|
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Poem
(To A)
I shall miss you so much when I'm dead
The loveliest of smiles
The softness of your body in our bed
My everlasting bride
Remember that when I am dead
You are forever alive in my heart and my
head
Harold Pinter
[Granta 100. Winter 2007]
*
To M
Hãy nhớ là khi Anh chết
M sẽ sống hoài trong trái tim của Anh.
*
Welcome
to my world: Hub Cafe - Tecapro
Park
18A Cộng Hòa Q.Tân
Bình, từ 16.05.09. M
Tối hôm qua, trong lúc chờ
mail M, Anh mới ngộ ra một điểu là, hai câu thơ của me-xừ PTD quả là
đúng cho
cuộc tình tưởng tượng của hai ta:
Cùng mắc võng trên rừng
Trường
Sơn,
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm.
Anh ở một đầu: ở đầu và ở cuối
một cuộc chiến.
M ở một đầu: khởi đầu một
cuộc đời.
Gặp nhau đã khó, xa nhau lại
càng... dễ! NQT
*
Letter from a Reader
Too
much about death,
too many shadows.
Write about life,
an average day,
the yearning for order.
Take
the school bell as your
model
of moderation,
even scholarship.
Too
much death,
too much
dark radiance.
Take a
look,
crowds packed
in cramped stadiums
sing hymns of hatred.
Too
much music
too little harmony, peace,
reason.
Write
about those moments
when friendship's
foot-bridges
seem more enduring
than despair.
Write
about love,
long evenings,
the dawn,
the trees,
about the endless patience
of the light.
Adam Zagajewski
Dịch từ tiếng Ba Lan: Clare
Cavanagh
Trang thơ Adam Zagajewski
100 năm
ngày sinh
của Simone Weil
L'autre Simone
Trang
Simone Weil
Bad Friday
Đọc
& Dịch Weil
Thánh
Simone - Simone Weil
Ngày xưa, nước tiểu
Thảo Trường
30.4.2009
Huế Mậu
Thân Album
Huế Mậu
Thân 1968: Lính Mẽo di tản thường dân
Đồng bằng sông Cửu Long, 1965
The masterpiece that killed
George Orwell
In 1946
Observer editor David
Astor lent George Orwell a remote Scottish farmhouse in which to write
his new
book, Nineteen Eighty-Four. It became one of the most significant
novels of the
20th century. Here, Robert McCrum tells the compelling story of
Orwell's
torturous stay on the island where the author, close to death and beset
by
creative demons, was engaged in a feverish race to finish the book
The Spokesman and the Tribe
Vào lúc
tập tành viết, nhà văn
thường đụng một số câu hỏi, tại sao viết, viết cho ai, viết để làm gì,
và những
câu trả lời sẽ mở ra viễn ảnh, đưa tới những đề tài, và có khi còn
quyết định luôn cả văn
phong của người đó. Trong những câu hỏi, “viết cho ai” nhức đầu nhất,
bởi vì nó
liên can tới cảm quan của người viết, về căn cước và truyền thống của
anh ta.
Trong lời tựa cho cuốn "Giữa
những im lặng", tập thơ đầu tay, tôi viết, “Là một người may mắn, tôi
viết cho đồng
bào không may mắn của tôi, những người đã đau khổ, đã chịu đựng, và đã
tiêu trầm
ở dưới đáy của cuộc đời, những người đã tạo ra lịch sử, và cùng lúc, bị
biến thành
điên khùng, điêu tàn huỷ diệt vì nó.” Tôi nhìn tôi như là một nhà văn
TQ, viết
văn bằng tiếng Anh, nhân danh những người TQ bị trà đạp.
Tôi không để ý đến sự phức tạp
và bất khả thực hiện khi tự ban cho mình một vị trí như vậy.
Vả chăng, thành thực, hết sức
thành thực, thành khẩn… là một điều hết sức nguy hiểm. Nó có thể làm nổ
tung cái
đầu của bạn.
Dọn Kít
Lời toà
soạn : Chúng tôi vừa
nhận được tập tản văn THẤY PHẬT của tác giả Cao Huy Thuần (Phương Nam
& Nhà
xuất bản Tri Thức, 2009, 340 trang).
Giới thiệu tác giả và tác
phẩm, cũng bằng thừa. Nhưng chúng tôi cũng xin mượn cớ để đăng dưới đây
bài
viết mào đầu của Bùi Văn Nam Sơn.
Diễn Đàn
*
Cũng bằng thừa!
Phách lối hơn cả… thằng cha Gấu!
Nhưng Cao Huy Thuần
là thằng cha nào vậy, cà? (1)
CHT thì cũng đại khái, ghê gớm
chi đâu. BVNS thì cũng chỉ là một tay dịch giả. Đọc bài viết mào đầu,
thì cũng
nhăng nhít chạy qua ông này một tí, bà nọ một tẹo, đã có gì của riêng
mình, mà
cũng một lũ áo thụng vái nhau? Thử hỏi, đã làm được cái gì chưa? Vào
lúc
đất nước
khốn khổ khốn nạn như bây giờ, mà cũng... Thấy Phật, ư?
(1) Có
thể CHT còn tí ti khiêm tốn, và tự trọng,
nhưng đám ngu này vụng về thổi, khiến ông nhột, chăng?
*
V/v nhà
văn hạnh phúc.
Nguyên Sa là một nhà văn
dễ
dãi và hạnh phúc.
Chỉ một câu phán như thế, khi
đọc tập truyện ngắn "Mây
Bay
Đi" [thì bay mẹ nó đi
cho được việc!], của NS, mà Gấu được ông ban cho cái nick trứ danh, tên
"sa đích
văn nghệ"!
*
Steiner cho biết, Koestler
không làm sao hiểu nổi, một con người hạnh phúc. Theo George Mikes,
người viết
tiểu sử K. [Arthur Koestler: The
Story of a Friendship], một người đàn ông
hạnh phúc là một cái gì đó gợi sự tò mò, và quá nữa, gợi niềm bí ẩn,
đối với Koestler.
Làm thế nào một người đàn ông, hoặc đàn bà, có đầu óc, có cảm
giác, lại
có thể hạnh phúc giữa một đống tởm lợm của lịch sử đương thời?
[“A happy man”, remarks
Mikes, “was a strange curiosity, almost a mystery for him.” How could a
thinking, a feeling or woman be happy amid the bestial follies, the
waste, the
suicidal blindness of contemporary history? G. Steiner: La morte d’Arthur].
Tuy nhiên, vào những này đẹp
trời, Koestler ánh lên niềm đam mê cuộc đời, cực kỳ hân hoan hớn hở
trước điều
không biết, a deep merriment in the face of the unknown. Ông như sướng
điên lên,
với tư tưởng của Nietszche, rằng, có, ở trong đàn ông và đàn bà, một
động cơ
còn mạnh hơn cả tình yêu, hận thù hay sợ hãi. Đó sự quan tâm - that of being interested - đến một tri thức, một
vấn đề, một hóp bi, một tờ báo của ngày hôm sau. Koestler là một người
cực kỳ
quan tâm…
Đọc mấy ông CHT [chỉ qua cái
tít], BVNS [qua bài mào đầu], Gấu thiển nghĩ, cũng một thứ nhà văn, nhà
tư tưởng,
nhà triết gia ‘dễ dãi và hạnh phúc’! NQT
*
Theo Gấu, Mít chúng ta, chỉ có
độc nhất một người mơ thấy Phật, và có thể, đã thấy Phật. Đó là Hồ Hữu
Tường,
thời gian ông bị Diệm kết án tử hình, và trong khi chờ lên đoạn đầu
đài, ông viết
Trầm Tư, và mơ Đức Phật trở về với dân Mít của chúng ta, trong một trận
sống mái
với Quỉ Đỏ.
*
Như nhiều người đã biết, Hồ
Hữu Tường lúc đầu theo Trotsky, dính vô vụ Bình Xuyên và bị ông Diệm
kết án tử
hình, sau nhờ sự can thiệp của một số nhà văn, trí thức tên tuổi trên
thế giới,
án tử hình đổi thành khổ sai chung thân, tại Côn Đảo. Trong lúc đối
diện với
cái chết, ông viết "Trầm tư của một người bị tội tử hình", và mơ
tưởng Đức Phật lại trở lại với thế gian này. Hồi còn mồ ma tờ Nghệ
Thuật, Thanh
Tâm Tuyền có viết một loạt bài về cuốn Trầm Tư, qua đó ông cho rằng
giấc mơ về
sự nhập thế của Đức Phật cũng nát tan như mảnh đồng bằng chằng chịt
những bờ
của Miền Bắc. Thanh Nam, lúc đó là Tổng Thư Ký tòa soạn, nói đùa, bộ
anh tính
đụng vô vị thần linh Miền Nam hay sao. Ít người biết chuyện, chính Hồ
Hữu Tường
đã quyết định con đường cầm bút của ký giả Ba Tê (bút hiệu của Thanh
Tâm Tuyền
khi viết trên mục Tạp Ghi của nhật báo Tiền Tuyến tại Sài-gòn). Khi Hồ
Hữu
Tường làm tờ Phương Đông [hay Đông Phương?] tại Sài-gòn, Thanh Tâm
Tuyền lúc đó
còn là sinh viên ở Hà-nội, có gửi bài tham dự cuộc thi truyện ngắn.
Truyện được
giải nhì, không được đăng, vì không thể đăng được. Người viết được nghe
bà cụ
của thi sĩ kể lại, những ngày còn đi học, đám chúng tôi, những bạn bè
của người
em thi sĩ, vẫn lấy nhà bà cụ làm nơi tụ họp.
Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm
Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi
nhập thế
trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con
người nào,
mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và
chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho
các đa số
các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre:
Con người
bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.
(Sisyphe là
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh
núi, hòn
đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Như lính giữa rừng
Chim thiêng
Bạn chỉ
sống hai phùa. (1)
Một phùa, Bố Mẹ ban cho,
Phùa kia,
Khi bạn nhìn vào tận mắt Thần
Chết.
You only live twice
Once when you are born
And once when you look death
in the face
Ian Fleming: You only live
twice
(1)
Phùa: Từ
"fois", lần, tiếng Tây.
Coetzee
viết về Brodsky: Thi
sĩ đòi cho thơ cái quyền giáo dục và cứu rỗi con người. Và nếu như thế,
vị trí
của ông, về vấn đề này, gần gụi với Cổ Athens, khi họ dậy nam sinh viên
[không
có nữ], thế chân vạc của âm nhạc [nhạc làm cho tâm hồn nhịp nhàng, hài
hòa: to
make the soul rythmical and harmonious], thơ, và thể dục.
Plato
đạp đổ thế chân vạc, ba
còn hai: nhạc nuốt thơ, và trở thành môn học chính về tâm thần và tinh
thần
[the principal mental/spiritual discipline].
Những
quyền năng mà Brodsky
phán, thuộc về thơ, có vẻ như thuộc về âm nhạc nhiều hơn, theo Coetzee.
Thời
gian là chốn đồng vọng, the medium, của nhạc hơn là của thơ: Chúng ta
đọc thơ
trên trang giấy in, nhanh cỡ nào tùy theo chúng ta thích hay không
thích, trong
khi chúng ta nghe nhạc, ở trong thời gian của riêng nó.
Thời gian của riêng nó, với
nhạc vàng nhạc sến của Miền Nam,
đúng là cái thời để yêu, để hát, và để chết!
Gấu này đã kể, về cái lần đầu
nghe Tình Nhớ, của TCS, khi nó vừa mới ra lò, trong đêm khuya, khi đối
diện với
cái giường sắt lạnh lẽo nơi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, và tưởng
tượng ra
rằng, có thể đứa em trai đã từng nằm, chính cái giường này, trước khi
bỏ đi xa.
*
Bài viết thời để yêu, để hát, và để chết!, không hiểu có phải vì biến cố 30
Tháng Tư mà đứng đầu liền tù tì hai tháng, trong số những bài
được đọc nhiều nhất.
Thừa thắng xông lên, Gấu bèn viết, về một thời để yêu, để hát, và - vì
không chết - để đi tù... VC!
Kỷ
niệm, kỷ niệm
|