|
Krishnamurti
Note:
Bài dịch này, còn trong dạng nháp.
Đây là một tác phẩm khó nhai nhất của K.
Post lên, từ từ sửa, biết đâu bạn đọc TV có cao kiến gì đóng góp.
Tks.
QTN, dịch giả.
Từ Sổ tay của Krishnamurti
27 Tháng Sáu 1961
Tạo hình thức hay dùng ngôn
từ để nói về tất cả điều này xem ra rất vô ích; ngôn từ dù chính xác
đến đâu,
sự mô tả dù rõ ràng thế mấy, cũng đều không chuyền đạt được thực tại.
Có cái
đẹp tuyệt vời và không thể nói thành lời, trong tất cả điều này. Chỉ có
một chuyển
động đời sống, bên ngoài và bên trong; chuyển động này không thể chia
cắt, dù
nó bị phân chia. Bị phân chia, đa số đi theo chuyển động bên ngoài, là
kiến
thức, ý tưởng, lòng tin, uy quyền, sự an toàn, sự thành công, và v.v.v.
Phản
ứng lại, là phần đi theo đời sống bên trong, có ảo tưởng, hy vọng, khát
vọng,
bí ẩn, mâu thuẫn, tuyệt vọng. Vì chuyển động này là một phản ứng, nó
xung đột
với chuyển động bên ngoài. Cho nên có mâu thuẫn, với sự đau đớn, âu lo
và tránh
né. Chỉ có một chuyển động, nó là bên ngoài và bên trong. Khi hiểu bên
ngoài,
thì bên trong bắt đầu chuyển động, không đối nghịch hay mâu thuẫn. Khi
mâu
thuẫn bị loại trừ, trí óc, dù bén nhậy và cảnh giác cao, vẫn trở nên
yên tĩnh.
Khi ấy chỉ chuyển động bên trong có giá trị và quan trọng. Từ chuyển
động này
mới có sự khoan dung và lòng trắc ẩn mà nó không là thành quả của lý lẽ
và sự
quên mình có chủ đích. Bông hoa đẹp rực rỡ khi nó có thể bị bỏ quên, bị
để qua
bên, hoặc bị hủy diệt. Tham vọng không biết cái đẹp. Cảm nhận cái cốt
lõi mới
là cái đẹp.
28 Tháng Sáu 1961
Điều thiêng liêng không có
vật tượng trưng. Một hòn đá trong một ngôi đền, một hình ảnh trong một
nhà thờ,
một biểu tượng thì không thiêng liêng. Người ta cho chúng là thiêng
liêng, điều
gì đó thần thánh để được thờ phượng là vì những hối thúc phức tạp, sự
sợ hãi,
và những mong ước. Điều ‘thiêng liêng’này vẫn nằm trong phạm vi của tư
tưởng;
nó được tư tưởng dựng nên và trong tư tưởng thì không có gì mới và thần
thánh.
Tư tưởng có thể sắp đặt những điều rắc rối của các hệ thống, các niềm
tin, các
giáo điều, và những hình ảnh và những biểu tượng mà nó phóng chiếu thì
không
còn thiêng liêng nữa, không hơn gì những họa đồ của một căn nhà hay bản
vẽ của
một chiếc máy bay mới. Tất cả điều này ở trong ranh giới của tư tưởng
và không
có gì thiêng liêng hay huyền nhiệm. Tư tưởng là chất liệu và nó có thể
được làm
thành bất cứ gì, xấu hoặc đẹp.
Nhưng có một điều thiêng
liêng không phải là sản phẩm của tư tưởng, cũng không là cảm giác được
tư tưởng
làm hồi sinh. Tư tưởng không thể nhận ra và
sử dụng nó. Tư tưởng không thể hình dung nó.
Nhưng có một sự thiêng
liêng mà không một biểu tượng hay ngôn từ nào có thể chạm tới. Nó không
thể
truyền đạt. Nó là một sự kiện.
Một sự kiện là điều được xem thấy và cái
thấy đó không qua ngôn từ.
Khi một sự kiện được giải thích/diễn dịch thì nó hết là sự kiện; nó trở
thành
điều gì đó hoàn toàn khác. Thấy là quan trọng nhất. Cái thấy này ở
ngoài
không-thời gian; nó trực tiếp, tức thời. Và điều được xem thấy thì
không bao
giờ lại cũng là điều đó. Không có lại hoặc trong khi ấy. Điều thiêng
liêng này
không có người thờ phượng, người quan sát trầm từ về nó. Nó không được
mua hoặc
bán ở chợ. Giống như cái đẹp, không thể thấy nó qua điều đối nghịch với
nó vì
nó không có điều đối nghịch.
Nó hiện diện ở đây, đổ đầy
căn phòng, tràn qua núi đồi, xa ngoài biển cả, bao trùm trái đất.
Hoàng
Hưng – Thư ngỏ gửi các
vị lãnh đạo nhà nước Việt Nam
về vụ 400 tu sĩ Bát Nhã bị
khủng bố
http://phusa.info/
Thiền sư Nhất Hạnh lần
đầu tiên lên tiếng về vụ Bát Nhã
Friday, October 02, 2009
|
|
|
|
Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong chuyến trở về
Việt Nam vào năm 2007. (Hình: STR/AFP/Getty Images)
|
|
Thiện Giao/Người Việt
VIỆT NAM - Bức thư của Nguyễn Lang, tác giả “Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận,” gởi cho Chủ Tịch Nhà Nước VN Nguyễn Minh Triết, và sau
đó thêm một bức gởi cho nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước, được dư
luận cho là lần đầu tiên Thiền Sư Nhất Hạnh lên tiếng về vụ Bát Nhã,
Lâm Ðồng, Việt Nam.
Nguyễn Lang là bút hiệu của Thiền Sư Nhất Hạnh, được giới trí
thức, Phật tử trong nước biết đến từ lâu qua tác phẩm đồ sộ “Việt Nam
Phật Giáo Sử Luận,” xuất bản trong nước hồi đầu thập niên 1960s, trước
khi ông ra đi, sống lưu vong tại nước ngoài.
Hai bức thư của Thiền Sư Nhất Hạnh được cho là “có nhiều
thông điệp” gởi chính quyền và giới trí thức trong nước.
Trong bức thư từ New York đề ngày 30 Tháng Chín, gởi ông
Nguyễn Minh Triết, tác giả Nguyễn Lang, tức Thiền Sư Nhất Hạnh, viết
rằng:
“...Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có
quyền tới nương nhờ. Ngày xưa trong cách mạng chống Pháp, hàng ngàn
chiến sĩ cách mạng đã từng tới ẩn náu tại chùa và các thầy các sư cô
luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc và che chở. Bây giờ đây cảnh sát và
công an của chủ tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa (tu
viện Bát Nhã ở Bảo Lộc) và các vị ấy đã tìm tới tỵ nạn nơi một chùa
khác (chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc). Hiện thời cảnh sát và công an của chủ
tịch lại đang vây quanh chùa Phước Huệ buộc các vị xuất gia ấy phải ra
khỏi chùa trong đêm nay. Các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không
phải là con cháu của cách mạng. Tôi xin chủ tịch kịp thời ngăn chận
hành động trái luân thường đạo lý này.”
Hai ngày sau đó, tác giả Nguyễn Lang lại viết thêm bức thư
thứ nhì, gởi “nhân sĩ và trí thức trong và ngoài nước,” kêu gọi “liệt
vị kịp thời lên tiếng để che chở cho 400 người trẻ đang bị bao vây và
đàn áp tại chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc.”
Bức thư có đoạn, “Qua 14 tháng thử thách trước bạo động
và đe dọa, họ đã can trường đứng vững, không nản chí, không sợ hãi,
không oán thù, không bạo động, và vẫn giữ được niềm tin nơi con đường
họ đi và vào những giá trị tinh thần của đất nước. Nhìn vào những người
như họ, chúng ta thấy vững lên niềm tin của chúng ta nơi các thế hệ
tương lai của đất nước.”
Và, vì những lẽ ấy, “Lên tiếng bảo vệ cho họ không phải
là quý liệt vị yểm trợ cho một tôn giáo là Phật Giáo mà quý vị che chở
cho những mầm non xanh tốt của tương lai không để bị giẫm nát bởi bạo
hành.”
Ðây là lần đầu tiên Thiền Sư Nhất Hạnh, tức nhà viết sử
Nguyễn Lang, chính thức lên tiếng về vụ tăng ni bị đàn áp và đánh đuổi
ra khỏi tu viện Bát Nhã.
Một số người nhận định, hình thức thư ngỏ, gởi qua trang mạng
phusa.info, và ký tên Nguyễn Lang là cách thức “ẩn chứa nhiều thông
điệp.”
Một đệ tử của Thiền Sư Nhất Hạnh, yêu cầu không nêu tên, nhận
định rằng bút hiệu Nguyễn Lang rất nổi tiếng đối với người Việt Nam,
đặc biệt giới trí thức và Phật tử. Và hành động dùng bút hiệu này thay
vì danh xưng “Thiền Sư Nhất Hạnh” nổi tiếng quốc tế là cách mà vị thiền
sư hơn 80 tuổi “muốn giới hạn hoàn cảnh giải quyết vấn đề Bát Nhã.”
“Thiền Sư Nhất Hạnh muốn nói với chính quyền Việt Nam, là hãy giải quyết vụ Bát Nhã giữa
những người Việt Nam
với nhau.”
Khi Thiền Sư Nhất Hạnh lên tiếng chính thức bằng danh xưng
Nhất Hạnh, “vấn đề sẽ trở thành quốc tế, không thể che giấu.”
Trong khi đó, một số Phật tử khác thì cho rằng, khi dùng bút
hiệu Nguyễn Lang, tác giả bộ sử Phật Giáo Việt Nam, Thiền Sư Nhất Hạnh
muốn nhắn gởi đến cá nhân ông Nguyễn Minh Triết và giới trí thức, rằng
đây là lúc họ sẽ quyết định mai sau lịch sử ghi lại những gì về sự kiện
này.
“Chắc chắn, ông Triết không muốn lịch sử ghi nhận như một
lãnh tụ độc tài, biến Bát Nhã thành một pháp nạn của thế kỷ 21.”
“Và giới trí thức cần là cột trụ vững chắc của xã hội,
luôn lên tiếng kịp thời trước những vấn nạn lớn của xã hội.”
|
|
VHNT là nơi đăng thư ngỏ gửi
Gunter Grass,
yêu cầu ông lên tiếng về trường hợp hai nhà văn Việt Nam xin định cư
tại Đức.
(1) Toàn bộ ban biên tập cùng tham gia, góp ý kiến về bản tiếng Anh của
lá thư.
Gấu, khi đó, tiếng Anh cũng đồ dởm, đọc, dịch thì OK, nhưng viết bằng
tiếng Anh
thì coi bộ còn tệ hơn cái thời ở trại tị nạn, mù tịt không còn biết
động từ nào
đi với giới từ nào!
Một việc làm hoàn toàn mang tính nhân đạo như vậy, chưa nói đến chính
trị chính
em, giao lưu hòa giải, vậy mà Gấu nhờ cậy vài ba nơi khác, đều lắc đầu,
trong
số đó, có tờ Báo Mít Của Mẽo do ông bạn quí làm tổng thư ký, có cả nhà
biên
khảo số 1 hải ngoại, có một ông bạn thân của Gấu, chủ nhà sách VK, ông
này thì
lo cho Gấu nhiều hơn, khuyên Gấu mày làm nhà văn đủ rồi, đừng dính tới
chính
trị. Có cả ông SM, trùm một tờ báo bằng tiếng Anh trên net.
Vụ này chấn động cả ở trong nước, như Gấu được biết, khi trở về lại
thăm Đất
Bắc.
Đây có lẽ là cử chỉ thân ái đầu tiên giữa hai miền, giữa trong và ngoài
nước,
giữa những nhà văn nhà thơ, được thể hiện.
(1) Thư gửi Mr. G, đã được đăng trên một số báo trên lưới, như Việt Báo
online,
Thông Luận online, và sau đó trên VHNT online, của PCL. Báo giấy độc
nhất đăng
lá thư là một tờ ở Washington D.C, của me-xừ Nữu (?), báo Tân Phong
(?),
download từ trên net (?). Thay mặt những người trong cuộc, xin được gửi
những
lời tri ân tới tất cả. NQT
Le
tombeau
Chant d'amour
tragique entre deux
écrivains tourmentés,
In memoriam est un roman magnifique et très noir.
Ngôi mộ
Khúc tình ca bi thương giữa hai nhà văn day dứt, quằn quại,
Tưởng Niệm là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, và rất
đen
Borges à l'infini: Borges, thiên thu, vô cùng.
Borges
en dialogue,
entretiens avec Osvaldo Ferrari
Traduit de l'espagnol (Argentine) par René Pons Éd.1O/18, coll.
Bibliothèques 10-18, 224 p., 7 €.
Dans un texte écrit peu après la disparition de Jorge Luis Borges, en
1986, « La littérature ne sauve pas la vie» (in Utopie et désenchantement), Claudio
Magris se demandait: « Qui est mort voici quelques heures, l'anonyme et
mélancolique homme à la canne, qui peut-être n'a jamais connu l'amour
et qui se perdait dans les méandres des rues et du soir, en
disparaissant dans l'ombre comme un jour qui s'achève, ou bien l'auteur
qui, en jouant, rapide comme l'éclair, avec les nostalgies de cet
inconnu, nous a donné l'illusion que quelques volumes, avec leurs dos
bien reliés luisant sur une étagère, suffisent à justifier une vie dont
nul ne peut pénétrer le mystère? »
Quel est le Borges qui, de 1984 à 1986, devisa avec Osvaldo Ferrari
lors d'émissions diffusées par la radio argentine? Celui qui prétendait
léguer « le rien à personne »; celui qui, dans sa préface à La Monnaie de fer, affirmait avoir
été un causeur hésitant mais un bon auditeur, retenant chaque propos de
son père ou de l'écrivain argentin Macedonio Fernandez; celui qui,
adolescent, voulait être Hamlet, Raskolnikov et Byron; celui qu'on
surnommait El Memorioso, l'homme-mémoire, sans lui souhaiter le
funeste destin de Funes, son personnage à jamais égaré dans le
labyrinthe des souvenirs; ou bien celui qui se présentait devant le
tribunal du « quasijugement dernier» comme le confesseur de l'étrangeté
du monde. Tous ces Borges d'hier, que l'oubli disperse et que la
mémoire transforme, parlent à l'unisson au cours de ces entretiens.
L'oracle de Buenos Aires
y adopte le ton serein caractéristique de Discussion, écrit
en1932, une fois balayés les emportements de sa jeunesse qui lui
faisaient dire dans Lune d'en face: «Face à la chanson des
tièdes, j'ai allumé ma voix aux couchants. »
Lecteur hédoniste, il souligne avec malice qu'il se rapppelle mieux les
livres lus que les incidents biographiques. Cinéphile, il rend grâce
aux metteurs en scène d'Hollywood d'avoir sauvé le sens épique en
réalisant des westerns. « Anarchiste inoffensif », il se déclare
l'ennemi du nationalisme. Écrivain idolâtré aux quatre coins de la
planète, il donne quelques leçons de littérature (l'imagination est un
acte créateur de la mémoire, un artiste ne doit pas chercher un thème,
mais attendre que le thème le cherche), puis résume sa situation en une
boutade: il est devenu une sorte de superstition internationale ...
L'étonnement étant à ses yeux la vertu cardinale, Borges semblait se
soumettre à cette forme d'inquisition (Autres inquisitions est
le titre d'un essai où il interroge certains livres, ces miroirs aux
énigmes) afin d'assouvir sa curiosité pour l'autre, que l'inconnu soit
son alter ego ou lui-même, multiplié à l'infini. Au bout du compte, ce
Borges-là reste un sphinx. Ses paradoxes, ses dérobades, son humour à
la Bernard Shaw, tout autant que sa dialectique, n'aident pas à
débrouiller le mystère. Seuls les vers de Walt Whitman, qu'il célèbre
dans Essai d'autobiographie, donnneraient une idée juste de ce
volume d'entretiens:
«Camarade! Ceci n'est pas un livre;
Celui qui me touche touche un homme. » LINDA LÊ
Le Magazine
Littéraire, Janvier, 2009
Có một điều gì
trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy
tinh
thần của một kẻ nào đó. Họ tự
nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư
Đảng, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng
say chất
vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi
là một kẻ nô lệ,
là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số
không, về mặt
tinh thần. Nói cho cùng một
con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì.
Tuy nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó,
mà để cho
nó đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó,
sự
chất vấn về
những tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự
thực, mà
tới từ sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì,
càng tệ lậu
hơn, đối với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần,
mà còn về
văn hóa - như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.
[There is something in the consciousness of literati that cannot stand
the
notion of someone's moral authority. They resign themselves to the
existence of
a First Party Secretary, or of a Fuhrer, as to a necessary evil, but
they would
eagerly question a prophet. This is so, presumably, because being told
that you
are a slave is less disheartening news than being told that morally you
are a
zero. After all, a fallen dog shouldn't kicked. However, a prophet
kicks the
falllen dog not to finish it off but to get it back on its feets. The
resistance to those kicks, the questioning of a writer's assertions and
charges, come not from the desire for truth but from the intellectual
smugness
of slavery. All the worse, then, for the literati when the authority is
not
only moral but also cultural - as it was in Nadezhda Mandelstam's case.]
Đọc câu trên, bỗng nhớ tới mấy
đấng Đông B, Đông C, Trương Thái Dúi nào
đó, nếu chúng ta
coi Lê Công Định, như là một thứ tiên tri báo Tin Mừng về sự sụp đổ
của chế độ VC.
The emergence of
memory
Trò chuyện với W.G. Sebald: Bài
này trên The New Yorker online, Tin Văn có trích dịch, trong bài Tưởng niệm
Sebald
Đào Hiếu và sự đơn độc 'đáng sợ'
Nhà văn Đào Hiếu từ Sài Gòn cho
biết ngành công an đã buộc ông đóng cửa trang web riêng vì "vi phạm
luật xuất bản".
Trước đây chúng tôi hoạt động
cách mạng, làm Việt Cộng, xuống đường đấu tranh. Khi bị bắt vô tù, quần
chúng biểu tình đòi trả tự do rầm rộ, bây giờ thì không, xã hội im thin
thít, gần như không phản ứng gì.
DH
Cái gọi là quần chúng
trước đây, thì đều là công an bây giờ. Toàn là đồng chí của đồng chí
Đào Hiếu cả. Hay ông anh ruột thịt của ông.
*
Tình cờ vớ được bài
viết He Roared, của Hilary Mantel, trên tờ Điểm Sách London,
số 6 Tháng Tám, 2009, điểm cuốn Danton:
The Gentle Giant of Terror,
của David Lawday.
Mantel nhắc tới một câu của Archimedes: Hãy cho tôi một điểm
tựa, là tôi sẽ bẩy cả trái đất [Give me a place to stand, and I will
move the
earth], và, phán tiếp: Vào Mùa Xuân 1789, cái điểm tựa của bạn đó,
chính là
những con phố ở khu tả ngạn của Paris.
Chỉ cần thò đầu ra khỏi cửa sổ quán cà phê Procope, hầu như tất cả mọi
người
mà bạn cần để lật đổ nhà nước, thì đều ở trong tầm tay của bạn.
Ui chao, đọc câu đó, là Gấu
nhớ ra liền ông VC nằm vùng Đào Hiếu, các đồng bào, và những cuộc
biểu tình của quần chúng của ông, để lật đổ chính quyền Miền Nam.
Gấu thời gian đó, làm một anh
chuyên viên vô tuyến viễn ảnh cho hãng tin UPI, thành ra cứ hơi bị gửi
hình
biểu tình hoài. Nhớ nhất, cái lần tay Horst Faas trùm phòng hình ảnh AP
lên Đài
mang cho ông Hưng, nhân viên AP, những tấm hình biểu tình, trong số đó,
có hình
tay Huỳnh Tấn Mẫm. Fass nói được tiếng Tây, thế là Gấu bèn lèm bèm về
những
cuộc biểu tình... Faas chỉ HTM nằm trên cáng, sau khi bị công an cho ăn
no đòn,
nói, tay này là VC, như tất cả những người biểu tình, hoặc VC, hoặc có
cảm tình
với VC.
Gấu hiện có hai bài viết của Mantel, một về Danton, và một về
Robespierre, đều tuyệt cả. Rảnh rang, post hầu quí độc giả Tin Văn,
và chúng ta sẽ lai rai ba sợi về Cách Mạng Pháp.
Unrecounted
Thơ
trí tuệ vs Thơ tình cảm
Tình
cờ, lật tuyển tập tiểu
luận To Begin Where I Am, của Czeslaw
Milosz, trong có bài viết về Oscar Milosz.
Ông Cezlaw cho biết, vào năm
1924, một cuốn sách nhỏ của Oscar Milosz được
xb ở Paris
dưới cái tít bằng tiếng La tinh, Ars Magna. Cuốn sách
gồm 5 chương, hay,
như tác giả gọi chúng, ‘những bài thơ siêu hình’, bài thứ nhất, được
viết năm
1916. Tác phẩm Les Arcanes, viết năm
1926, xb năm 1927, là một tiếp nối, và còn là một khai triển, cuốn sách
nhỏ
nói trên. Cuốn sau, có độc nhất một bài thơ siêu hình, nhưng phần tiểu
chú [phần
‘còm’, như thuật ngữ hiện đại], thì thật là đồ sộ.
Cezlaw cho biết, vào năm ông
hai mươi tuổi, ông sở hữu cả hai cuốn, và ông thú thực, ông chẳng có
“lại đâm bực”
một tí nào [without exasperation], cả hai cuốn đã quyết định "nghiệp
trí thức" của
ông [both decided my intellectual career].
Thơ Cezlaw Milosz thuộc dòng
thơ trí tuệ.
Câu viết trên, đúng là lời tri ân ông thi sĩ, và còn là bà
con xa của
ông, là Oscar Milosz. (1)
(1) in 1931 he traveled to Paris, where he was influenced by
his distant cousin Oscar Milosz, a French poet of
Lithuanian descent
*
I am Lithuanian poet, writing
in French
Tôi là nhà thơ Lithuanian, làm
thơ bằng tiếng Tây
Oscar Milosz
Thơ Joseph
Huỳnh Văn
Mùa
Cầm Xanh
1. Cầm
Dương Xanh
Ôi khúc cầm
dương sầu quí-phái
Đàn ai
ngăn ngắt trời tây-phương
Người lắng
mơ lên chiều
xanh vương...
Hồng tuôn thanh-thót suốt đêm trường.
Hồng tuôn.
em trắng muốt dương tay
Thôi đã nghìn xưa hương khói bay
Đàn im. tôi biết làm sao thấy
Đêm qua tôi chết quá ngất ngây
Đêm qua tôi chết quá không hay
Đàn im, tôi biết làm sao thấy
Réo rắt. em tinh-khiết buông tay
Réo rắt. em trong suốt như mây
Ôi khúc cầm
xanh sầu quí-phái
Đàn ai. ngăn-ngắt trời tây-phương
Xanh đóa hồn tôi xanh lá lệ
Trong vườn tôi xanh đẫm tinh-sương.
Ôi khúc cầm xanh
sầu quí-phái
Mưa trầm xanh cầm mộ ngát xanh
2. Cầm Nguyệt
Xanh
Ai cầm dưới
nguyệt, ai như mây
Có hoa rất lệ ngát. hiên tây...
Ai xõa tóc xanh, ai đầm áo
Nửa đêm ngất tạnh.
Cầm buông dây...
Ôi nửa đêm sầu
sầu ngất tạnh
sầu như cầm. nguyệt tàn về đâu...
Em hỡi! khi
tay ngà rỏ máu
thì mộ lòng tôi cỏ xanh rồi
Cô cho tôi đắm thuyền năm ấy
Về đầm đìa ngực mà ngất say
Một đêm. tôi uống hết sông đầy
Một đêm. tôi khóc hết thơ ngây
Không rượu tôi về trên bến vắng
Một đêm. tôi ngắm hết mùa trăng
Không rượu tôi về trên bến vắng
Suốt đêm nằm
nuối tóc tơ nàng
Hồ như
cầm dứt dưới trăng tàn
Ai xé lòng như nguyệt thấm mênh mang...
3. Cầm Hồ Xanh
Trầm Mình
Rất xanh,
tóc mới chấm ngang vai
Âm u, chiều tới bên hồ đắm
Muôn trùng thăm thẳm em ngát xanh
Xanh mi. xanh mắt.
và xanh tóc...
Nàng ơi xanh
đắm đuối thiên thanh.
Trong xanh
ai đắm chiều tê tạnh
Chảy khắp dòng em rực ánh hồng
Nhương sao
trong buổi xuân xanh ấy
Xuống tóc. em trắng xóa theo mây
Theo mây....
rồi biết dạt phương nào
Lòng ta rồi sẩy bước nơi nao
Con trăng thơ dại chưa đầy tuổi
Đêm qua tự vẫn đáy sông Hằng.
Ôi một chút
chiều rất mong manh
Một chút chiều xao xuyến đáy thiên thanh. Cầm hồ...
(Cầu mong
con trăng thơ dại kia xanh mai mãi
trong đáy nước xanh)
Tặng Nguyễn
Đạt - đã lưu giữ cho tôi những vần lặng lẽ này.
30.8.1970
Thơ Ở Đâu Xa
Note: Gấu đọc,
lần đầu bài thơ trên, của Beckett, là qua Thơ Ở Đâu Xa của
TTT.
Điều làm Gấu ngạc nhiên, là khúc trên được viết ở trong tù, mà lại viết
cho cô
con gái nhà thơ đọc, mà để nói về 'tôi muốn tình tôi chết'.
Chỉ đến khi BHD mất đi, thì Gấu mới ngộ ra, đây là nói về Hà Nội.
Gấu dùng lại 'điển tích' trên, để viết về BHD, và về Hà Nội của Gấu.
BHD gốc Hà
Nội.
Tôi
muốn tình tôi....
Je
voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản
tiếng Anh của chính tác giả:
I
would like my love to die
and the rain to be
raining on the graveyard
and on me walking the
streets
mourning her who thought
that she loved me
Bản
của Gấu:
Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn]
Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu
Trên
tờ Điểm Sách London, số
6 Tháng Tám, 2009, dưới cái tít Who
to Be, Colm Tolbin đọc “Thư Beckett, 1929-40”, có nhắc tới bài
thơ trên, thoạt đầu Beckett làm bằng tiếng Tây, và “tình tôi” ở đây là
tình bạn giữa Beckett và Thomas McGreevy, một người bạn thân nhất của
ông, một nhà phê bình nghệ thuật và một thi sĩ, hơn ông 13 tuổi. Bài
thơ Lưu vong của McGreevy có
câu:
I knew if you had died that I should grieve
Yet I found my heart wishing you were dead.
Tôi biết nếu bạn chết tôi sẽ đau khổ
Vậy mà thâm tâm tôi lại mong điều đó.
Bài
thơ không đề của Beckett, là từ hai câu thơ trên, của bạn ông.
Bài thơ trên, lần đầu Gấu đọc, là ở trong Thơ ở đâu xa của TTT.
Nhưng, thú vị nhất, hay đúng hơn, thê lương nhất, lại là cái tít của
bài viết của Tolbin. Về những năm tháng thê thảm của Beckett, thời kỳ
1930-1936, Tolbin viết: Vấn đề của ông trong những năm này xem ra thật
dễ, nhưng lại khó giải quyết: it was how to live, what to do, and who
to be, sống thế nào, làm cái gì, là thằng gì. Ông [Beckett] thì khôn
khéo [clever], có học [well-educated], ông nói rành tiếng Anh, tiếng Ý,
tiếng Đức của ông thì thật tốt. Nhưng cuốn sách đầu, truyện ngắn, của
ông không bán được, và ông không làm sao kiếm được nhà xb cho tiểu
thuyết của ông. Ông không biết làm cách nào kiếm sống.
Rất nhiều giai thoại thật tuyệt vời về chuyện Beckett mê tranh của Jack
Yeats. Tình bạn giữa ông và McGreevy là cũng từ chuyện mê tranh Yeats.
Tuyệt Cú
Kỷ
niệm, kỷ niệm
V/v đố kỵ nhỏ nhen.
Về già, sắp đi,
nhìn lại đời mình, thì Gấu hiểu ra rằng thì là mấy đấng bạn quí của Gấu
đều chán
Gấu cả, ấy chỉ là vì mấy ông đếch viết được như Gấu.
Hà, hà!
Gấu rất quí mấy đấng bạn quí,
khen nức nở bạn quí, vậy mà chưa từng được một đấng bạn quí nào ‘xoa
đầu’ cả,
quái thế.
Gánh
Nặng Tuổi Thơ
Đọc
lại V[I]P
Don Quixote
Hiệp Sĩ Mặt
Buồn vs Hiệp Sĩ Sư Tử
DQ
Nguyên Mẫu
Nguyên
mẫu là một mục của tờ văn học Pháp, Le Magazine Littéraire. Số Tháng
Giêng 2009, có một bài viết về cặp Don Quichotte & Pancho Panca,
thật tuyệt, của Benoit Duteurtre. Tin Văn scan để hy vọng lèm bèm về
nó, khi nào hưỡn hưỡn, rảnh rảnh.
Thú nhất, là tác giả tìm ra sự liên hệ giữa cặp Don & Pancho với
những cặp, thí dụ, hai nhân vật trong Của Chuột và Người, và, từ Của
Chuột và Người, móc vào cơn suy thoái kinh tế hiện đại, rồi móc vào cơn
suy thoái tâm linh qua hai nhân vật trong Trong khi chờ Godot của
Beckett. Tuyệt!
Nói gần nói xa, chẳng qua nói thẳng: Đây cũng chính là cách viết Tạp
Ghi của Gấu!
Cái nọ xọ cái kia, chẳng biết đường nào mà lần! [Gấu Cái ghét thậm tệ,
chửi, chẳng khi nào đọc được trọn bài viết của mi!]. Một ông phê bình
gia hải ngoại cho rằng, cách viết của Gấu là từ tuyệt chiêu Lăng Ba Vi
Bộ mà ra!
Nhưng, Lăng Ba Vi Bộ là một “diệu pháp” để tránh đòn. Đoàn Dự chẳng
muốn đánh nhau với ai, học được phép này, thú quá, vậy là khỏi lo thằng
nào đánh mình!
Còn mi?
Thì cũng nói thẳng: Để đánh người! NQT
Kun
Ở Xứ Mít
Milozs ở đây là
ai nhỉ? Ông được giải Nobel hay ông anh em bà con Oskar?
Blog NL
Milosz hay được nhắc tới trên Tin Văn, là ông được Nobel văn chương,
Czeslaw
Milosz, tác giả cuốn Cầm Tưởng, The Captive Mind, nổi tiếng, nhưng bản
thân
ông, thì lại quá chán cuốn này, như có lần than thở, khi viết nó, giống
như ở
trong thế đụng chân tường, ‘cùng tắc thông’, viết cho xong, để còn làm
việc
khác. Ông rất bực, vì đa số chỉ biết ông, qua cuốn đó, như trong bài
viết về
Koestler, thằng cha tưởng mình bảnh, chỉ biết tôi qua tác phẩm Cầm
Tưởng! (1)
V/v Oskar Milosz, trên Tin Văn có bài viết về ông, của Kundera, trong
cuốn hiện
đang lèm bèm, “Une rencontre”.
Czeslaw cũng có một bài về Oskar thi sĩ, On Oscar Milosz, cũng
tới lắm,
in trong To Begin Where I Am, Selected Essays [“Bắt đầu nơi
tôi là”,
tuyển tập tiểu luận]. Tin Văn sẽ post bài này, trong những kỳ tới.
(1)
Với ông, tôi chỉ là tác giả của một cuốn sách, đó là cuốn Cái Đầu Bị
Cùm, hay
Cầm Tưởng, The Captive Mind, mà ông đã đọc và nghĩ là "được". Tuy
nhiên, với riêng tôi, thành thực mà nói, tôi bảnh hơn thế, hoặc khiêm
nhường
hơn, tôi khác thế, không hẳn chỉ có thế: Tôi là tác giả của những bài
thơ mà
ông ta chẳng biết một tí gì về chúng.
Koestler
Kundera:
L'INTOUCHABLE
SOLITUDE D'UN ÉTRANGER (Oscar Milosz)
Dọn
Tiếng Việt: Cọp
và Chó
NHQ VOA
Nhà đại phê bình gọi
Gấu là
chó, và nhân đó, chửi chó.
Hoá ra là chính Gấu này, cũng
tự nhận mình là… chó, như dưới đây cho thấy. Tếu thế.
Chào Mừng Năm Con Chó
Chó Bên Đường
Tôi làm
một chuyến đi, để tự
mình làm quen với xứ sở của tôi, trên một chiếc xe hai ngựa, với rất
nhiều cỏ
khô, và một xô nước uống cho ngựa, ở phiá sau xe. Tôi đi qua một vùng
đồi, hai
bên đường là những nhóm cây thông, con đường dẫn tới một vùng rừng, với
những
mái rạ lấp ló, ẩn hiện sau lùm cây, và từ mái rạ, những tụm khói bốc
lên khiến
có cảm tưởng đó là những căn nhà đang cháy. Tôi đi qua những vùng đồng,
vùng ao
hồ. Thật là thú vị khi cứ đi như thế, mặc tình cho ngựa rong ruổi, và
chờ đợi,
khi, vượt thung lũng tới, và lại nhìn một làng quê từ từ xuất hiện, hay
một
công viên, với một điểm trắng của một trang viện ở trong nó. Và đi tới
đâu, bất
cứ chỗ nào, chúng ta cũng nghe tiếng chó sủa. Con vật tỏ ra hết sức
trung
thành, hết sức mẫn cán, với nhiệm vụ của nó. Đó là khởi đầu của thế kỷ.
Đó là
chấm dứt của thế kỷ.
Tôi không chỉ nghĩ đến những
con người sống ở đó, bao nhiêu thế hệ con người, mà còn nghĩ tới bao
nhiêu thế
hệ chó, đời đời kiếp kiếp chó, cùng rong ruổi với con người, trong cái
cuộc đời
một ngày như mọi ngày. Và thế là một cái tên bật ra, vào lúc tảng sáng,
trước
khi lại ngủ trở lại, tự nó gói ghém hết ý nghĩa của nó: Chó Bên Đường.
(1)
(1) Czeslaw Milosz: Chó Bên Đường
[Road-side Dog, bản dịch tiếng Anh của tác giả và Robert Hass, nhà xb
Farrar, Strauss and Giroux,
New York]
Đọc, tôi cứ tưởng tượng ra,
không chỉ một, mà tới hai con chó bên đường, ở khu miền ngược.
Một, là Nguyễn
Chí Thiện, và những tiếng chó sủa có tên là Hoa Địa Ngục.
Và một, Nguyễn Huy Thiệp và
những tiếng chó sủa mà Những Ngọn Gió từ đỉnh Hua Tát, mang đi xa mãi
xuống
miền xuôi.
Ở đây, trên trang Tin Văn,
này, cũng chỉ là lập lại những tiếng chó sủa, ở vào lúc tận cùng thế
kỷ, và ở
đầu thiên niên kỷ...
(1) Bản tiếng Anh
ROAD-SIDE DOG
I went on a journey in order
to acquaint myself with my province, in a two-horse wagon with a lot of
fodder
and a tin bucket rattling in the back. The bucket was required for the
horses
to drink from. I traveled through a country of hills and pine groves
that gave
way to woodlands, where swirls of smoke hovered over the roofs of
houses, as if
they were on fire, for they were chimneyless cabins; I crossed
districts of
fields and lakes. It was so interesting to be moving, to give the
horses their
rein, and wait until, in the next valley, a village slowly appeared, or
a park
with the white spot of a manor in it. And always we were barked at by a
dog,
assiduous in its duty. That was the beginning of the century; this is
its end.
I have been thinking not only of the people who lived there once but
also of
the generations of dogs accompanying them in their everyday bustle, and
one
night—I don't know where it came from—in a pre-dawn sleep, that funny
and
tender phrase composed itself: a road-side dog.
Nguồn
*
Muốn
dịch cho ra hồn, thì phải có... hồn, mà hồn ở đây, là hồn Việt,
nghĩa là phải rành tiếng Việt.
Đã có lần Hai Lúa nói ra cái ý đó, bị một ông phạng, mày đâu có hồn
Việt, bởi
vì mày không rành văn hóa Việt, chứng cớ là mày chưa từng đọc.. Kinh
Dịch!
Ý trên, theo HL, là một điều kiện tối cần thiết, cho bất cứ một người
nào làm dịch
thuật. Không phải Hai Lúa khẳng định, tao là thằng rành tiếng Việt, văn
hóa
"nước mình".
Tại sao ông ta lại hiểu "sái" đi một chút? Ấy là vì ông ta đã có sẵn
một ý nghĩ nào đó, chắc hẳn là cũng chẳng hay ho gì, về Hai Lúa.
Không phải chỉ ông ta, mà còn rất nhiều "bạn văn" khác nữa.
Lần ra lò cuốn sách "đầu tay" ở hải ngoại, ân cần gửi tặng bạn bè, mấy
ông chủ báo, bị ngay một ông phạng. Lúc đầu, HL còn mừng, mình ra sách,
thiên hạ
đọc, cho vài ý kiến, tốt quá rồi còn muốn gì nữa! Nhưng sau, đọc bài
viết, đọc
ra cái "tiểu tâm" của ông.
Ông này cay, không phải mới đây, từ thập niên 1960 lận. Y chang ông Mít
học trường
Tây, nghĩa là cay, không chỉ HL, mà luôn cả đám thuờng được gọi là
"nhóm
tiểu thuyết mới ở Việt Nam". Trong mục giới thiệu sách báo ở cuối tạp
chí
ông là "giáo chủ", ông phạng cả đám, về lối viết lảm nhảm, láp nháp,
bạ đâu viết đấy, chẳng hiểu thế nào là tiểu luận. Rồi nhân gặp, ông lên
lớp Hai
Lúa: anh không được đi học một trường dậy viết tiểu luận của Mẽo, như
tôi đây.
Viết tiểu luận nó phải như thế này này.
Hai Lúa cứ ngớ người ra. Mình đã cẩn thận ghi ở bìa sách là 'tạp luận",
vậy
mà ông ta cứ bắt phải ghi là... "tiểu luận"!
Cuốn "đầu tay" đó, có tên là Lần Cuối Sài Gòn. Như thế, đây là một tập
truyện ngắn. Do mỏng quá, đành phải nhét thêm mấy "tạp ghi văn học"
cho nó dầy dầy một chút. Ông không thèm đọc truyện ngắn, lo đọc ba đồ
làm xàm,
bá láp. Đọc, xong, rồi chửi! Mối thù mấy chục niên, từ hồi còn trẻ, bây
giờ tao
làm chủ báo, làm giáo chủ một trường thơ, tao mới có dịp phạng cả lũ
chúng mày!
Bởi vậy, một khi đã có chút tiểu tâm, là... vứt đi!
Nhìn rộng ra, có thể nói, các nhà văn của chúng ta, hình như người nào
cũng có
một chút "tiểu tâm", nào đó, khi viết, khi chọn đề tài, khi.... đặt
tên cho một nhân vật....
Là nhà văn, là có một cái bệnh, "nào đó", theo Hai Lúa, nói theo kiểu
Freud, con người là một sinh vật có bịnh.
Và viết, là một cố gắng làm lành bịnh.
Thay vì viết ra để cho hết tiểu tâm, hết bịnh, mấy ông nhà văn Mít của
chúng ta
làm cho bịnh nặng thêm lên!
Bởi vậy, Hai Lúa rất nể cái ông bạn văn VC, ở trong nước [lẽ tất
nhiên!], bị
Hai Lúa "đánh, đau ra trò", mà không giận, năm hết Tết đến, còn viết
mail chúc mừng "đại ca"!
Bảnh thật! (1)
VC mà như thế, thà là VC cho... rồi!
(1) Cám ơn "tiểu đệ", "hiền đệ", "tiểu muội",
"xí muội"..., và bằng hữu.
Giá mà không sợ "Không được nhập cảnh vào Việt Nam!", bị đuổi về xứ
lạnh,
hoặc tệ hại hơn thế, Tết này Hai Lúa đã "xin" về Hà Nội, làm một vài
ly,... thăm "em" đôi câu, mi em một [?] cái, rồi
"anh"... đi, [nhại bài hát Hoa Soan Bên Thềm Cũ của Tuấn Khanh].
Được vậy thì còn gì sướng bằng.
Nếu có phải... hồi chánh, cũng đành!
Thân, HL
Tin Văn Cũ
Suốt mấy
tuần nay cứ nghe lùng bùng bên tai những tiếng gâu gâu mãi, tôi sực nhớ
chuyện
ở nông thôn ngày trước.
NHQ Blog VOA
Ui
chao, NHQ đọc Tin Văn, ‘nghe
lùng bùng bên tai...’ biết đâu lại thành
thi sĩ, ‘như Milosz’, thực hiện được giấc mơ thời mới lớn, như có lần
Người than
thở, giá mà đừng ham cái ghế ngự sử văn đàn, biết đâu đã trở thành một
nhà thơ
có hạng!
*
Michel Foucault, trong một cuộc
trả lời phỏng vấn, khi được hỏi, tại
sao không dính vô (engage) mấy vụ bút chiến (polemics), ông trả lời:
Tôi thích
bàn luận (discussion), và khi được hỏi, tôi cố gắng trả lời. Nhưng đúng
là tôi
không khoái dính tới mấy vụ bút chiến. Nếu tôi mở một cuốn sách mà thấy
tác giả
của nó buộc tội địch thủ, một kẻ tả phái ấu trĩ, tôi đóng liền nó lại.
Đó không
phải là cách làm việc của tôi. Tôi không thuộc về thế giới những người
làm việc
kiểu đó. Đây là điều thiết yếu đối với tôi. Toàn thể vấn đề đạo đức
được đặt
ra. Đạo đức liên can đến việc truy tìm sự thực, và liên hệ với tha
nhân. Những
câu hỏi và trả lời tùy thuộc cuộc chơi - vừa thích thú vừa khó khăn -
trong đó
mỗi bên chỉ được dùng quyền của mình do đối phương ban cho, dưới hình
thức đã
được chấp nhận của cuộc đối thoại. Người bút chiến, ngược lại, tự cho
mình quyền
ưu tiên. Anh ta chẳng bao giờ bằng lòng hỏi. Đối phương không phải là
bạn,
partner, trong cuộc truy tìm sự thực, mà là một kẻ thù, một kẻ sai, gây
hại, một
mối đe dọa. Và anh ta có bổn phận phải tiêu diệt, không cho phép đối
phương được
quyền thảo luận. Mục đích tối hậu của anh ta không là tiếp cận sự thực
khó
khăn, được chừng nào tốt chừng đó, mà là chiến thắng sau cùng, của công
lý
(just cause) anh ta đeo đuổi từ đầu. Kẻ bút chiến tự cho mình cái quyền
hợp
tình hợp pháp, điều mà đối phương của anh bị từ chối ngay từ đầu cuộc
chơi.
Theo M. Foucault, bút chiến là hình nhiễu (parasite figure) của bàn
luận.
Bút Chiến
Bài viết này, (1), bây giờ đọc
lại,
Gấu mới nhớ ra là một bài Tạp Ghi
viết cho tờ Văn Học, về một Số Tết của tờ báo, và về một bài viết của
NHQ,
về ca dao, nói về chuyện Vân Tiên núp lùm, chờ trăng lặn để sờ Nguyệt
Nga.
Bài viết có vẻ như tiên đoán trận đụng độ sau đó, vào năm 2002, và
bây giờ.
Đúng là tránh không khỏi số!
(1) Server cho biết, bài này đang "top", như vậy là độc giả Tin Văn
cũng bị dính vô cái chuyện làm xàm này rồi! Đúng như một tay độc giả
của Blog NL phán:
Mimi said...
Tớ cũng hay đọc TV
của chiến sĩ Trụ. Nói chung vui là chính, vì chửi nhau đấm đá nhau là
mình thú.
Trụ đọc nhiều, chửi cũng hay, cũng ác. Nhưng với tư cách nhà văn thì
các tác
phẩm của Trụ đều phò, đọc chả có mẹ gì hay ho.
September
9, 2009 7:12 PM
Lời phán của
Bạn, ngược hẳn lại của một ông "bạn cũ" của Gấu, vẫn còn ở Sài Gòn.
Nhà thơ Vương Tân, còn viết dưới cái tên Hồ Nam.
Bài
viết, có nhiều sai sót về
sự kiện.
Nhưng chuyện này
"dài" lắm. Để bữa nào rảnh, hầu tiếp. NQT
|
|