|
Chúc
Mừng Năm Mới 2011
Câu đối Tết
VN là đồng
minh 'đáng xấu hổ' của Mỹ
Mỹ là đồng minh ‘đáng xấu
hổ’
của VNCH!
Tạp chí có
tiếng Foreign Policy - Chính
sách Ngoại giao - đã đưa Việt Nam vào danh sách
"các đồng minh đáng xấu hổ nhất" của Hoa Kỳ nhân các diễn biến ở Ai Cập
nơi Tổng thống Hosni Mubarak là người được Hoa Kỳ hậu thuẫn.
Thơ mỗi ngày
THÊM MỘT
NHÀNH MAI RỤNG
Thế là Nguyễn
Tôn Nhan đã mất. Một tai nạn giao thông tối 28 Tết (31.1.2011) đã
cướp
đi một người bạn, người anh lớn. Vẫn biết đoạn đời sau này của anh là
phần lãi
(anh phải mổ não cách nay hơn 20 năm, trong một thời điểm mà nền y tế
Việt Nam
còn kém cỏi, trang bị lạc hậu, và người bác sĩ mổ cho anh dự liệu rằng
anh chỉ
sống thêm được vài năm nữa thôi. Thế mà anh sống thêm được hơn 20 năm,
và thấy
được người bác sĩ ấy qua đời trước mình. Trong khoảng thời gian đó, anh
đã biên
soạn, dịch thuật, nhiều công trình quan trọng về Hán học, mà nếu xếp
lại, chắc
đã cao hơn cả thân người anh), nhưng nghe tin anh mất, vẫn thấy xót.
Tính tình
anh hí lộng, coi nhẹ mọi chuyện đời, từ tên tuổi, tiền bạc, khen chê
thị phi,
cho đến cả sức khoẻ của mình (cách nay ít lâu, hai anh Cung Tích Biền
và Nguyễn
Lương Vỵ phải ép buộc mới đưa anh đi khám bệnh được). Nếu có điều gì
trên đời
này khiến anh quan tâm, thì chắc đó là thơ, như nhiều lần anh vẫn nói.
Tôi được may
mắn thường xuyên gặp gỡ anh, cùng với Bùi Nghi Trang, Cung Tích Biền,
và Nguyễn
Đạt. Tôi thường nửa đùa nửa thật nói với các anh rằng, các anh phải giữ
gìn sức
khoẻ vì các anh thuộc một chủng loài đã vào Sách Đỏ, có nguy cơ tuyệt
chủng. Chủng
đó có tên gọi là “Người viết trước bảy lăm.”
Vẫn biết điều
đó là không thể ngăn được. Vẫn biết chuyện tuyệt chủng là tất yếu. Mà
không
ngăn được xót xa.
Bài thơ dưới
đây tôi nhận được từ anh Nhan trong những ngày tôi và Bùi Nghi Trang
làm tuyển
tập Văn Tuyển, nhưng lại không in được. Sau này hỏi lại anh rằng anh đã
cho in
bài này ở đâu chưa. Anh bảo chưa, mà cũng chẳng nhớ hết bài ấy nữa. Bây
giờ, mời
mọi người cùng đọc, để nhớ một người anh, người bạn, đã dành cả đời cho
thơ ca
và chữ nghĩa.
Thơ NGUYỄN
TÔN NHAN
Không còn
mùi gì để ngửi
Đời chẳng cho ta chút gì cả
Một mảnh không gian thở ngợp người
Gió tạt hôm kia môi phai má
Nắng ngườm bữa nọ má hoàn môi
Từ chốn không quen mà chẳng lạ
Ta đi về tới dứt luân hồi
Em bồng ngây
dại ra hong tóc
Sớm bay tạt hết khô mồ hôi
Lồng lộng trời cao sa xuống thấp
Không cho ngửi chút ngái trong người
Thì ra ta vẫn thèm ghê gớm
Xin cho ngửi đến chết mùi đời
Hỡi ơi mộng
ngắn như gang tấc
Đo chẳng vừa nào nắng cứ phai
Mưa cứ tạt cho bay nửa giấc
Ta chẳng còn biết nhớ mong ai
Một mảnh
không gian nho nhỏ thở
Ngày sau thoi thóp thoáng hương nhài
Hay là hương của em xưa cũ
Vỡ nửa dưới thềm hơi hướng rơi.
1995
Ui chao, bài
thơ thần sầu, làm Gấu nhớ tiền kiếp của mình, vì không kịp hửi tay
người đẹp
mà bị Trời nguyền luân hồi đời đời kiếp kiếp, như 1 tên Do Thái lang
thang trong cõi tình...
Và làm nhớ mùi bùn cầu Thị Nghè:
Chúng ta chẳng
bao giờ là của nhau
Nhưng hãy
chia nhau những khoảnh khắc-ngoài cuộc đời đó
Chút phù du giữa những lo toan
Khi em kẹt xe ở một ngã tư đường, chẳng hạn
Chợt để hồn mình chao nghiêng thay vì theo xe di động
Biết đâu em
sẽ thèm mùi bùn
Bốc lên từ những hốc, hẻm, ngõ sâu
Từ dòng nước đen bên dưới cầu Thị Nghè
Khi cơn mưa đầu mùa chợt tới
Anh ở đây,
em ở đây
Vậy mà chúng ta cách xa nhau, thật cách xa nhau, quá đỗi
Còn nhận ra nhau
Nhờ chiếc lá mùa Thu
Nhân đôi niềm nhớ
Thu vàng
Rộn rã những giờ những phút giây ngày xưa
Em,
Vàng tươi mầu áo
Xanh rực mầu trời
Đen thăm thẳm,
mướt như tóc
Như chẳng bao giờ em phải lo toan
(Sáng
nay nhặt sợi tóc ngà
Nhìn con chợt thấy như là chút hương)
Như ở đây,
là bốn câu thơ
Hãy cho anh những gì mà em đã bỏ
Đã quên
Hoặc không thèm nhớ
(Dấy lên từ
bụi vô thường
Ngày qua tháng lại, tà dương kiếp người)
Note: Một
em, đọc bài thơ này, hỏi Gấu: Đen
thăm thẳm, mướt như tóc, là ở đâu vậy!
*
Bài viết của
PVP về NTN quá tuyệt, nhưng có 1 chi tiết không đúng về ông. Khi
một người
quen của chúng ta nằm xuống, thường là chúng ta bỏ qua mọi ý nghĩ mà
chúng ta
nghĩ là ‘xấu’ về người đó, nhưng theo GNV, bạn phải ‘đừng có bỏ qua’,
thì những
lời khen tặng của chúng ta mới càng thêm có ý nghĩa.
NTN không phải
là 1 con người không để tâm đến tiền bạc, mà là một người rất kỹ càng
về nó, và
điều này là do tuổi thơ, những ngày mới lớn, học hành chẳng đi tới đâu,
chẳng có
tí bằng cấp, trốn lính, chỉ có thơ là dong duổi cùng với ông suốt cả
cuộc đời. Có
lần GNV đọc 1 câu tự than của chính ông, về cái thời đến cái thân của
mình cũng
không nuôi nổi, rất là cảm động.
Vì mê thơ,
cho nên ông học chữ Hán, vì theo ông, không biết chữ Hán, khó mà có thể
biết tới
chỉ, tiếng của dân Giao Chỉ.
Và, chỉ đến
khi VC thắng lớn ở Miền Nam, và sử dụng tới cái tài rành chữ Hớn của
ông, thì lúc
đó, độc giả mới biết đến ông, như là 1 nhà Hán học. Ngay cả những ai
điếu ở
trong nước về ông, họ đâu có thèm nhắc tới ông như là 1 nhà thơ đâu?
GNV có vài kỷ
niệm về NTN, cũng thật là tuyệt vời, nhưng chẳng liên quan gì đến
chuyện đếch để
ý đến chuyện tiền bạc cả. Chúng làm GNV nhớ đến xứ Bắc Kít, và những bà
con còn
lại của Gấu, ở đó, nhất là bà chị ruột của Gấu. Thê lương lắm, không
đơn giản đâu.
Khen NTN không để ý đến tiền bạc, là làm
mất đi cả 1 nửa con người của 1 nhà thơ!
Một nửa con
người cũng tuyệt vời như thơ của ông, và có thể, chính là nhờ nó, mà có
nhà thơ
NTN.
Bà cụ TTT, có lần
nhận xét về thằng con nuôi của bà, là GNV: Mi thật giống
thằng T. Cứ thấy người nào giầu có là tởm rồi
GNV sợ rằng, chính cái nỗi
khổ sở, và lời tự thán về mình của NTN từ đó bật
ra, “đến cái thân của mình, mà chẳng làm sao nuôi nổi”, là khía
cạnh đẹp
nhất ở con người của ông.
Lan man chuyện
nọ xọ chuyện kia, Gấu bỗng nhớ tới một vị nữ lưu độc giả rất là thân
thiết với
trang TV, và có lần Gấu hỏi đùa, giá mà hồi còn trẻ gặp nhau, thì sẽ ra
sao, bà
bật cười nói, hồi đó, tôi đi học bằng Mercedes, Gấu mà đến cổng trường
trồng cây
si, thì chỉ có ngửi bụi xe…
Bà muốn nhắc
tới cái cảnh Gấu kể trong Một Người
Anh:
Trở lại
chuyện cô Hà. Có lần tôi viết cho cô một
lá thư, đại để: Đây là lá thư thứ nhì, bởi vì lá thư thứ nhất kể như
không có.
Kể như là chuyện anh yêu em, em đã biết rồi, và đã được em chấp nhận.
Sau bức
thư, một buổi sáng tôi cuốc bộ đến trường Thánh Mẫu ở khu Hoà Hưng chờ
đón cô
tan học về. Ngày trọng đại, hút đâu cỡ chừng cũng cả gói thuốc lá. Khi
tan trường
ra, trông thấy tôi, chắc cô cũng có chút bối rối, nhưng thản nhiên kêu
xích lô
đi một mách, ra ý, ngay cả một bức thư tỏ tình mà anh cũng không viết
nổi, nói
chi đến chuyện yêu thương, khoan nói chuyện ăn đời ở kiếp.
Nhà thơ Nguyễn
Tôn Nhan đã qua đời lúc19g chiều 28 tháng 12 âm lịch
(31.1.2011) do tai nạn giao thông.
Nguồn
Xin chia buồn cùng gia
đình, và cầu chúc linh hồn bạn ta sớm siêu thoát
NQT
NDT:
Da nhan tin cho NDB hay roi, ngay.. thang 2 nay hinh nhu han
di VN.
NDT
di VN vao ngay.. thang 2 toi, da mua air ticket.
Nhân vụ NTN ra đi, nhớ bạn
hiền Cali, Gấu tính ngày mai ra phi
trường, vẫy 1 cái máy bay, nhưng Toronto đang chờ trận bão tuyết đầu
mùa, bèn thôi.
Tình hình
bão rất căng!
Chán thế đấy
*
OK. Vay
thoi. CHUC MUNG NAM MOI Again.
NDT.
From: Sent: Tue,
February 1, 2011
4:19:17 PM
Subject: Re:
Ben nay dang
bi bao tuyet. Phi truong dong cua
Hang ban
giay may bay quen, nghi Tet
Thoi de anh
di VN ve roi tinh
NQT
Crimson
wrote:
"vừa
chúc mừng SN anh đã chạy vào chúc mừng năm mới. Chỉ mong anh được khỏe
và vui,
cũng như chuyện nhà luôn yên ổn. Hug."
Chúc CM năm
nay lấy chồng nhe!
Take care
NQT
Lan man với Vương
Trí Nhàn
Note: Bài
này, tuyệt. Nhận định về Sơn Nam, đúng, nhưng không đúng, khi áp dụng
vào trường
hợp NNT. GNV sẽ tản mạn sau, về chuyện này, nhưng đại khái là như vầy:
Sơn Nam
là 1 anh VC nằm vùng. Vốn sống của ông là 1 Nam Bộ có Tây, còn Tây.
NNT, trưởng
thành sau cái cú ăn cướp 30 Tháng Tư, và cùng với nó là Lò Cải Tạo.
Làm
gì còn
chuyện bản địa hoá ở đây, vì Miền Nam, 1 cách nào đó, biến mất rồi. Cái
Miền
Nam Sâu Thẳm, của Faulkner... mất rồi, cùng với sự xâm lăng của Bắc
Kít.
Bạn
VTN này phải đọc lại Bút Ký Tô
Hoài, nhe!
Chúc Tết
bạn
và gia đình! NQT
GNV không
quen VTN. Trên TV có trang VTN, là do LMH giới thiệu.
Trang VTN
Hai Trầu &
NNT
Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều và cũng được giới thiệu nhiều. Tôi thì chỉ
đọc đây đó
vài bài, không có cơ hội đọc nhiều. Nên xin có vài ba ý kiến về cách
viết của
Nguyễn Ngọc Tư với cái nhìn của một người từng có những năm tháng làm
ruộng và
nuôi vịt chạy đồng.
Hai Trầu
In every novel it is the form - the style in which it is written and
the order
in which it is told - which determines the richness or poverty, the
depth or
triviality, of the story. But in novelists like Faulkner, the form is
something
so visible, so present in the narration that it appears at times to be
a
protagonist, and acts like another flesh and blood character, or else
it
appears as a fact, like the passions, crimes or upheavals; of its story.
Trong bất cứ tiểu thuyết, chính hình dáng - qua đó, văn phong được viết
ra, và
trật tự được kể lại - quyết định sự giầu có hay nghèo nàn, sự sâu
thẳm,
hay nông choèn choẹt, của câu chuyện. Nhưng với những tiểu thuyết gia
như
Faulkner, hình dạng cuốn tiểu thuyết, là một điều gì thực sự, hiển
nhiên,
"rành rành con mắt còn ngờ chiêm bao" [xâu con mắt luồn kim tìm chiêm
bao, câu thơ thần sầu của NLV làm tặng NNT khủng khiếp như thế đó!],
chảy theo
cùng dòng kể, nhiều lúc, nó, từ mộng biến thành thực, thành một nhân
vật, xử
sự, hành động, như nhân vật bằng xương bằng thịt khác, nhiều lúc, nó
xuất hiện
như một sự kiện, như những đam mê, những tội ác, những lớp lang, những
biến
động, của câu chuyện của nó.
Vargas Llosa: The Sanctuary
of Evil
*
Đâu phải chỉ chuyện nuôi vịt chạy đồng?
Nhưng quả đúng là chuyện nuôi vịt chạy đồng, nếu chúng ta đọc những
dòng trên
của Vargas Llosa viết về Giáo đường
của Faulkner.
*
Nói rõ hơn, "hình dáng" của Cánh Đồng
Bất Tận, chính là cánh đồng bất
tận, và đàn vịt của nó.
Nói rộng ra, văn NNT, "hình dáng" của nó, là Miền Nam.
Không [chỉ] đặc sản, mà còn là, thiên tài của nơi chốn.
*
Gide, viết về Dostoevsky: Tác phẩm lớn có phần đóng góp của Quỉ.
Với NNT, ngoài sự đóng góp của ông thần đất, còn có sự đóng góp của con
Quỉ Hậu
Chiến.
Và đây cũng là điều Vargas Llosa nhận ra, khi đọc Giáo đường của Faulkner.
[Một miền
đất thiên đường biến thành] một miền đất của cái ác, miền của những
điêu tàn và
ghê rợn, vượt quá mọi hy vọng, hết thuốc chữa:
Nothing is described, but from that unexpressed savagery a poisonous
atmosphere
seeps out and spreads to contaminate Memphis and other places in the
novel,
turning them into a land of evil, regions of ruin and horror, beyond
all hope.
Vargas Llosa: The Sanctuary
of Evil
*
Có thể, có người ngạc nhiên, NNT thì "liên can" gì tới Faulkner? Bà
nhà quê, miệt vườn này, làm sao đọc Phuốc Nơ?
Tuy nhiên, đây là sự thực: Không thể có văn chương, nếu không có so
sánh. Trong
khi so sánh đó, bạn làm sáng ra, cả hai, chứ không phải chỉ một.
Vả chăng, Faulkner thực sự mà nói, cũng là một tay ít học, theo nghĩa,
không
thuộc giới khoa bảng!
*
Văn Việt
Nam, "dòng chính", chỉ là "văn nói", chưa bao giờ đạt tới
cõi "văn viết", với những câu văn dài lê thê, như chẳng biết làm sao
chấm dứt.... Walter Benjamin đã từng ca ngợi Karl Kraus, Susan Sontag
trích dẫn,
dưới đây, trong một bài tưởng niệm tuyệt vời nhà văn Đức gốc Do Thái
này: Sinh
dưới bảng hiệu Saturn [Under the Sign of Saturn]:
"If style is the power
to move freely in the length and breath of
linguistic thinking without falling into banality, it is attained
chiefly by
the cardiac strength of great thoughts, which drives the blood of
language
through the capillaries of syntax into the remotest limbs."
NNT chắc chắn chẳng bao giờ đọc Faulkner, lại càng
chẳng biết, những Benjamin,
Sontag, nhưng, một mình một xuồng, len lỏi giữa trời nước mênh mông,
tới nhánh
sông, nhánh lạch xa xôi tuyệt mù.... văn của bà, từ đó, bắt đầu, từ đó,
chấm dứt.
Chúng ta cứ thử đọc câu
này, coi có đúng như Benjamin diễn tả:
Mưa vô mùa, nghĩa là
hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê, má tôi chặt lá,
giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh;
tôi hỏi má
gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu, tội nghiệp tụi nó,
nhà
không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì ăn đâu..."; tôi giành: "Chừng
nào bánh chín, để con đem qua bển cho; Má, má mè, anh Hai có tính bước
thêm bước
nữa chưa, hả má."; Má tôi cười: "Chưa, má biểu nó hoài, mà, cái con
này, lần nào về cũng hỏi có chuyện đó....". Mình à? Mình sao? Lần nào
cũng
hỏi chuyện đó à? Ụa, hỏi hồi nào sao mình không hay vậy ta?
Một Mối
Tình
Đám Bắc Kít,
thú thực, không đọc được NNT, 1 phần là do không hợp thổ ngơi, 1 phần
là
do chỉ muốn
làm bố thiên hạ, chưa viết, là đã hăm he chính luận, hăm he dậy đời...
thành ra
câu văn cụt thun lủn, vả chăng, sông rạch ở đâu mà đẩy hơi văn, nếu có
thì là
dòng sông Hồng, đỏ như máu, đưa tới Trái Tim Của Bóng Đen!
Nam Kít, như ông
Hai Trầu kia mà còn đọc không nổi nữa là!
Hà, hà!
Xâu con mắt luồn kim tìm chiêm bao
Diễn Văn Nobel 2010
Nobel
Lecture
December 7,
2010
GNV là người
đầu tiên giới thiệu tới độc giả Mít, "hơn một" tác giả mũi lõ, đa số
họ, GNV biết
tới, là nhờ đọc tờ Partisan Review.
[Kundera Gấu cũng là thằng đầu tiên giới
thiệu, khi giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG: Mùa Thu những di dân].
Kỷ niệm
thú vị có lẽ cũng nhiều, để nhẩn nha nhớ lại, nhưng 1 trong số đó, là,
lần giới
thiệu Adorno và câu nói nổi tiếng của ông: “Làm thơ sau Auschzitz thì
thật là dã
man”. Nhà văn hàng đầu hải ngoại Võ Đình bực lắm, phán, thằng cha
Adorno này là
ai mà vung tay quá tr[ch]án. Và ông chứng minh, sau Lò Thiêu vẫn có
thơ, và
đó là
thơ của Phan Nhật Nam: Đêm tận thất
thanh! (1)
Tuy nhiên,
không chỉ một Võ Đình bực vì câu nói của thằng cha Adorno. Czeslaw
Milosz cũng
nực. Trong bài viết ngắn, viết về ‘hậu môn của thế giới’, ông cho biết,
chính là
vào cái năm ông ở hậu môn thế giới, ở Ba Lan, ông làm được thơ, và thơ
cũng không
tệ.
Cái tác phẩm
của bậc thầy về Lò Thiêu vừa mới tái khám phá ra được, A lost master of
the Holocaust, chính là tác
phẩm được viết khi tác
giả của nó ở… Lò Thiêu!
(1)
Đêm Tận Thất
Thanh.
Văn Học số
Xuân Đinh Sửu [129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ
viết:
"... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì
thật
là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng
được quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm
bàn rông
rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như...
"vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này
thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"? Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những
nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc,
thối
um"?
Đêm Tận Thất
Thanh là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không
may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee,
Florida 5-2-97
24 tiếng trước
Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên đây
trích từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận Thất Thanh của "bạn
ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách bạn ta tặng, buổi tối tại nhà
Nguyễn
Đình Thuần. Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ
Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA
Oct/28/2003.
PNN ký tên.
- Primary
Sources: An excerpt from H. G. Adler’s “Panorama.”
*
THE LONG
VIEW
A
rediscovered master of Holocaust writing.
BY RUTH
FRANKLIN
Bài điểm sách
& giới thiệu một bực thầy, một "vị thánh của Lò Thiêu", khác, này,
quá tuyệt.
Qua đó, là cuộc đấu sinh tử giữa Adorno và Adler, và cùng với nó, là
vấn nạn,
liệu vưỡn có thơ sau Lò Thiêu.
Chắc chắn vưỡn
có thơ, sau Lò Thiêu, vì, có thể nói, thơ sau Lò Thiêu, là, Lò Thiêu!
Đây là ý của
nhà văn Nobel Jelinek
Khi Adorno
nói, sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man,
ông muốn nói, theo như tôi hiểu, hai điều:
Một là: Không thể làm thơ sau Auschwitz.
Hai là: Nếu sau Auschwitz vẫn có thơ, thì phải có Auschwitz trong cái
gọi là
thơ đó.
Elfriede Jelinek
Nhật Ký
Nobel 2004
Những
Hình Hài Nobel
Elfriede
Jelinek
Trong nhật
ký đề ngày 1 tháng Tám 1914, Arthur Schnitzler ghi có nhận một lá thư
báo cho
ông biết rằng Áo là quốc gia được chọn để nhận giải Nobel Văn học năm
nay
(1914), và giải này được cưa đôi giữa ông ta và nhà biếm văn ấn tượng
Peter
Altenberg.
Ông không thật sự hài lòng. Bà vợ ông lại càng bực mình khi nghĩ
đến chuyện
phải cưa đôi giải thưởng. Tuy nhiên, vài ngày sau, mọi người có chuyện
khác để
cùng nhau lo ngay ngáy. Chiến tranh thế giới. Tàn lụi thế giới.
Ông ghi
nhật ký như vậy.
Năm đó không có giải thưởng.
Trái với giả định của Schnitzler, giải thưởng Nobel không trao
trên căn bản
quốc gia, xứ sở. Nếu không, Áo đã chẳng phải đợi ròng rã những chín
mươi năm mới
thực sự vớ được nó: Nobel năm nay, 2004, về tay nhà viết tiểu thuyết và
kịch
Elfriede Jelinek. Giống như Schnitzler, Jelinek là người bị những đồng
bào của
bà bêu riếu, coi như một “Nestbeschmutzer”, kẻ làm ô danh đất nước
mình, bằng cách vạch áo cho người
xem lưng, bày cái mặt bẩn thỉu đê tiện của Áo quốc ra cho thế giới bên
ngoài
nhìn thấy. Tour du lịch vào thế giới chìm sex-xiếc ở Vienna, mà
Schnitzler dâng
hiến, mời gọi chúng ta trong tác phẩm gây xì-căng-đan, Reigen (Round
Dance:
Khiêu vũ vòng tròn, 1900) có thể đặt sóng đôi bên cuốn tiểu thuyết được
nhiều
người biết nhất, và có lẽ, tuyệt nhất, của Jelinek, Die
Klavierspielerin, 1983,
do Joachim Neugroschel dịch qua tiếng Anh với nhan đề The Piano Teacher, Cô
giáo dạy dương cầm, Michael Haneke dựng thành phim năm 2001.
Jelinek bóc trần những gì được coi là cấm kỵ của cuộc sống văn
hoá và
trong gia đình người Áo, trình diện cho chúng ta một cô giáo dương cầm
nghiêm
trang, khéo ăn khéo mặc là Erika Kohut, nhưng cũng chính cô giáo nghiêm
trang
ăn vận khéo léo này lén lút dòm những màn trình diễn khiêu dâm, rình mò
những cặp
trai gái làm tình, và luôn thủ trong người một lưỡi dao cạo, dùng nó để
dấm dúi
cắt da xẻo thịt của chính mình. Cuốn tiểu thuyết bày ra một liên hệ rất
ư là
không bình thường giữa cô giáo và bà mẹ già độc đoán. Xung đột mẹ con
đạt đỉnh
cao khi cô gái đánh đập bà mẹ già. Hay những cách đối xử của cô giáo
với người
học trò, Walter Klemmer, anh này bình thường nói chuyện âm nhạc với cô
giáo rất
ư là tình cảm, rất ư là say mê, cho tới khi anh bắt cô giáo phải làm
tình bằng
mồm với anh ta tại nhà xí. Tất cả những chuyện đó được kể bằng một văn
phong
linh hoạt, bóng loáng, tỉnh bơ, mà, như cái mốt của thời hậu hiện đại,
văn
phong này không cố tình dấy lên ở độc giả một cảm xúc nào; một thứ văn
phong “nó chỉ là nó”, được biểu hiện qua những
qui chiếu
mang tính liên văn bản và hoàn toàn chỉ là chữ nghĩa của riêng nó.
Trang chót
cuốn tiểu thuyết là cảnh Erika bị anh học trò đập cho một trận, tự làm
mình bị
thương ở vai, cứ thế lê về nhà, máu chảy ròng ròng trên lối đi, xen này
được
thêm thắt bằng những trích dẫn lấy từ đoạn kết thúc cuốn Vụ án của
Kafka. Đoạn
tả cảnh hành quyết Joseph K.
Jelinek không đơn độc khi trắng trợn vạch áo cho người xem lưng nước
Áo. Bà đại
diện cho cả một thế hệ nhà văn Áo - trong số đó có Felix Mitterer,
Peter
Turrini và nhà văn quá cố Thomas Bernhard - họ công kích tính phi nhân
và giả đạo
đức của đất nước của họ.
Có lẽ Jelinek là người có nhiều lý do hơn hết, trong số họ, để làm như
vậy. Cha
của bà, một người nửa Tiệp, nửa Do Thái, vậy mà không bị tống vô trại
tập
trung, chỉ vì ông là một nhà hóa học nhờ vậy mà có ích cho Đệ Tam
Reich, một
nhà nước mà Áo quốc rất mong được kết nhập. Bằng một sự can đảm đáng
nể, bà lên
tố cáo những hoạt động của Kurt Waldheim cho Wehrmacht (Quân lực Quốc
xã) trong
thời gian chiến tranh, cùng những trò ma mãnh của tay chính trị cực hữu
Jorg Haider.
Được gợi hứng từ vở kịch của một kịch tác gia thế kỷ 19, Johann
Nestroy,
Hauptling Abendwind (1862) về những giống dân ăn thịt người, văn minh
nửa vời,
bà phác họa Waldheim, một “Tổng thống Abendwind”, và bà coi Áo quốc là “vô địch thế giới trong cái
trò vờ
vĩnh, bị bệnh quên” (amnesia).
Những tấn công nhắm vào Jelinek của giới truyền thông thì rất ư cay
độc, có lẽ
bởi một người đàn bà ‘mồm loa mép giải’ mà lại toàn về những
chuyện thật không đáng nói ra, là chuyện
không nên, mà có lẽ còn là do hoàn cảnh chính trị khó xử của bà nữa. Là
người
công khai tuyên bố mình ủng hộ chủ nghĩa Cộng sản, bà ngang ngạnh và
không chút
khoan nhượng trong việc phân tích sự dính dấp giữa quyền lực kinh tế
với quyền
lực về tính dục. Trong tác phẩm của bà vào năm 1977, viết tiếp Nhà búp
bê, kịch
của Ibsen, nhân vật Nora trở thành tình nhân của một thương gia, người
này bắt
cô sử dụng những trò dâm đãng của mình để moi tin tức từ người chồng
cũ, rồi
sau đó bỏ rơi cô gái. Dưới nhãn hiệu nữ quyền, Jelinek quan sát, miêu
tả bằng
cách nào quý bà thông đồng với nhau trong trò chơi bạo dâm, cái đã
khiến mấy bà
bị chế ngự, đành chịu phục tùng, chỉ biết đáp ứng lại bằng trò tự làm
nhục, làm
tổn thương chính mình, như nhân vật Erika, hay bằng cách giết con mình,
như
nhân vật bà vợ giữ nhà bị hành hạ, lạm dụng quá cỡ trong Dâm tính
(Lust, 1989).
Tới đây, chúng ta thấy có những vấn đề. Bởi vì với bà, là một thứ chủ
nghĩa phản
nhân bản mang tính Mác xít [Marxist anti-humanism] tự nó biểu lộ ra,
qua sự kiềm
chế khắt khao lên những nhân vật của bà, và chỉ được nới lỏng một chút,
ở trong
Cô Giáo Dương Cầm. Chính một thái độ như vậy đã chối bỏ những thân phận
đàn bà,
bỏ mặc họ mắc bẫy ở trong những trò dâm đãng vinh danh giống đực ngạo
nghễ
[triumphant male sadism], và những trò bạo dâm vô phương cứu giúp của
phái nữ
[helpless female masochism]. Allyson Fiddler, nhà học giả quan trọng
nhất về
Jenikek ở trong thế giới nói tiếng Anh, đã trích dẫn một câu nói của
Jelinek,
trong một cuộc phỏng vấn; bà thừa nhận: “Tôi không thể nào miêu tả
bất cứ một
sự vật gì theo kiểu hướng thượng... Mặc dù là một người Mác xít, tôi
không thể
nào cổ xúy cho một chủ nghĩa lạc quan cách mạng”.
Sự bi quan của Jelinek cũng hiển nhiên không kém trong những sáng tác “xanh” (green writing) của bà.
[Đây là muốn
nói đến cách mạng xanh, hoà bình xanh, bảo vệ thiên nhiên môi trường. -
ND].
Áo, vùng đất của Mozart, còn tự khoe mình như là một thiên đàng của môn
leo núi
vốn chưa bị hư hỏng bởi những đầu óc chỉ nghĩ tới lợi nhuận. Jelinek
thuộc vào
một chuỗi nhà văn dẫn đầu bởi Thomas Bernhard, trong cuốn Frost (1963),
thay vì
ca ngợi miền đất thiên đàng của môn chơi thể thao ‘vua’ này, thì lại mô tả nó với
những xóm
làng miền núi già cỗi, suy tàn, dân làng rặt những bệnh cùng tật, tính
tình
hung hăng, lỗ mãng, trong một khung cảnh đất đai đã bị khai thác tối đa
bởi nạn
phá rừng, đập thủy điện và thú săn bắn. Totenauberg (1991), kịch của
bà, về
Heidegger, giáo chủ của giáo phái hiện sinh, tấn công cái trò thờ phụng
sự
trinh nguyên của thời tiền kỹ thuật mang tính nhà quê của ông này cùng
cái việc
thập thò thì thụt đi đêm với bọn chính trị phản động là đám Nazi. Cuốn
tiểu
thuyết mới nhất, Gier (Tham lam, 2000) trong đó có cảnh mô tả một cái
hồ hôi thối,
không phải do thiên nhiên mà do con người tạo ra, bằng chất nổ, để dùng
làm nơi
thải những rác rưởi, đồ phế thải trong xây cất đường xá. Nhân vật chính
trong
cuốn tiểu thuyết, một anh chàng cảnh sát đồi bại, cộc cằn, tàn nhẫn,
ném xuống
hồ thi thể những ngưòi đàn bà mà anh ta lừa dối rồi sau đó giết chết.
Có lẽ chúng ta sẽ lĩnh hội những cảnh trên đây một cách rõ ràng nhất
nếu đọc
tác giả của nó như là một nhà biếm văn (satirist). Như Bernhard, những
tác phẩm
chỉ trích kịch liệt mang tính ám ảnh của ông kết án người Áo về mọi cái
xấu xa
đê tiện, từ việc phò tá Đức quốc xã tới chuyện không chịu thay vớ,
Jelinek là một ‘Übertreibungskunstler” - từ của nhà phê bình
người Áo
Wendelin Schmidt-Dengler, tức một nghệ sĩ luôn thái quá (an artist of
exaggeration). Nhìn dưới ánh sáng đó, sự bất lực của những nhân vật của
bà
tương xứng với cái nhìn của phái Thi Sơn về nghệ sĩ châm biếm. Tôi đặc
biệt
nghĩ tới cảnh này ở đầu cuốn Die Kinder der Toten (Những đứa con của
Thần chết,
1995): một chiếc xe buýt chở học sinh, do một anh tài xế say rượu bị
trật ra khỏi
một con đường vùng núi, nằm giữa cánh đồng “như một bọ cánh cứng cẩu
thả, bị đá đến
nỗi quật ngược ra phía sau, bốn chân thò ra ngoài, quẫy lung tung,
tuyệt vọng”. “Quẫy lung tung, tuyệt vọng” áp dụng đúng y chang vào
kiểu tự sự của Jelinek, với những
xen lập đi lập lại, để diễn tả tình trạng trì đọng của cuộc sống của
những nhân
vật của bà. Sau cùng, thiên nhiên trong tác phẩm của bà không chỉ đóng
vai trò
đối thể bị con người lạm dụng mà còn như một quy chuẩn châm biếm (a
satiric
norm). Cái bản tính vật dục của Erika Kohut, được tượng hình con vật,
chính nó
chế nhạo những nỗ lực của cô nhằm tự kiểm soát mình. Và ở cuối Những
đứa con của
Thần chết, thiên nhiên đến lượt nó trả thù: khách sạn dành cho du
khách, với
cái tên sặc mùi “lãng mạn rẻ tiền” (kitsch) là Alpenrose
(Bông hồng An-pơ), bị một trận đất chuồi
khổng lồ nuốt chửng, như thể sự thực về một nước Áo hiện đại không còn
bị ém nhẹm
được nữa.
Tôi không tin tưởng rằng Jelinek là một nhà văn lớn. Nhưng bà là một
nhà
văn đáng đọc và có ích. Có thể xem việc trao giải Nobel cho bà không
chỉ là công
nhận tác phẩm và tư thế đối kháng chông chênh của bà, mà còn như là một
cử chỉ
đẹp, tuy muộn màng, đối với cả một hội những kẻ bị từ chối, gồm những
nhà văn
Áo nổi tiếng trong đó có Rilke, Hofmannsthal, Musil, Broch, Karl Kraus,
Joseph
Roth và Ingeborg Bachmann.
Robertson, Ritchie
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ
trang văn học Thời báo London (TLS), số ngày
15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích:
Đăng lại bản dịch trên e_Văn. Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm
một số sai
sót.
NQT
Note: GNV
quên luôn bài này, tình cờ vớ lại được. Tuyệt!
Đêm
giữa ban
ngày
Sự thực, chẳng
có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn
trước.
“Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải
“chối từ”
thân thế.
Sự thực, đôi
khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt,
với óc
trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ
là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước
ra” thì,
chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu,
đồng nghĩa
với việc không có Sáng Tạo!
DTL.com
GNV cũng không
tin là, Mai Thảo, khi nhận tiền của me -xừ Tuckers, biết, tiền của Xịa!
Bởi vì ngay
Koestler, khi nhận tiền của Mẽo dựng lên cái gọi là Hội nghị vì Tự do
văn hóa,
cũng không biết, đó là tiền của Xịa, như trong cuốn tiểu sử K, của
Michael Scammell,
cho biết.
K nghĩ tiền của Bộ Ngoại Giao hay [Chương Trình] Marshall Fund. Và
theo ông, không đủ chi xài, vì vậy, ông kêu gọi những nhà văn góp vốn
thêm!
Làm gì có
chuyện MT là nhân viên của Xịa, chuyện "cài cấy", và, sự
thực cũng đâu có đơn giản như DTL ngây thơ
viết.
Sự thực, là,
tiền của Mẽo, và Mẽo ở đây, là Xịa!
Tuy nhiên, đọc
những 'phát giác' của DTL, thì chúng ta lại nhớ tới Graham Greene: Ông
nhà văn này
cũng gặp một tay “Tuckers” tương tự, trên chuyến đi từ Bến Tre về Sài
Gòn, trên
chiếc du thuyền của Hùm Xám Bến Tre, Le Roy, và tay này kể cho ông
nghe, về
mission của hắn ta, tìm 1 tay Mít, thuộc lực lượng thứ ba, để đưa…
tiền, làm… chiến tranh, không phải làm báo
như MT!
DTL
vs GNV
Ghi chú
trong ngày
Yann Martel
met fin à sa correspondance avec Stephen Harper
Yann Martel
chấm dứt cái vụ gửi sách cho Stephen Harper thủ tướng Canada.
Ngưng ở con
số 100, vì đây là 1 con số đẹp, và tôi còn việc khác để làm, như YM cho
biết. Vả
chăng, ngài thủ tướng chưa hề trả lời v/v gửi sách. Nhân viên của ông,
tất
nhiên, có viết thư cám ơn, đã nhận, tất cả là 7 lần.
Trên TV có giới thiệu vài cuốn trong số những cuốn nhà văn gửi thủ
trướng của
ông, đề nghị đọc. Trong đó, có cuốn GNV này rất mê, từ hồi mới đọc
sách, Sa Mạc
Tác Ta, nếu GNV này nhớ không lầm. Hay Buồn
ơi chào mi, của Sagan, Hóa Thân của
Kafka, Giả Tưởng của Borges [chê]…
BOOK 49:
THE OLD MAN AND THE SEA
BY ERNEST HEMINGWAY
February 16, 2009
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear Mr. Harper,
The famous Ernest Hemingway. The
Old Man and the Sea is one
of those works of literature that most everyone has heard of, even
those who
haven't read it. Despite its brevity 127 pages in the well-spaced
edition I am
sending you it's had a lasting effect on English literature, as has
Hemingway's
work in general. I'd say that his short stories, gathered in the
collections
In Our Time, Men without Women and Winner Take Nothing,
among
others, are his greatest achievement and above all, the story "Big
Two-Hearted River" but his novels The Sun Also Rises, A Farewell to
Arms and For Whom the Bell Tolls are more widely read.
The greatness of Hemingway lies not so much in what
he said
as how he said it. He took the English language and wrote it in a way
that no
one had written it before. If you compare Hemingway, who was born in
1899, and
Henry James, who died in 1916, that overlap of seventeen years seems
astonishing, so contrasting are their styles. With James, truth,
verisimilitude, realism, whatever you want to call it, is achieved by a
baroque
abundance of language. Hemingway's style is the exact opposite. He
stripped the
language of ornamentation, prescribing adjectives and adverbs to his
prose the
way a careful doctor would prescribe pills to a hypochondriac. The
result was
prose of revolutionary terseness, with a cadence, vigor and elemental
simplicity that bring to mind a much older text: the Bible.
That combination is not fortuitous. Hemingway was
well
versed in biblical language and imagery and The Old Man and the Sea
can
be read as a Christian allegory, though I wouldn't call it a religious
work,
certainly not in the way the book I sent you two weeks ago, Gilead,
is.
Rather, Hemingway uses Christ's passage on Earth in a secular way to
explore
the meaning of human suffering. "Grace under pressure" was the
formulation Hemingway offered when he was asked what he meant by
"guts" in describing the grit shown by many of his characters.
Another way of putting that would be the achieving of victory through
defeat,
which matches more deeply, I think, the Christ-like odyssey of
Santiago, the
old man of the title. For concerning Christ, that was the Apostle
Paul's
momentous insight (some would call it God's gift): the possibility of
triumph,
of salvation, in the very midst of ruination. It's a message, a belief
that
transforms the human experience entirely. Career failures, family
disasters,
accidents, disease, old age-these human experiences that might
otherwise be
tragically final instead become threshold events.
As I was thinking about Santiago and his epic
encounter with
the great marlin, I wondered whether there was any political dimension
to his
story. I came to the conclusion that there isn't. In politics, victory
comes
through victory and defeat only brings defeat. The message of
Hemingway's poor
Cuban fisherman is purely personal, addressing the individual in each
one of us
and not the roles we might take on. Despite its vast exterior setting,
The Old
Man and the Sea is an intimate work of the soul. And so I wish upon you
what I
wish upon all of us: that our return from the high seas be as dignified
as
Santiago's.
Yours truly, Yann Martel
ERNEST HEMINGWAY (I899-1961)
was an American journalist, novelist
and short story writer. He is internationally acclaimed for his works
The
Sun Also Rises, A Farewell to Arms, For Whom the Bell Toll and his
Pulitzer
Prize-winning novella, The Old Man and the Sea.
Hemingway's writing style is characteristically straightforward and
understated, featuring tightly constructed prose. He drove an ambulance
in
World War I, and was a key figure in the circle of expatriate-artists
and
writers in Paris in the 1920s known as the "Lost Generation.” Hemingway
won the Nobel Prize in Literature in 1954.
NKTV
Thật tình cờ, Gấu đọc bài viết
của Thầy Cuốc, cùng lúc, đọc Yann
Martel, tác giả ‘Life of Pi’, và bài viết của ông về ‘Ngư Ông Và Biển
Cả’, và
bèn nhớ đến câu phán để đời của Bố Già Hemingway: Con người có thể bị
hủy diệt,
[như một Miền Nam đã từng bị huỷ diệt], nhưng không thể bị gục ngã
[defeated,
bị đánh bại, thất trận…], và cũng không thể bị… ô nhục, tất nhiên!
Vì ô nhục còn khốn nạn hơn cả
gục ngã!
Martel gọi cái sự không thể bị
gục ngã này, là ân sủng dưới sức
ép, ‘grace under pressure’, và vì cái từ ân sủng này, có thể, mà ông
viết, cách
viết của Hemingway đưa chúng ta tới cội nguồn của nó, là.. Thánh Kinh!
Bài viết, đúng ra là cái thư
gửi Ngài Thủ Tướng Candada, đề nghị
Ngài nên đọc một số tác phẩm, trong có Ngư Ông, ngắn, post ra đây, và
nhân đó,
lèm bèm tiếp, lèm bèm mãi...
The
Old Man and the Sea is an intimate work of the soul. And so I
wish upon you
what I wish upon all of us: that our return from the high seas be as
dignified
as Santiago's.
Yours truly,
Yann
Martel
Đây là câu
chúc tuyệt vời nhất của tác giả Life
of Pi, gửi tới chúng ta, những đấng Mít hải
ngoại, đang 'vô tri', muốn bò về xin VC tí 'tri tri':
Ngư Ông và
Biển Cả của Hemingway là một tác phẩm thầm kín của tâm hồn. Và
như vậy tôi cầu
chúc thủ trưởng điều mà tôi cầu chúc tất cả chúng ta: rằng cái chuyện
trở về từ
biển cao kia thì cũng bảnh tỏng như là của Santiago: mang được cái bộ
xương của
kẻ thù về cùng với mình!
*
Good
Manners
in the Age of WikiLeaks
Slavoj
Žižek
Mémoirs
Đóa hoa
hồng vùi quên trong tay
Phận
lưu vong
Khi Gấu về
VN năm 2001, thì cầu Việt Trì đang trong giai đoạn thi công, under
construction, như trên. Đây là cái bãi sông ngày nào ông cụ Gấu bị đấng
học trò
làm thịt. Bà cụ Gấu, sau này, có lần nhìn thấy anh học trò làm thịt
chồng, chỉ
cho Gấu, và nói, tao nhận ra nó, vì cái quần dạ mà nó đang mặc là của
bố mày, có
1 lỗ thủng, do chuột cắn, tao vá lại, nhờ vậy mà nhận ra.
Thú thực, lúc
đó, Gấu chẳng thấy thù oán, có thể là do quá bất ngờ.
Lạ, là sao còn
nhớ mãi kỷ niệm này?
Về lại Bắc,
bà chị ruột cũng nhớ, nhưng những chi tiết thì lại khác hẳn.
Ở hay Về?
V/v Hoàng Ngọc
Hiến ra đi
Hoàng
Ngọc Hiến
[NQT chụp tại nhà riêng của ông,
tại Hà Nội, Tháng Sáu, 2001].
Cái hình ở
trên bài viết của
BBC về HNH là của Tin Văn đấy nhé!
Câu này được
‘gợi hứng’ từ 1 câu chuyện tiếu lâm, "còn cái ô là của chú đấy
nhé", do HHT
kể, trên báo Ngôn Luận, chắc thế,
GNV không đọc, nhưng lại nghe một em kể cho nghe, lần đến nhà em trồng
cây si, ở
ngay phòng khách, dòng dã cả một thời đi học, cùng với cả đám Thất Hiền.
Hai chị em,
nghe nói đã từng học CVA, thế mới lạ, quen biết nhạc sĩ CT, rất nổi
danh tài sắc.
GNV mê cô em, nhưng dưới mắt em, thì Gấu quá cù lần, thành ra cũng chỉ
yêu theo
cái kiểu "chiêm ngưỡng và kính trọng."!
Cả đám mê
hai em, tối nào rảnh là cũng kéo đến nhà. Em nào nhảy đầm cũng giỏi, và
rất mê,
Gấu nhà văn đành phải nhờ bạn C. đứng đầu Thất Hiền, về cái môn này,
dạy cho
vài đường, tango thì 4 bước nhé, hay là valse chậm, nhưng Gấu mê nhất
là điệu
boléro, điệu này thì chẳng học cũng biết, hình như còn có tên là ‘bà
già đi chợ’,
hay ‘bà già đạp xế đạp’!
Câu chuyện
tiếu lâm, "còn cái ô là của chú đấy nhé", hình như Gấu cũng đã từng
lèm bèm rồi, nhưng nhân cái vụ BBC chôm hình của TV bèn lôi ra kể lại,
cũng là
1 cách cảnh báo mấy đấng Bắc Kít làm cho Đài này, chớ có nghĩ là ăn
cướp được
Miền Nam, thì cái gì cũng được phép ăn cướp.
Gấu vì quá
nhớ Đất Bắc mà mò về, có thể mất mạng với VC, nhờ vậy mà có được tấm
hình kỷ niệm
với nhà văn hóa số 1 Bắc Kít, ‘cái nước mình nó vốn vậy’, vậy mà mấy
anh bồi Hồng
Mao cứ làm như đồ chùa, đâu có được!
Trên TV đã
ghi rõ: Bản quyền Tin Văn, nhưng tha hồ xài, nếu dùng cho cá nhân, for
personal
use. BBC ban tiếng Việt, tốt nhất, nên rút tấm hình xuống, như thủ
tướng VC ra
lệnh dẹp [?] mấy cái bài “bốc thuý” ông, dịch từ báo chí quốc tế, mà
anh cớm
chính trị khui ra.
Nếu không,
thì GNV đành… chịu thua, cái sự lì lợm của… Bắc Kít!
Hà, hà!
Bài vở trên
TV đa số là đồ chôm, "biệt kích văn nghệ" mà, thành thử gặp cái thằng
nó ‘bựa’ hơn mình, thì đành "đi hàng đầu"!
Hai chị em
K/D này, Gấu mê cô em, còn cô chị thì lại thương 1 trong Thất Hiền, và
cuộc
tình này
cũng thê lương lắm lắm. Ông bạn TTT [không phải Thanh Tâm Tuyền nhe],
trong Thất
Hiền, coi cô là bạn, nhất định như vậy, mà cô thì không nhất định như
vậy, thế mới
khổ. Khi anh bạn của Gấu đi lính, ra trường Thủ Đức, được đưa đi tiền
đồn heo hắt,
cô mò đến tận nơi, nhất định ngủ lại, nhưng vẫn không đạt được sở
nguyện, Gấu
phải công nhận ông bạn của mình thuộc đấng đại quân tử.
Cô em do chỉ mê những đấng
đại tài tử đẹp trai như Gregory Peck, thấy anh cu Gấu vừa lùn vừa lé,
và mỗi
khi chiêm ngưỡng cô, thì mắt càng lé xệch mãi ra, vừa ngố, vừa thảm,
vừa thê,
không thể nào chịu được, có lần cô phải quay đi, và, bật cười!
Gấu đã từng ngồi với mấy ông quân cảnh, và những ông này đã thách đố
nhau, bằng
mọi cách phải tóm cho được cái thằng trốn lính đó!
Và người cứu TCS là LKC, người chở TCS đi rong chơi, qua mặt đám QC là
Đại Tá
[?], ký giả, nhà văn, nhà tâm lý chiến Văn Quang, hình như ông có viết
về cái vụ
này?
Chính cái nỗi sợ chết đó, mà ông không thể nào trốn chạy, dù muốn, hoặc
không,
làm cho ông nhận ra cái vô thường, như một nhân vật của Malraux đã từng
được mở
mắt ra: Làm đếch gì có cái chết, la mort, mà chỉ có tao đang chết.
Nếu ông bố không bị tai nạn, mất, thì có thể ông cũng theo cái đám tinh
anh Miền
Nam chạy một mạch mất tiêu rồi. Đó là rủi hay may cho ông, chưa biết,
nhưng rõ
ràng là, vì không thể chạy trốn, ông đành ở lại, và trốn lính, và phát
giác ra,
âm nhạc, và còn phát giác ra, theo tôi, cái điều mà nhà thơ Nga phát
giác, khi
viết:
Blessed is
he who visited this world
In its fatal moments
Akhmatova: Third Elegy [1945]
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi,
Vào đúng lúc thê thảm như thế này.
KAFKA
IN PRAGUE, Summer 1996
by Peter Haigh
Zlata
ulicka, Golden Lane, in
the Hradcany Castle high above Prague. As good a place as any to start
a search
for Kafka, who lived here in the winter of 1916, lodging with his
sister and
writing short stories. It's an apparent blind alley, hidden among the
castle
complex, and jammed with tourists. Amid a babel of comprehended
languages, each
person videos, photographs and records the others; the international
leisure-time action of mutual surveillance. Surely Kafka is here. A few
people
stop at the doorway of number 22, its windows full of books and
trinkets, no
longer a dwelling, now merely a premises like all the houses in the
row. They
stand their ground, a little tribute, against the flowing, jostling
crowd around
them. But Kafka rubs shoulders with strange company in this row of
miniature
dwellings. There are alchemists and charlatans, Imperial bodyguards and
those
goldsmiths who gave their name to these dolly-houses in dolly mixture
colors.
Such a little man, Kafka is elbowed into the corner of doorway 22 by
this loud,
flamboyant crowd. He has left one trace here, a little photo pressed
against
the window, but like Klamm, Kafka was here and now he's gone.
Out through the castle
courtyards and into the narrow labyrinth of the Mala Strana, glad to be
pulled
down towards the river and not climbing up. Even in mid summer, it's
easy to
picture these lanes and alleys, clinging to the castle rock, deep under
falling
snow. They were always too steep for exhausted land surveyors and can
still
mock many a tourist. Here, K is everywhere; K, but not Kafka.
Over Charles Bridge to the
busy tourist shops and stalls in and around Karlova, Kafka's face is
everywhere. He looks out from mugs and posters, key rings and ash
trays. From
1968 to 1990, Kafka's work was unpublished in Czechoslovakia. Now his
image is
a commodity to be marketed to tourists from across the world. It's a
symbol
proclaiming kinship. Its an identity card. Every other tee-shirt on the
rack
has the same face across it; the same large dark eyes, the narrow jaw,
a high
stiff collar, neck tie, the formal business suit. Here, you'll find
Kafka on a
tee-shirt but never in one.
Staromestska namesti, the old
town square, the traditional heart of the city. It was in and around
this area
that Kafka spent his formative years and today the square strenuously
tries to
claim him. On one the corner is the Goltz-Kinsky Palace, where, on the
third
floor Kafka attended the strict German Gymnasium. His father owned
shops in and
around this square, putting up the sign of a crow, a pun on the family
name. By
the old town hall is the Renaissance Dum U minuty where Kafka lived
with his
mother and father for seven years after they moved out of Josephov in
1889.
These beautiful buildings capture little of Kafka except perhaps that
sense of
withholding, their baroque facades concealing much, much older
buildings. The
squalid, oppressive architecture of the novels comes directly from
Josephov,
that legendary nightmarish ghetto just to the north of the square. A
foul
coagulation of choked alleys and airless hovels, this is where Kafka
was born
and he carried the place in his head for the rest of his life. A place
of
violence, corruption, suspicion and pogrom, but we find more of
Josephov in
Kafka's head than of Kafka in Josephov. Before Kafka was in his teens,
the old
Josephov was gone, swept away in a burst of urban renewal leaving
behind only
the synagogues and the cemetery among the quiet five story apartment
buildings.
A place to rest and reflect before one last attempt to find Kafka, back
to
where he began.
If the old town square fails
to hold onto Kafka, Josephov at least has his head. On the corner of
Maislova
and Kaprova was the Battalion schnapps bar, more famous in its time in
Prague
than Kafka was in his. It was above this bar, on the 3rd July 1883,
that Kafka
was born. The original building long since demolished, a head now sits
in the
wall of its replacement. Long-headed, sightless and bronze-faced, this
is not
the anxious, questioning feverish Kafka. This is our Kafka, Kafka the
idol,
accepting homage and offering nothing. Kafka of the empty, hollow head.
His body lies in
the New
Jewish Cemetery in Zizkov along with his mother and father. The
cemetery is
over half empty, the generation that was expected to fill it were
transported
to the death camps in the 1940's, among them Kafka's three sisters. A
bleak
place, I didn’t go.
So is Kafka to be found in
Prague? Yes, in this beautiful, haunting, elusive city you will catch
glimpses
of him everywhere but you will only meet him full-face in the texts. You
won't
find the key to Kafka by visiting Prague any more than you need to
explore
Dublin to unlock Joyce's Ulysses. But should you walk the streets and
squares
and alleys of the city you will find, after you leave, that you
understand a
little more of what Kafka meant when he wrote, "Prague never lets you
go... this dear little mother has sharp claws."
Note: Một
bài thần sầu về Kafka, và Prague của ông:
Thân xác của ông thì nằm ở nghĩa địa
Tân Do Thái ở Zirkov cùng với ông via bà via. Quá nửa nghĩa địa trống
không,
cái thế hệ đúng ra sẽ làm đầy nó, thì đều vô trại tử thần, vào thập
niên 1940,
trong có mấy bà chị/cô em của ông.
U ám quá, tớ đếch dám tới
Vậy là không thể kiếm thấy K, ở P? Làm sao không?....
Trang Kundera
La mémoire de Prague: Hồi
ức Prague
Pour Kundera, «Kafka est
le prophète d'un monde sans mémoire»
et Gustáv Husák, septième président de son pays, est le «président de
l'oubli».
Pour lutter contre l'oubli, les Tchèques ont trouvé la meilleure
solution:
écrire. Ils furent aussi les premiers à élire un écrivain, Václav
Havel, comme
président.
Khi
Đỏ
là Đen
|
|