị nhảm, ấy là vì người Việt dùng từ ‘súc vật’ để
chửi!
Vụ Án
Do bạn
quí kêu cứu bồ, cứu bồ,
GNV viết hai bài cho Blog NXH/VOA, bị chúng xúm lại chửi. Tất nhiên!
Gấu nghĩ,
do Thầy dốt, nên trò dốt, không đọc nổi bài viết của Gấu!
Nhưng, đây còn là do internet, tức cuộc ‘cách mạng, hay khởi nghĩa gì
gì đó, của đám đông’, chữ của băng đảng
HV, làm
con người ngu đi, theo như một bài viết trên The Economist June 26th
2010
The effects of the internet
Fast forward
The Shallows: What the Internet is Doing to
Our
Brains. By Nicholas Carr.
Norton; 276
pages; $26.95. Published in Britain
by Atlantic in September as 'The Shallows: How the Internet is Changing
the Way We Think, Read and Remember"; £17.99
IN
1492, the same year that
Christopher Columbus crossed the Atlantic, a Benedictine abbot named
Trithemius, living in western Germany,
wrote a spirited defence of scribes who tried to impress God's word
most firmly
on their minds by copying out texts by hand. To disseminate his own
books,
though, Trithemius used the revolutionary technology of the day, the
printing
press. Nicholas Carr, an American commentator on the digital
revolution, faces
a similar dichotomy. A blogger and card-carrying member of the
"digerati", he is worried enough about the internet to raise the
alarm about its dangers to human thought and creativity.
The recent uproar over
privacy on Facebook is only the latest backlash against man's newly
wired existence.
Mr Carr did his bit to encourage the anxiety in 2008 with an essay in
the
Atlantic entitled "Is Google Making Us Stupid?" His new book is an
expanded survey of the science and history of human cognition. Worry of
this
kind is not new: a decade ago, the first evidence suggested that Power
Point
changed not just how executives presented information, but also how
they
thought. Mr Carr's contribution is to offer the most readable overview
of the
science to date. It is clearly not intended as a jeremiad. Yet halfway
through,
he can't quite help but blurt out that the impact of this browsing on
our
brains is "even more disturbing" than he thought.
Humans like to believe they
control the tools they use, even if Socrates, Marshall McLuhan and Ivan
Illich
are among those who have argued that often they do not. From the
alphabet to
clocks and printing, every major new technology has profoundly altered
the way
in which humans think. The digital gadgets on which we now depend, Mr
Carr
explains, have already begun rewiring our brains.
Neurological research has
demolished the myth of the static brain. Neural networks can be rapidly
reorganized
in response to new experiences such as going on the web. Mr Carr
surveys
current knowledge about the effects on thinking of "hypermedia"-in
particular clicking, skipping, skimming-and especially on working and
deep
memory. He draws some chilling inferences. There is evidence, he says,
that
digital technology is already damaging the long-term memory
consolidation that
is the basis for true intelligence.
Only by combining data stored
deep within our brains can we forge new ideas. No amount of magpie
assemblage can
compensate for this slow, synthetic creativity. Hyperlinks and
overstimulation
mean the brain must give most of its attention to short-term decisions.
Little
makes it through the fragile transfer into deeper processing. Clearly,
argues
Mr Carr, this is a radical upending of the "literate mind" that has
been the hallmark of civilization for more than 1,000 years. From a
society
that valued the creation of a unique storehouse of ideas in each
individual,
man is moving to a socially constructed mind that values speed and
group
approval over originality and creativity.
True, there are
compensations: better hand-eye co-ordination, pattern recognition and
the very
multitasking skills the machines themselves require. Sceptics will
rightly
point out that similar concerns have accompanied each new technology.
Something
is always lost, and something gained. Some evolutionary biologists
claim that
the scholarly mind is an historical anomaly: that humans, like other
primates,
are designed to scan rapidly for danger and opportunity. If so, the net
delivers
this shallow, scattered mindset with a vengeance.
Mr Carr offers few
prescriptions. The author himself retreated to an (unplugged) mountain
hideout
to write his book, but he thinks most people depend too much on the net
for
work and fun to do the same. And he fails to address the ways in which
the
internet acts like a drug. Other critics have probed this issue more
deeply, notably
Jaron Lanier, a virtual-reality pioneer, in a recent book, "You Are Not
a
Gadget". Yet surely online bingeing is no different from eating too
many
sweets: its remedy is a matter of old-fashioned self-restraint. _
Only by combining
data stored deep within our brains can we forge new ideas.
Đúng
quá, chỉ có đào sâu cái
kho tư liệu trữ trong óc của chúng ta, mới nẩy ra những tư tưởng mới.
Cái kiểu
chưa đọc xong bài viết, đã viết liền một cái còm, chỉ làm cho chúng ta
ngày càng
ngu thêm đi thôi!
*
Thầy trò đều dốt, như nhau, và
đều độc, như nhau.
Thầy,
sau khi ‘xoa đầu’ ‘bạn
văn’, bằng những dòng thật là ‘hơi bị được’, rất ư là hoành tráng,
những gì gì,
có tới 10 thành công lực, chỉ mới xài có 4, khi viết tạp ghi cho NMG,
trong 10
thành công lực, có hai rất ư là bảnh, óc tổng hợp cực kỳ cao, và trí
nhớ cực kỳ
tuyệt hảo.... và, chỉ vì ‘bạn văn’ lỡ đụng tới một cái tiểu chú trong
một bài
viết của Thầy, về anh của Thầy, là Ngài tiên chỉ VP, thế là bèn lập tức
trả
đòn, bằng một cái mail thật hết sức khốn nạn.
Trò,
chẳng cần biết nếp tẻ,
chẳng cần đào sâu cái não chẳng sâu của chúng, vừa đọc thấy GNV nhắc
đến ‘đám
cưới giả’, là bèn sủa liền, mày nằm ở đâu, mà biết chuyện đó, nếu không
nằm gầm
giường nhà người khác?
Sự kiện ‘đám cưới giả’, GNV đã
nhắc tới, liền sau chuyến MN ghé thành phố Toronto, Canada tham dự một
liên
hoan phim, Toronto
Intel Film Festival Party, 13, July 2004, trong bài viết
Tha hương ngộ
cố tri.
… Bởi vì, "Thời của chúng tôi",
không chỉ có
Minh Ngọc của Trăng Huyết, Trái Khổ Qua, mà còn có Minh Ngọc,
người đỡ
đầu cho những dòng "Thư về Đường Sơn Cúc".
Nói rõ hơn, bà mới thực sự là kẻ đứng sau những dòng thư tuyệt tác đó,
theo
nghĩa, không có bà, thì không có Thư về Đường Sơn Cúc của Hoàng
Ngọc
Tuấn, nhà văn Sài Gòn ngày nào [không phải Hoàng Ngọc Tuấn hải ngoại].
Muốn chứng minh, cứ mang tác phẩm này đọ
với những tác phẩm khác, của HNT, thí dụ như Hình Như Là Tình Yêu,
Cô Bé
Treo Mùng... là thấy ngay sự khác biệt.
Ngay từ hồi đó, độc giả đã nhận ra điều này.
Nhưng "điều này" cho tới nay,
vẫn còn giữ nguyên niềm bí ẩn của nó: Thư về Đường Sơn Cúc không
thể có,
nếu không có bóng dáng một Minh Ngọc ở phía sau, nhưng đây là một em
gái dễ
thương, dễ thơ, và dễ thở, khác hẳn cô em gái trong Trăng Huyết. Nếu
bạn chưa
từng đọc Ngọc Minh, bạn cứ nghe Khánh Ly hát, rồi tưởng tượng ra giọng
đó là
giọng những nhân vật của bà, thời mới viết.
Hồi đó, chúng tôi vẫn thường nói đùa, Ngọc
Minh viết văn tay phải, là Trăng Huyết, tay trái viết giùm cho
Hoàng
Ngọc Tuấn, là Thư về Đưòng Sơn Cúc.
Có điều, chúng tôi không thể tưởng tượng ra được, còn nhiều Ngọc Minh,
Minh Ngọc..
khác nữa, trong một người nữ này.
Trong cái rủi có cái may, nếu không nhờ ơn "cách mạng", những nhân
vật đó làm sao có dịp xuất hiện?
Trở
lại với vụ Thư Từ Đường Sơn Cúc, MN nói, anh
viết
vậy, có thể làm người ta hiểu lầm, em bây giờ khá giả, quên bạn nghèo
ngày xưa.
Anh T. bi giờ khổ lắm, có lần em đề nghị với anh, tụi mình làm đám cưới
giả,
bạn bè xúm lại mừng, được bao nhiêu, em đưa anh hết... vậy mà anh ấy
cũng không
chịu...
*
Đó là lần đầu
tiên Gấu Cái gặp MN, và hai bà bèn nhắc lại thời khốn khổ sau 1975, mấy
ông
chồng đi tù, hoặc thất nghiệp, mấy bà phải kéo nhau ra lề đường kiếm
sống, nuôi
cả gia đình bằng một sạp bán báo, một cái tủ bán thuốc lá lẻ….
Chính là trong
khi hồi tưởng như thế, mà cùng nhắc tới nhà văn HNT, vì biết MN rất
thân với
anh. MN mới nói ra chuyện đám cưới giả.
Thì cũng chỉ là
một cách ngửa tay xin tiền bạn bè trong lúc quá ngặt nghèo, và còn nói
lên được
tư cách, tính tình của HNT, một người như anh làm sao chấp nhận được
chuyện đó.
MN kể, một phần là để cho thấy cái sự bảnh của HNT, chứ có đâu để làm
xấu hổ
anh?
Và cũng
chỉ MN mới nghĩ ra được
một cái chuyện ngửa tay xin tiền bè bạn như vậy, điều này tưởng rất ư
nhỏ nhặt,
nhưng chính nó phân biệt những tác phẩm của HNT, với Thư từ Đường Sơn
Cúc, và với
Trăng Huyết. Nói rõ hơn, chỉ MN mới viết nổi Trăng Huyết, và phải có
bóng
dáng của MN đằng sau Thư từ Đường
Sơn Cúc. Cái sự thất bại trong cuộc đời của
HNT chính là do anh không thể viết được thứ truyện ngắn ma quái như
Trăng Huyết,
và cũng thế, không thể vươn tới sự trong sáng tuyệt vời của một TTDSC.
Gấu chẳng đã từng viết, đứng
ngay bên cạnh một ông nhà văn viết cho tuổi thơ Duyên Anh, có một ông
Thương
Sinh viết độc ác đến vận vào chính ông ta? (1)
(1)
Cái câu trứ danh của Greene, là cũng
nhắm tới điều trên đây:
Tớ tin vào cái phần quỉ ma, độc
ác, của Thượng Đế
"I believe in the
evil of God." - from "The Honorary Consul" –
Nguồn
HNT rất giống Schulz, [đọc Tuổi
thiên tài], ở đời thường, khoan nói chuyện văn chương, nghệ
thuật. Cả hai đều khốn khổ khốn
nạn, sinh ra đời là đã chỉ muốn xin lỗi cuộc đời, xin lỗi, tớ tới nhầm
chỗ, đúng
ra tớ không nên bò ra cõi đời này.
Lũ khốn nạn làm sao mà đọc ra những điều như trên, thành ra xúm lại
chửi Gấu,
cũng là chuyện dễ hiểu.
Ngay cả cái đám bạn thân của HNT cũng không đọc ra nổi cái sự khác biệt
như
trên. Chúng cũng nghĩ là GNV làm xấu bạn của chúng!
Sự kiện HNT không thể là tác giả TTDSC, cho thấy, ông không thể là một
TS, hay
KP… hay bất cứ một thứ chuyên viết biếm văn bẩn thỉu của Sài Gòn ngày
nào!
Bài
viết của Grossman về
Schulz thật tuyệt. TV sẽ dịch, cũng là một cách tưởng niệm cả hai,
Schulz và Hoàng
Ngọc Tuấn, và cũng là một cách hoài nhớ về Tuổi thiên tài, về huyền
thoại của một
con cá hồi:
Uyên
đã thực sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều:
biển cả,
bởi vì mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay
tìm thấy
được, con đường trở về...
Nơi
giòng sông chảy về phía nam
In
my book
"See Under: Love," Bruno Schulz appears both as himself and as a
fictional character. In his fictional guise, I smuggled him out of
wartime
Drohobycz, under the noses of the literary scholars and the historians,
to the
pier in Danzig,
where he jumped into the water and joined a school of salmon.
Why salmon?
Perhaps because salmon have always seemed to me the living incarnation
of a
journey. They are born in freshwater rivers or lakes. They swim there
for a
while, and then head for salt water. In the sea, they travel in huge
schools
for thousands of miles, until they sense some inner signal, and the
school
reverses direction and begins to return home, to the place where its
members were
hatched. Again the salmon swim thousands of miles. Along the way, they
are
preyed upon by other fish, by eagles and bears. In dwindling numbers,
they
scoot upriver and leap against the current, through waterfalls twenty
or thirty
feet long, until the few that remain reach the exact spot where they
were
spawned, and lay their eggs. When the babies hatch, they swim over the
dead
bodies of their parents. Only a few adult salmon survive to perform the
journey
a second time.
|
|