|
Bức hình Ngũ Giác
Đài không muốn phổ biến trên báo
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh
Thành Tiên sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, học
qua Petrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, cấp
bậc Thiếu Tá trong
quân đội Miền Nam trước 1975. Sau 1975 ông đã bị giam giữ cải tạo hơn
mười năm.
Hiện ông sống tại Houston (Mỹ).
Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh
Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người
nòng cốt
của nhóm Sáng Tạo. Một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong
trào khai
sinh "Thơ Tự Do" trên văn đàn
Miền Nam
vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển Tập Thơ Thùy Yên (1995) và
Thắp Tạ
(2004) đều được xuất bản ở Mỹ sau khi ông đến định cư ở quốc gia này
vào năm
1993.
Bài thơ Trường Sa hành Tô
Thùy Yên viết tháng 3/1974, chắc là sau một chuyến hành quân công vụ
của ông ra
vùng đảo này. Xin nhớ là, hai tháng trước thời điểm bài thơ ra đời,
Trung Quốc
đã cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974). Chính quyền Việt
Nam Cộng
Hòa khi đó đã điều quân đội ra đánh trả. Máu binh lính Việt Nam đã đổ xuống trên vùng biển vùng đảo
của tổ
quốc để quyết giữ trọn vẹn giang sơn bờ cõi Việt Nam.
Trường Sa hành
Toujours
il y eut cette
clameur
toujours il y eut cette
fureur... (1)
Saint-John Perse: Exil
Trường
Sa! Trường Sa! Đảo
chếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn
bề.
Lính thú mươi người lạ sóng
nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi
đi.
Mùa
đông bắc, gió miên man
thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách
tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Đảo
hoang, vắng cả hồn ma
quỷ,
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ
tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn
lạnh
Lên xác thân người mãi đứng
yên.
Bốn
trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn
nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi
nhanh.
Sóng
thiên cổ khóc, biển tang
chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ
nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu
lệ
Nên tưởng trùng dương khóc
trắng trời.
Mùa gió
xoay chiều, gió khốc
liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong
làn nước vịnh xanh lơ
mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động
mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long
lanh.
Mặt
trời chiều rã rưng rưng
biển
Vầng khói chim đen thảng thốt
quần,
Kinh động đất trời như cháy
đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu
thân.
Ta ngồi
bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng
mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng
điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Chú em
hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu
nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét
trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh
khuya
Xé toang từng mảng đời tê
điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói
với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong
lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng
trưng.
Đất
liền, ta gọi, nghe ta
không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu
trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách
đặc.
Con chim động giấc gào cô
đơn.
Ngày.
Ngày trắng chói chang
như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa
điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa
niên.
Ôi! Lũ
cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn
sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi
ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San
hô mọc tủa thêm cành
nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn
khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm
Người.
3. 1974
(Tạp chí Văn, Sài Gòn)
[Blog Phạm Xuân Nguyên]
(1)
Luôn luôn tiếng la ó đó
Luôn luôn, cơn
giận dữ đó
Saint-John Perse: Lưu Vong
When Saint-John Perse named one
of his poems Exile, Blanchot says, "he named the poetic
condition as well... The poem is exile and the poet who belongs to it
belongs to the dissatisfaction of exile. He is always lost to himself,
[hors de lui-même], outside, far from home [hors de son lieu natal]; he
belongs to the foreign, the outside which knows no intimacy or limit,
and to the separation which Holderlin names when in his madness he sees
rythm's infinite space.
Khi Saint-John Perse đặt tên một trong những bài thơ của ông, là Lưu
Vong, Blanchot giải thích, đó là ông còn đặt tên cho số phận thơ…
Thơ là lưu vong và thi sĩ thuộc về sự bất bình lưu vong. Anh ta luôn
luôn ở ngoài anh ta, ở ngoài nơi sinh, thuộc cõi lạ, cõi ngoài, một cõi
không thân quen hay giới hạn, thuộc về sự chia lìa, phân ly, Hiu Quạnh
Lớn như là Holderlin gọi, khi, trong cơn điên, nhà thơ nhìn thấy cõi vô
cùng của nhịp điệu.
[Cái note này, thấy trong hồ sơ cũ, chỉ có vậy… Gõ Google, ra trang
này]
Có vẻ như những dòng trên, viết về Thơ Ở Cõi Ngoài, Xứ Xở Của Kẻ Lang
Thang Thi Sĩ, Đêm Khác, Other Night, là, để 'giải thích' bài thơ của
TTY?
Nhưng, liệu ông có tiên tri ra được nỗi tù đầy, và lưu vong sau đó, khi
đứng trước cơn la hét, giận dữ của biển, và chắc hẳn, còn là của ông?
Gánh
nặng tuổi thơ
'Bored to
the point of murder' ...
HH Munro.
Photograph: Time Life Pictures/Mansell Collection
Saki
Trong Gánh
Nặng Tuổi
Thơ, Greene nhắc tới Munro, [một trong ba ông, mỗi ông tìm
mỗi cách hất
bỏ gánh nặng tuổi thơ, hai ông kia là Kipling, và Dickens], và tự hỏi,
không biết
ông lấy ở đâu ra bút hiệu Saki.
Bài viết trên Guardian giải thích:
Hector Hugh Munro's pen-name refers either to the cupbearer in the
Rubáiyát of
Omar Khayyam, which is spoken of disparagingly in more than one of his
stories,
or a type of South American monkey. I prefer to think it was the
latter: not
only did Saki have an abiding love for animals, but his mischievousness
and
capability for sudden viciousness are traits that seem, at least to my
limited
zoological knowledge, eminently monkey-like. [Saki là từ tác
phẩm của
Omar Khayyam, chỉ một sĩ quan hầu rượu, hoặc, một thứ khỉ Nam Mỹ]
*
Greene viết, bất hạnh, tuyệt vời thay, trợ giúp, aid, hồi ức, [Gấu đã
từng
dịch ẩu là, bất hạnh là thuốc bổ của hồi ức]. Và những truyện ngắn hay
nhất của
Munro thì tất cả đều là về thơ ấu, sự hóm hỉnh, ẩu tả, anarchy, cũng
như là sự
độc ác, và bất hạnh của nó.
Even when Saki is not writing explicitly
"horrific" stories,
however, the unease is present. His stories are more subtle variations
on what
William Burroughs, writing of Naked Lunch, described as the "frozen
moment
when everyone sees what is on the end of every fork". Or as VS
Pritchett
put it, "Saki writes like an enemy. Society has bored him to the point
of
murder. Our laughter is only a note or two short of a scream of fear."
Saki
Ngay cả
khi Saki không viết về [tuổi thơ]
kinh dị, thì vẫn thật nhức nhối khi đọc ông... Saki viết như một kẻ
thù. Xã hội làm ông buồn bực đến nỗi chỉ muốn làm thịt một kẻ nào đó.
Độc giả đọc ông, "thi thoảng" bật ra một tiếng cười, ấy là do quá sợ!
*
-Sơ Dạ Hương, tại sao?
-Một cái tên mượn từ Lâu Đài Họ Hạ,
truyện Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch. Trong đó chỉ có một từ, là thực.
Phỏng vấn Gấu
Orwell
Orwell, hay là
sự phát minh ra cái thực
1984
cho thấy
một nghị lực sáng tạo thật đáng yêu ở trong cái sự lên án một thế giới
toàn trị,
được làm ra bởi những lời dối trá, những sự phản bội, và khủng long
khủng bố.
Viễn ảnh tận thế là đây này, là của một người đàn ông trơ cu lơ một
thân một mình,
và bịnh, lui về ẩn, một mình, tách biệt hẳn với thế giới, tại hòn đảo
Jura, bên
ngoài bờ biển xứ Écosse.
Bệnh phổi chẳng buông tha ông: Nhập viện Tháng
Chín, 1949, tại Luân Đôn, ông mất Tháng Giêng 1950
1984 là tư tưởng
chính trị nguỵ trang dưới hình thức tiểu thuyết, Kundera viết. Ông kết án Orwell giản luợc con
người chỉ còn một chiều
hướng chính trị, nhưng, đây chính là mục đích tối hậu của Orwell: một
nhà văn
chính trị.
Trong bài viết, “Ở nơi trái
tim của phi nhân”, Philippe Dagen [4 Juillet 2003, Le Monde] gọi Orwell
là một
trong những nhà văn chính trị lớn lao nhất của thế kỷ 20. Nhưng tác giả
cảnh
cáo, đừng có nhầm lẫn nhà văn chính trị, l’écrivain politique, với nhà
văn làm
chính trị, l’écrivain qui fait de la politique, vì phởn, exaltation, vì
hãnh
tiến, vì cơ hội, và cũng đừng lầm một nhà chính trị, nhưng lại cứ muốn
người ta
coi mình là nhà văn; thứ này, thì đầy rẫy ở xứ Tây mũi lõ!
Nhà văn chính trị là một
người viết, bằng kinh nghiệm, bằng lý lẽ, lẽ phải, rằng, cách nói và
viết về
một cá nhân, một quyền lực, là đủ để làm rõ cá nhân đó, quyền lực đó.
Chỉ mặt
đặt tên, là vậy: Liên hệ giữa cách suy
nghĩ toàn trị, mode de pensée totalitaire, và sự hư ruỗng ngôn ngữ, la
corruption du langage, tạo ra một vấn đề quan trọng, chưa được quan tâm
thoả
đáng. Orwell viết năm 1946.
« Pourquoi j'écris»
“POLITICAL
WRITER”, un
écrivain politique, c'est la formule que Bernard Crick s'efforce de
préciser.
“Pourquoi j'écris?” Orwell
lui-même pose la question, dans un article, et y répond; «
... Lorsque je revois mon œuvre, je constate qu'invariablement c'est
quand je manque de but politique que j'écris des livres sans vie, que
je me
trahis en me laissant aller à des compositions décoratives, des phrases
sans
signification, des adjectifs colorés, de la guimauve trafiquée.”
Il serait donc un écrivain
engagé, le pendant anglais de l'intellecctuel de gauche français. En
fait la comparaison
se soutient difficilement et l'originalité singulière d'Orwell
s'affirme,
quand, par exemple, il écrit en 1946, soit deux ans avant la parution
de 1984: “Ce que j'ai le plus desiré faire
tout le long de ces dix dernières années, c'est transformer l'écriture
politique en art.” De fait, il tranche et se démarque nettement de
l'écrivain
militant, bien qu'il se situe sur la gauche du parti travailliste et
qu'il y
milite. «Farouchement égalitaire,
libertaire et démocrate, mais par comparaison avec le Continent d'une
surprenante absence de théorie, un mélange d'évangéliste et de
séculier”,
voilà comment Bernard Crick le dépeint. Ce qui frappe chez Orwell c'est
cette
vocation, ce désir d'écrire qui s'affirme tout le long de sa vie,
révèle un
mode d'être, une sensibilité aiguë, un pouvoir de découvrir et de
restituer,
par les seules voies de la créaation littéraire, un climat, un temps,
un monde
donné .•
Edmund AEC Maleh 18 mai 1981
Tại sao tôi viết? Orwell chính
ông cũng đã đặt ra câu hỏi này, trong một bài viết, và trả lời: “Khi
đọc lại tác
phẩm của tôi, thì y như rằng, cứ khi nào tôi mất mục tiêu chính trị, là
tôi viết
ra những cuốn sách nhợt nhạt, không có đời sống, là tôi tự phản bội
mình bằng cái
trò văn chương hoa hoè hoa sói…”
Ông quả là nhà văn dấn thân của
Anh, theo cái kiểu gọi này, của đám trí thức tả phái Tây mũi lõ.…
“Điều mà tôi mong muốn nhất
trong 10 năm vừa qua, là biến đổi cái viết chính trị thành nghệ thuật”,
ông phán như
vậy, hai năm trước khi 1984 ra đời
*
Bằng một cách nào đó, ở đời, cùng mọi người, bằng một khả năng nào đó,
giúp người, cho người, và ngưỡng mộ [BHD]!
Il s'agit d'une certaine manière de se tenir dans le monde, une
capacité à aider, à donner, à admirer [BHD]
Kỷ niệm,
kỷ niệm
Một
thời để yêu, để hát, và để chết
Ngày
mai đi nhận xác chồng
Theo server, thì 3,
trong số
“top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là:
Phố vẫn
hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi.
Và:
Ngày mai
đi nhận xác chồng.
Ui chao, sao mà
tuyệt đến như
thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
*
Nhắc chuyện cũ, tác
giả Lê
Thị Ý cho biết thêm, “Bài thơ được chọn đăng trên tờ Tranh Ðấu của sinh
viên
Sài Gòn. Học giả Nguyễn Ðức Quỳnh đọc được đã gửi cho bạn ông là nhạc
sĩ Phạm
Duy và Phạm Duy đã phổ nhạc rồi cho phổ biến trên các đài phát thanh
lúc bấy
giờ. Chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cấm.”
Nói về hoàn cảnh bài thơ
được
khai sinh, tác giả Lê Thị Ý cho biết, “Nhà tôi ở gần nhà xác trên
Pleiku. Khi
ấy vào những năm 1969, 70 chiến tranh đang diễn ra thật khủng khiếp.
Không ngày
nào nhà xác không nhận thêm được xác những chiến binh QLVNCH hy sinh
tại chiến
trường. Và những người vợ trẻ thì đứng đầy quanh nhà xác với những vành
tang
trắng thê lương nên hồn thơ được nhập đầy những cảnh thê lương ấy.
“Em không thấy được xác
chàng,
Ai thêm lon giữa hai hàng
nến
trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng,
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng
riêng ai...”
*
Cái chi tiết về NDQ đọc, và
gửi
cho PD, tuyệt!
Có lẽ đã đến lúc phải viết
về
cái kỷ niệm nghe bản nhạc trong tù VC rồi đấy. Gấu bảo Gấu.
Gấu đã lèm lèm vài lần về kỷ niệm này, nhưng chưa viết hết về nó, theo
nghĩa, chưa báo cáo độc giả Tin Văn, để được nghe bản nhạc đó, Gấu phải
trải qua những cơ may huyền diệu, sau những đau khổ khủng khiếp như thế
nào!
Gấu có cảm tưởng, bản nhạc PD sáng tác là chỉ để dành riêng cho Gấu,
trong cái dịp trọng đại đó.
Nó ra đời là để chờ gặp Gấu, vào bữa đó.
Cái món quà con K trao cho Gấu, khi Gấu đi vô tù VC để gặp nó!
*
Gyorgy Faludy, tiếng nói của
kháng chiến
Hung,
mất ngày 1 Tháng Chín, 2006, thọ 95 tuổi
[Người Kinh Tế, số đề ngày 16 Tháng Chín 2006]
Không có viết và mực, ở trong
trại tập
trung Stalinist tại Hung, Gyorgy Faludy dùng cọng chổi để viết, bằng
máu, và
trên giấy vệ sinh. Đau khổ, như một lần ông nói, không phải là một đức
hạnh.
Nhưng ba năm của ông tại Recsk, từ 1950 đến 1953, theo một nghĩa nào
đó, quả là
những năm tháng mặc khải. Tập thơ xuôi, "tản văn", như lối nói hiện
nay, nổi tiếng ở bên ngoài nước Hung, kể lại quãng đời hưng phấn một
cách âm u
đó, darkly inspiring, tức thời gian ông ở tù "VC Hung" được ông đặt
tên là “Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Ở Địa Ngục”.
Vẫn theo một nghĩa nào đó, Mr
Faludy chọn
nhà tù. Ông đã được đề nghị, một cơ may, chạy trốn quê hương, qua Áo
tái định
cư, nhưng từ chối, và lý luận, rằng, tôi phải tận mắt chứng kiến, những
đau
khổ, những rùng rợn, cho dù tới đỉnh cao cỡ nào, mà những người Cộng
Sản mơ
tưởng ra được, cho xứ sở của tôi. Trong bài thơ Mừng Thượng Thọ 70 Ông
Xì, ông
liệt kê danh sách những số phận dành cho kẻ can đảm: giầy đinh thúc vào
mạng
mỡ, đạn bắn vào đầu, và giá treo cổ. Và tất nhiên, làm sao tránh khỏi,
số phận
của thi sĩ, sau bài thơ: Ông chọn nhà tù, chẳng mấy chốc sau đó.
Thân thể trong tù, như Bác Hồ nói, nhưng cái đầu của nhà thơ thì ở bên
ngoài
nhà tù. "Đói khủng khiếp, lạnh cứng người," ông viết, "tôi co
cụm, thu lu thành một đống trên sàn đá, phủ lên người đủ thứ mảnh vải
đầy chấy
rận rệp, áo choàng, giống như một tấm lều, và thở qua tay áo, thổi hơi
thở vô
thân mình để sưởi ấm nó, và cứ thế làm thơ". Khi tay quản giáo chìa cho
ông xem, những bài thơ của người cháu trai của anh ta, nhà thơ nhăn
mũi, phán,
suy đồi, và phản cách mạng.
Tay quản giáo giận tái mặt.
Bị tống vô xà lim, chật cứng, tối thui, nhà thơ trải qua hàng giờ vận
nội lực,
trở thành chết cứng, rồi biến hoá, transfixed, thành một sợi nắng mùa
đông chạy
dài trên sàn xà lim. Ông tưởng tượng mình đang ở Biển Nam.
Ông và bạn tù mở một đại học đặc biệt, dậy thơ ca, lịch sử và văn
chương. Một
bạn tù huýt sáo trọn bài "Don Giovanni" của Mozart, một người khác kể
"Chiến Tranh và Hòa Bình". Nhà thơ đề nghị bạn tù nhớ ở trong đầu họ,
thơ của ông, khi ông viết chúng ra, theo cách như ở trên đã nói. Nếu có
người
nào được thả, thì người này sẽ tới thăm bà xã nhà thơ, và đọc cho bả
nghe.
Ông được thả vào năm 1953, khi Stalin chết, nhưng trại tù chẳng bao giờ
thả
[tha, cũng được] ông. Nó trở lại thí dụ, như trong bài thơ sau đây, làm
vào năm
1983.
Learn by heart this poem of
mine,
Books
only last a little time,
And this one will be borrowed,
scarred,
Burned by Hungarian border guards,
Lost by the library, broken-backed,
Its paper dried up, crisped and
cracked,
Worm-eaten, crumbling into dust,
Or slowly brown and self-combust,
When climbing Fahrenheit has got
To 451, for that's how hot
it will be when your town bums
down.
Learn by heart this poem of mine
*
Hãy học
thuộc lòng bài thơ này của tôi,
Sách thọ đâu được bao lâu ?
Và cuốn này thì sẽ bị mượn, bị vạch nát,
Bị đốt bởi lính biên phòng Hung,
Bị mất bởi thư viện, bị long gáy,
Những trang sách khô, ròn, rồi vỡ vụn ra,
Bị gián, mọt ăn, gặm, nát thành bụi,
Hay cứ thế từ từ vàng ố đi, tự huỷ diệt bằng hơi nóng,
Một khi nhiệt độ leo đến 451 Fahrenheit,
Đó là khi mà thành phố của bạn bị đốt rụi.
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.
Chàng mê thơ rất sớm, và tất
nhiên, không chỉ thơ, mà còn những
quán cà phê Budapest,
và một cuộc sống văn chương. Nhưng ông bố khoa học gia lắc đầu, phán,
Budapest
hiện đã có 20 ngàn thi sỡi, không một thằng nào trong số đó, nuôi nổi
thân. Thế
là ông đóng thùng ông con, tống đi Vienna,
học kỹ sư hóa. Chẳng ông thầy hóa nào biết đến ông, ấy là vì ông dành
thời giờ,
thay vì học hóa, thì là để dịch và cho xb những dòng thơ của Francois
Villon,
một thi sĩ nổi loạn người Pháp, thế kỷ 15, và ông khởi nghiệp thơ của
mình bằng
cách đó. Ông còn viết một bài thơ phạng Hitler và được ông này thưởng
cho 14
năm tù, nhưng ông trốn được, bằng cách giúi tiền vào túi quần tay quản
giáo. Và
khi cuộc chiến bùng nổ, ông chơi một cái thuyền, làm một chuyến du
ngoạn tới
Morocco, tìm cách tới Mẽo, và đăng lính Sao Sọc.
Làm thơ bằng những dấu
chân
chim.
Ông trở lại Budapest
sau chiến tranh,
để chứng kiến, quan sát, điều mà ông gọi là, "một nền dân chủ được xây
dựng lên mà đếch cần đến những người dân chủ" ['democracy being built
without democrats"].
Tháng Mười 1956 Cách Mạng Hung bùng ra, chống lại sự chiếm đóng của
Liên Xô.
nhà thơ tắm đẫm mình vào trong đó, như là một thành viên của phái đoàn.
Phái
đoàn gì cơ chứ? Phái đoàn Hội Nhà Văn bên cạnh Hội Đồng những công nhân
điều
hành cuộc cách mạng. Nhưng khi chiến xa Liên xô tràn tới, ông lại chuồn
đi Tây
Phương: Vienna, Florence,
Malta, New York, và Toronto.
Tại đây, ông sống chung nhà với một tay khiêu vũ, dancer, người Mỹ tên
là Eric
Johnson.
Tay thanh niên trẻ đẹp trai này lần ra dấu vết của nhà thơ tại Malta
sau khi
đọc Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Tại Địa Ngục. Mr Faludy sống tại đây,
sau khi
bà vợ mất. Ông cảm nặng Eric, và làm một số bài sonnets vì anh ta. Tại
Toronto,
họ chia một căn phòng nhỏ cùng với một đôi chim sẻ. Đôi chim thường đậu
trên
bàn máy chữ của nhà thơ. Và chỉ bay lên khi tiếng chuông báo hiệu chấm
dứt một
dòng.
Trên hai chục năm, đến 1989, khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, nhà thơ sống
tại Canada.
Sau
hết, nhà thơ cũng trở về cố hương, sách của ông hết còn bị cấm sau bốn
thập kỷ,
và sống trong trong một căn hộ rộng rãi trông ra sông Danube, do nhà
chức trách
thành phố ban cho ông. Tại quê nhà, ông gây sốc cho nhân dân, khi bỏ
Eric, chạy
theo một em nữ thi sĩ nhí, nhỏ hơn ông 60 tuổi, duyên dáng, uyển
chuyển, và kết
hôn với em, và xuất hiện với em, gần như hoàn toàn khỏa thân, trên
trang bìa tờ Penhouse, ấn bản tại Hung. Với mớ tóc dài, trắng
phau tỏa lên hai bờ
vai, với đôi mắt nâu và cái nhìn chiếu xoáy, ông trông như một ông tiên
trong
truyện cổ tích, cùng với nàng Fanny của ông tiên.
Được dân chúng ngưỡng mộ, vinh danh, cùng những giải thưởng, ông làm
thơ cho
đến tận cùng. Tập thơ chót của ông, xuất bản năm 2003, có tên là Thế
Kỷ
Giông Bão.
Ông thường có thói quen dậy thật sớm, ngắm dòng sông Danube
chảy bên ngoài, nhịp dòng sông cũng là nhịp của những bài thơ chảy
trong máu
ông.
*
.... Within the poetry of the Hungarian Gyorgy Faludy, who has died
aged 95,
Hungarian and other European traditions mingle, and there can be found
a record
of the turbulent 20th century.
Guardian
[Trong thơ của nhà thơ có truyền thống Hung và những truyền thống Âu
Châu khác
được trộn lẫn hòa nhập, và từ đó, là một ghi nhận về cơn chao đảo của
thế kỷ
20].
Đặng Tiến cũng phán, gần như tương tự, về TTT, chỉ thiếu cái khúc "a
record of the turbulent 20 th century", nhưng theo Gấu, có thể thay
bằng
câu của TTT, viết về Bếp Lửa, và về Hà Nội 1954, "đi và ở đều là những
chọn
lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết....".
Nguồn
*
Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không
gian nhìn
ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ
khác dù rất
hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ
Yên, chủ yếu
ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người
dân châu
thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh
thót giọt
mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới,
không phải
là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là
người
nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ
tính cách
dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới
có Việt Nam và trong Việt Nam
có thế giới. Trong «Guernica»
của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam
có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là
một bước
ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam
là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm
Tuyền
không có người thừa kế.
Nguồn
*
Gấu,
nhà văn
Hắn nhấp nháy con mắt
nhiều hơn, và mang thêm biệt danh Chuột nhũi. Nhưng cô thư ký mới vào
nghề khâm
phục hắn, và luôn gọi hắn là "Gấu cưng" của tôi.
Call For The Dead
Có thể mượn, tên một tác phẩm
của nhà thơ Hung Faludy vừa
mới mất, "“Những
Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Ở Địa Ngục”, để gọi hai năm Gấu ở trại Đỗ
Hòa, nhưng phải
trừ bỏ những
ngày đầu tiên, khi chưa liên lạc được với gia đình, đói, và nhớ nhà
quá, trốn,
bị bắt, bị tống vô tổ trừng giới.
Những ngày hạnh phúc của Gấu ở Đỗ Hòa bắt đầu cùng chuyến thăm nuôi đầu
tiên của Gấu Cái, sau khi biết trại tù, nhờ một gã thiếu niên trốn
trại, thoát, thương tình, đến nhà Gấu cho biết.
*
Lần bị bắt đúng lúc có chuyến vượt biên đường bộ, ngả Căm Bốt. Gấu Cái
cho thằng
lớn đi thế. Gấu được tin, trước khi bị đưa đi tập trung cải tạo. Bà cụ
đi thăm,
vừa vui vừa buồn, đưa cái hình thằng lớn chụp trước Tòa Đô Chính, trước
khi từ
giã Sài Gòn, nói nhỏ vô tai Gấu, nó đi thoát rồi. (1)
(1) Gấu nhớ lộn. Bức hình này, chụp trước Nhà Thờ Đức Bà.
Nhìn
bức hình, Gấu nhận ra, đúng chỗ đó, nó đã từng chụp hình, bức
hình polaroid có thể nói là đầu tiên tại Miền Nam, do tay Horst Faas
chụp, khi
anh chàng Đức này vừa từ trên văn phòng hãng AP, ở phía bên trên
Passage Eden
xuống, đang tính thử cái máy chụp đầu tiên ở Sài Gòn của anh ta.
Hóa ra không. Thằng nhỏ bị bắt, đưa từ biên giới về Sài Gòn, giam tại
khám Chí
Hòa. Lúc Gấu đi Đỗ Hòa, là Gấu Cái đang tất tả lo cho nó, thành thử
chẳng có ai
đi thăm, bà cụ đâu biết Đỗ Hòa hay Bến Hải hay Cà Mâu, đến khi hỏi ra,
thì đã mấy
tháng trời, Gấu vừa đói, vừa lo, không biết gia đình như thế nào, thế
là liều
lĩnh vượt trại. Khi Gấu Cái lên thăm, là lúc Gấu đang ở "tù trong
tù."
Cái hình thằng lớn, do Faas chụp đó, Gấu nhớ, là vì nó rất tức cười:
anh cu Tuấn
- từ đó, ra nick Tuấn Anh, khi viết Tạp Ghi cho tờ Vấn Đề. Anh là tên
cô bạn,
trong Cõi
Khác - do bị sán kim, đứng đâu thì cũng thò tay vào
trong đáy quần để gãi đít, do sán kim làm ngụy ! Có thể, đó là một
trong những
tấm hình polaroid đầu tiên của Sài Gòn. Cu Tuấn cũng có thể là đứa con
nít đầu
tiên ở Sài Gòn được chơi mấy món đồ điện tử remote control, do mấy tay
phóng
viên UPI đi xả hơi ở Hồng Kông, hay Tokyo
mang về.
Don Quixote
Tôi phải ngưng
viết nhật ký đọc này để cầy một mẩu cho tờ… VHTT, kiếm chút tiền
cơm gạo.
Virginia Wolf viết,
về chuyện
không thể nào viết, một câu chuyện 25 ngàn từ, theo yêu cầu :"Tôi nghĩ,
tôi
đã từng chứng minh, đó là điều rất thật, bởi vì nỗi nhục nhã, hổ
thẹn, do
đầu óc bướng bỉnh cự tuyệt hợp tác, nỗi quay quắt, việc phải viết đi
viết lại,
và trạng thái nản chán nói chung, đã làm cho chuyện viết đó - dù chỉ 2000 chữ
thôi - trở thành một cuộc tra tấn,
không chỉ lên ý thức đạo đức, lên cơ thể, mà còn lên tri thức ."
Đúng là một sự nhục nhã về chuyện “cơm áo đâu đùa”: Tôi đã từng phải
gọi điện
thoại tới lần thứ sáu, cho tòa soạn tờ… SGTT, để đòi 100 đô, tiền
bài
viết từ hồi năm ngoái. Sau bao nhiêu xin lỗi, xin lỗi, tụi này bận quá,
bận
quá, bà chủ bèn nhỏ nhẻ hỏi:
Bộ anh cần 100 đô đến như thế sao?
Dorothy Parker: Hai cái từ tuyệt cú mèo nhất, trong tiếng Anh, là:
'Cheque
Enclosed.' [Ngân phiếu đính kèm]
Ui chao, Gấu lại nhớ ông anh, và cái truyện ngắn đầu tay, Những Ngày Ở
Sài Gòn,
gửi cho tờ Nghệ Thuật. Báo đăng, Gấu đang còn sướng mê tơi, thì ông anh
gọi
điện thoại, tới sở làm, ra lệnh xuống tòa soạn lấy tiền nhuận bút.
Ui chao, lại có cái chuyện nhuận bút ư?
Hồi đó, Gấu bảnh lắm. Vừa làm cho nhà nước Ngụy, vừa làm bồi Mẽo, hai
đầu
lương, chưa kẹt Gấu Cái, cần gì đến tiền!
Nghe Gấu nói, giọng ngài ngại, ông anh phán, xuống lấy liền, viết văn
là phải
có tiền nhuận bút, nếu không, đừng bao giờ viết!
"Thiên tài của
một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi
Kis.
Trong Một cuộc gặp gỡ Kundera viết về ông:
Trung thành với Rabelais
và đám Siêu thực:
Những kẻ lục lọi những giấc
mộng.
Tôi ngồi lật lật
cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang
ngồi với
ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng
một giọng
oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào
những năm
1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là Thời Sự
chẳng
có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông. "Tôi không phải là một tên ly
khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa Belgrade và Paris.
Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một
thế giới
chìm khuất, englouti, của Đông Âu”. Cho dù chìm khuất, thế giới này,
trong suốt
cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn
thảm kịch
Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống
Nazi; Lò
Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số
họ, có
bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt
bào đoạn
nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa
Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm
kịch
lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu
thuyết của
mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ
khi
sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với
Orwell,
nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của
một phát ngôn
viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng
lại giản
lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như
những tên
Mao ít trên tthế giới. Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc
sống của
nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu
lâm,
tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc
mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối
tai của
ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học
Pháp, bắt
đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu
thực,
những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng
bị bịt
kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.
Danilo Kis kể chuyện tiếu lâm,
thời gian ở Paris, ông nhận "thư nhà",
từ Nam Tư, một phong bì dán tem, đóng dấu bưu điện hẳn hoi. Mở ra,
trang thư
thứ nhất, là con dấu, với những dòng chữ như sau: Thư này không bị
kiểm
duyệt.
Câu chuyện tiếu lâm, tưởng như đùa đó thực sự đã xẩy ra, với một ông
Danilo Kis
mũi tẹt nào đó, trở về trong nước, và mang những trang sách đã từng
được xuất
bản tại hải ngoại, và trình nhà nước, để được đóng dấu chứng nhận:
Những trang sách này ở hải ngoại chưa "bị", nay xin,
"được", kiểm duyệt!
Kun
Ở Xứ Mít
Một cách nào đó,
'lối viết' của Kundera được tóm gọn vào câu sau đây, của ông:
"the struggle of man against power is the struggle of memory against
forgetting.":
Cuộc chiến đấu của con người chống lại quyền lực là cuộc
chiến đấu của hồi ức chống lại sự lãng quên.
Note: Câu này, mới được talawas đưa lên đầu trang, với cái nền là xứ
Mít:
Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của
ký ức
chống lại sự lãng quên.
Milan Kundera trong "The Book of Laughter and Forgetting"
Hồi ức, hay ký ức, thì cũng “mắm sốt”, "même chose", theo Gấu. Nhưng
"đấu
tranh",
với "chiến đấu", không.
Đấu tranh, dùng trong "đấu tranh giai cấp" thí dụ, đúng, nhưng ở trong
câu này,
không.
Cuộc chiến đấu mà Kun nói tới ở đây, nó bắt nguồn cùng với con người,
và lịch
sử của nó.
Cuộc chiến đấu của con người chống lại quyền lực, không phải để
tranh giành
quyền lực, mà để vẫn là người.
*
TQ said...
Theo tôi hiểu, ngoài việc bắt
bẻ cách hỏi của tôi và ý tứ của NL, thì tác giả Tin Văn có lẽ mong đợi
người ta
nên hỏi những câu theo gu của ông ấy.
Tôi không nghĩ là đến nỗi
phải làm sách hướng dẫn tập đọc Kun hay theo ngành Kun-học mới có quyền
hỏi
nhau Kun hay dở ra sao, so sánh Kun với ai là quyền tự nhiên vô cùng...
September 8, 2009 11:02 AM
Blog NL
*
Phúc đáp:
Không phải như vậy. Câu hỏi của
bạn nó “huề vốn”, theo nghĩa, chẳng nói lên được điều gì cả.
Tôi chép lại ở đây.
Kundera là nhà văn có ý
thức sâu sắc về lối
viết và được hâm mộ từ lâu trên thế giới. Là người đã dịch một số tác
phẩm của
Milan Kundera, đến cuốn mới in ở VN là Những mối tình nực cười, anh đánh giá thế nào về
ảnh hưởng của Kundera với đời sống viết lách
VN?
*
Câu hỏi của bạn có thể áp dụng cho Garcia
Marquez, Linda Lê, cho bất cứ một tác giả nào nổi tiếng, nói thẳng ra,
nếu đã được
dịch tại Việt Nam.
Thường ra, khi phỏng vấn một nhà văn, hay một
dịch giả, ở đây, người phỏng vấn đọc rất kỹ, hoặc qua loa thì cũng
được, tác phẩm,
dịch phẩm, để có một cái nhìn khái quát, và tìm ra những điều cần hỏi.
Thí dụ, giả như tôi phải phỏng vấn NL, về những
dịch phẩm Kundera, tôi sẽ chuẩn bị sẵn một số dữ kiện trước khi hỏi:
Kundera, nhà văn Đông Âu. Lưu vong. Viết văn
bằng tiếng Pháp.
Đã từng được Aragon
giới thiệu cuốn Chuyện diễu
tới độc giả Pháp…
Rất rành âm nhạc....
Câu hỏi của bạn khiến tôi
nhớ trường hợp của
tôi, khi về nước, và được một ký giả của tờ Đại Đoàn Kết phỏng vấn. Anh
ta biết
cuốn Những ngày ở Sài Gòn,
tập truyện ngắn đầu tay, và độc nhất, của tôi, xb trước
1975, tại Sài Gòn, gồm 10 truyện, một điều chính tôi cũng không hề để ý
tới, từ
lúc in cho tới lúc được hỏi.
Nhũng câu hỏi của anh, và
bài viết sau đó,
chứng tỏ, anh rất rành về tác phẩm đầu tay của tôi.
*
Vấn đề ở đây, hoặc là người phỏng vấn rất rành những câu hỏi 'nhậy
cảm', nghĩa là, rất rành Kundera, nhưng lại cố tình đặt câu hỏi 'huề
vốn', 'vô hại', như trên.
Hoặc là anh ta chẳng biết một tí gì về Kundera.
Ở trong trường hợp thứ nhất, liệu có sự 'dàn xếp' giữa hai người, hỏi,
và đáp. Theo kiểu, này đừng có đẩy nhau vào cửa tử đấy nhé?
Ở trong trường hợp thứ nhì, thì để tính lại, sau khi đọc kỹ những câu
hỏi tiếp theo. NQT
Phỏng
vấn Nguyễn Quốc Trụ
Lên mạng
lúc 15:22:43
ngày 02.08.2001
Nhà
văn Việt kiều Nguyễn Quốc Trụ:
Chúng
ta thử đọc, một tay ký
giả Tây Phương phỏng vấn Kundera.
Tiểu thuyết gia không phải
là
thằng hầu của sử gia”
[«Le romancier n'est pas un
valet des historiens»]
Milan Kundera
Từ 1985, Milan Kundera từ
chối phỏng vấn. Tuy nhiên ông đã nhận trả lời một số câu hỏi tờ L’Express gửi
tới ông, nhân xuất bản cuốn L'Ignorance
[tạm dịch: Sự Ngu Dốt], viết
bằng tiếng
Tây.
-Đấy
là cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông viết
bằng tiếng Pháp. Xin ông cho biết mối liên hệ giữa ông và tiếng Tây nó
ra làm
sao? Ông có còn thèm thuồng, hoài nhớ
tiếng Tiệp như nhân vật Josef của ông lảm nhảm nói với người bạn của
anh bằng
thứ tiếng mẹ đẻ đó?
-Hoài nhớ? Không đâu. Bởi
vì,
khác với Josef, tôi luôn luôn lảm nhảm tiếng Tiệp với bà xã của tôi.
Nhưng, từ
hai mươi tám năm, thế giới quanh tôi là Tây, nó nói tiếng Tây với tôi,
và tôi
nói với nó cũng bằng tiếng Tây. Mọi ngày như một ngày, tôi có thể nhận
ra sự
khác biệt sâu thẳm giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng học được đó [la langue
apprise].
Khi tôi nói tiếng Tiệp, câu kệ cứ thế tuôn ra khỏi miệng, không thể cầm
giữ,
như thể chúng được cài đặt tự động ở trong bộ não của tôi ngay từ lúc
còn nằm
trong nôi. Với tiếng Tây, ngược hẳn lại, chẳng có gì là tự động đối với
tôi.
Với nó, tất cả là ý thức. Là suy nghĩ, đắn đo. Kiểm tra, kiềm giữ.
Nhưng cũng
là mới mẻ. Thâu nhận. Chiến thắng. Là lạ
lẫm, ngỡ ngàng, tuyệt tuyệt. Từ chỉ một từ, chỉ một hình dạng. Cái liên
hệ ý
thức tới cực điểm [archiconscient] với ngôn ngữ như vậy đó, làm tôi mê
mẩn. Nó không
đi ngược với văn phong của tôi, vốn từ lâu, được viết dưới những đòi
hỏi
của sự sáng sủa, giản dị, thấu triệt, và
chân xác.
-Đọc tiểu thuyết của ông,
người ta có cảm tưởng, lưu vong vượt lên trên cái gọi là nội dung chính
trị. Nó
là một thứ sao quả tạ giáng xuống bất cứ một ai, và chẳng chừa ai, và
như thế,
nó là một sự kiện cơ bản của hiện hữu. Như thể con người, hoài hoài như
thế đó,
là một kẻ lưu vong ở trong tim trong hồn của nó? Một thứ bệnh kín, thì
cứ nói
như vậy? Ông nghĩ sao?
-Di dân là hậu quả của những
xung đột chính trị khủng khiếp. Nhưng, bạn nói đúng, di dân chỉ là mặt
nổi;
cùng lúc đó, về mặt chìm, theo ấn bản nội tại, nó là “sao quả tạ đối
với tất cả
mọi con người”. Tiểu thuyết gia không phải là thằng hầu của những sử
gia. Anh
ta không thể kể về, hay bàn về Lịch sử, nhưng khám phá ra những khía
cạnh chưa
biết tới của hiện hữu con người. Những biến động lớn lao của lịch sử
đối với
anh ta giống như cái đèn giọi bất thình lình làm sáng tỏ những khía
cạnh ẩn
giấu và vạch trần chúng ra. Nói cho cùng, hoài nhớ là gì, nếu người ta
bỏ vào
trong ngoặc tất cả những bản kẽm tình cảm liên can tới vấn đề này? Liệu
có
chăng, bên cạnh hoài nhớ xứ ruồng bỏ [le pays abandonné], là hoài nhớ
lưu vong
đã mất [l’exil perdu]? Bên cạnh hoài nhớ của Penélope, [là] hoài nhớ
của
Calypso? Và sự trở về, Sự Trở Về Lớn Lao? Liệu còn chăng, ở thế giới
này, một
khi Lịch sử tiến nhanh quá, và cứ thế từng ngày phải "nắn lại"
[remodeler] những quang cảnh mới ngày nào còn là của chúng ta? Đâu đâu
tôi cũng
nghe những khẩu hiệu về “bổn phận của hồi nhớ”, “việc làm của hồi nhớ”,
nhưng
hai nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của tôi trở về cố hương sau hai
mươi năm,
họ sững sờ nhận ra sự “hiển nhiên của tất cả mọi hiển nhiên: thực tại
ngày nào
là thực tại, nhưng hiện tại thì không còn nó nữa, và không thể nào tái
tạo”.
Quên [lãng] xoá quá [khứ]; [chính] hồi nhớ làm cho nó thay đổi, biến
dạng.
Chúng ta tất cả đều chìm đắm trong sự ngu si dốt nát đần độn và phải
coi, đây
không phải là một khiếm khuyết về trí thức, về tinh thần, mà là một sự
kiện cơ
bản của phận người.
-Ông
có thể nói về bố cục của cuốn tiểu
thuyết. Nhịp điệu của nó có vẻ như hối hả trong khi độc giả cứ phải
nhẩn nha
với cái việc đọc: họ bắt buộc phải đọc chậm, là do sức căng đến chóng
mặt của
câu chuyện được kể?
-Bạn
vừa mới công thức hoá cái lý tưởng của
tôi về chuyện bài binh bố trận một cuốn tiểu thuyết. Tôi thường xuyên
xuýt xoa,
rằng thì là, ba cuốn tiểu thuyết sau chót của tôi, viết bằng tiếng Tây,
chúng
được gợi hứng từ thể fuga [fugue:
composition musicale écrite du style
du contrepoint: cấu trúc âm
nhạc viết theo kiểu đối điểm]. Đúng như thế, fuga là
một bài học lớn về sự hoàn hảo về hình thức, có giá trị cho tất cả
những nghệ
thuật. Nguyên tắc đa âm của nó đòi hỏi, rằng mỗi chi tiết, một khi được
phơi
bày ra, biến thành một mô-típ và sẽ tái xuất hiện trong nhiều lập lại
[repetitions], thay đổi [variations], dẫn dụ [allusions] dọc theo cấu
trúc, dàn
dựng. Trong Sự Ngu Dốt, là
những mô típ về hoài nhớ, quên lãng, Ulysse,
Arnold
Schönberg, tấm gương (Irena, Milada, bà mẹ, Gustaf, tất cả đều mê mẩn
bởi tấm
gương), một cái áo T-shirt thô kệch với bộ mặt của Kafka, bên trong căn
nhà tại
Danemark (Josef không ngừng bị nó ám ảnh), âm nhạc biến thành tiếng
động. Những
mô típ này đọng lại ở trong hồi ức của độc giả, ngay từ lần xuất hiện
đầu tiên
của chúng, ở trong cuốn tiểu thuyết, cho tới lúc chót. Chính vì lý do
đó mà
phần hai của cấu trúc lẽ đương nhiên phải đẹp hơn phần đầu, giầu có
hơn, “ác
liệt hơn” [intense], như bạn nói đó, bởi vì càng tiến sâu vô những căn
phòng
của cuốn tiểu thuyết, càng có thêm những tiếng vang [échos] của những
câu kệ
trước đó đã được phô bày ra, những đề tài đã được trình bầy, chúng cứ
thế nhân
lên thêm mãi, kết hợp với nhau thành những cộng hưởng [résonner,
résonnances],
cứ thế vang vọng từ ba bề bốn bên. Đó là cái mà người ta gọi là “strette”, theo
thuật ngữ của giới âm nhạc: phần chót của một fuga, tính đặc thù
của nó là
do cách viết được nén chặt lại một cách thật là đặc biệt.
Đường
Trường Sơn là Đường Chân Lý
Tại sao Homer phải mù
Xưa kia đã
hùng dũng
đánh Tây
Giờ
lại hiên
ngang xây thành chống Mỹ
Đường Trường Sơn là đường
chân lý
Ai là
người còn nhớ những vần
thơ trên?
Chỉ những tên thủ thư khùng điên,
khốn kiếp, mất trí.
Đó là câu trả lời của Northrop
Frye, mà Alberto Manguel viện dẫn tới, trong bài viết Viên thủ thư mù, với cái
tiểu tít: Tại sao Homer phải mù
*
The Blind Bookkeeper (or
Why
Homer Must Be Blind)
Sometime in the spring of
1943, Northrop Frye wrote a paper which, a holograph note on the
typescript
tells us; was intended for an Emmanuel College publication "that never
came off." Its tide is "The Present Condition of the World" and
its thrust the problem of steering "a middle course between platitude
and
paradox," between "Olympian detachment and Bacchic outcries"
when discussing this condition, which, Frye reminds us, is one of
universal
warfare. With his habitual clarity, Frye warns us against judging that
war
reaps any benefits. "A corrupt tree can only bring forth corrupt fruit,
and the notion that some good may be salvaged from this evil and
monstrous
horror is, however pathetic and wistful, a pernicious illusion." And
Frye
concludes: "And that such benefits will be 'worth' the blood and misery
and destruction of the war is nonsense, unless posterity are insanely
cynical
bookkeepers."
Bản tiếng Pháp:
Le comptable aveugle
(l'incontournable cécité d'Homère)
Au cours de printemps 1943,
Northrop Frye écrivit un article destiné, nous dit une note portée de
sa main
sur le manuscrit, à une publication de l'Emmanuel College qui «n'a
jamais paru».
Il avait pour titre «Létat actuel du monde », et pour idée maîtresse la
difficulté de naviguer «à égale distance de la platitude et du paradoxe
»,
entre «détachement olympien et clameurs bachiques», lorsqu'il s'agit de
cet
état qui, Frye nous le rappelle, est un état de guerre universelle.
Avec sa
lucidité habituelle, Frye nous met en garde contre l'idée qu'on peut
tirer de
la guerre le moindre bénéfice. «Un arbre corrompu ne peut donner que
des fruits
corrompus et, si pathétique et mélancolique qu'elle soit, l'idée qu'on
puisse
retirer un bien quelconque de cette néfaste et monstrueuse horreur
n'est qu'une
pernicieuse illusion.» Et Frye de conclure: «Et prétendre que de tels
bénéfices
puissent "valoir" le sang, le malheur et la destruction qu'entraîne la
guerre est absurde, à moins que la postérité ne soit faite de
comptables d'un
cynisme dément.»
Đâu đó khoảng mùa xuân 1943,
Northrop Frye viết một bài, tính đưa cho Emmanuel College
in, nhưng sau cùng chẳng ra được. Nhan đề bài viết là "Tình trạng hiện
thời của thế giới". Ý tưởng chủ đạo của bài viết: Làm thế nào mà bơi
lội
trong thế giới, và luôn giữ được khoảng cách bằng nhau, giữa, “một bên
là sự
tầm phào, và một bên là nghịch lý", giữa "Olympian detachment and
Bacchic outcries", khi phải nói về tình trạng chiến tranh tơi bời trên
thế
giới.
Với sự sáng suốt thường lệ , ông cảnh báo chúng ta, chống lại thứ
ý nghĩ, chiến tranh đem lại phúc lợi. “Một cái cây hư ruỗng chỉ cho
trái hư ruỗng, và, quan niệm, có thể có được thành quả tốt,
từ ghê rợn quỉ ma, thì đúng là ảo tưởng.”
Và ông kết luận, “chỉ trừ khi
hậu thế là những tên thủ thư khùng điên thì mới tin rằng có những phúc
lợi từ máu,
lệ , cơ cực, và huỷ diệt đổ ra từ chiến tranh”.
Chưa có
cuộc chiến nào đẹp như cuộc chiến Việt Nam, khi chưa chấm dứt.
Chưa có cuộc chiến nào bẩn như nó, khi đã chấm dứt!
Đâu là tầm phào, đâu là nghịch lý?
Margaret Nguyen
Cộng đồng Pháp ngữ Việt Nam,
lạc quan
hay bi quan?
Linda Lê viết:
«Mon père apparaît, disparaît entre les ruines. Je suis sa trace»
Đào Trung Đạo dịch: «Cha tôi xuất hiện rồi biến mất giữa những đống đổ
nát. Tôi
là dấu vết của ông».
Một câu ngây ngô!
Chỉ con nít đang học chia động từ «être» thì mới nhắc lại như vẹt rằng
«je suis
- tôi là, tu es - anh là, il est – nó là...».
«Suis» ở trong câu của Linda Lê phải được hiểu là động từ «suivre» -
«đi theo».
Tóm lại, câu trên phải dịch đơn giản như vầy: «… Tôi đi theo dấu vết
của ông».
Nhật ký Tin Văn
*
Ui chao đọc câu thơ "je suis ce cours de sable qui glisse entre le
galet
et la dune", của Beckett, Gấu bỗng nhớ đến giai thoại trên!
Đầu tháng 9, nhân dịp ở trong
nước tổ chức
rầm rộ các buổi lễ tưởng niệm 40 năm ngày Hồ Chí Minh qua đời, tôi muốn
viết
một bài về ông, nhưng lại lười, cứ lần khân mãi. Nhưng sau đó, mở báo
mạng ra,
cứ gặp mãi những bài viết về ông Minh (tôi không thích gọi ông là ông
Hồ, nghe
nó vô duyên làm sao!) lại đâm bực.
NHQ. Blog VOA.
Nhà phê bình không cho biết,
tại làm sao
gọi ông Hồ, thì "nghe vô duyên làm sao"?
Ông gọi là ông Minh, thì cũng được đi, nhưng Minh nào?
Bởi vì nếu gọi ông Hồ bằng ông Minh, thì có thể không vô duyên làm sao,
nhưng
"lại đâm bực", thực sự là vậy.
Minh nào? Miền Nam ngay trước chỉ có hai ông Minh, mà cũng đã bực mình
rồi, thế
là bèn gọi một ông là Minh Cồ, Big Minh, một ông là Minh nhỏ, Minh nhí.
Giả thử như bây giờ chúng ta gọi ông Hồ bằng ông Minh, thì sẽ làm sao
phân biệt
với ông Min, như dân Miền Nam
sẽ gọi.
Và thế là có hai ông Hồ, một là Min, một là Minh!
Chán thiệt!
Đọc bài viết, thấy tay này sắp điên rồi. Cứ nhè những nơi dơ dáy mò
tới. Bác Hồ
hỏi cháu ngoan, cần đi đái không để Bác chỉ chỗ, một chuyện như thế,
thì cũng
ghê gớm chi đâu, mà lôi ra?
Đành phải bắt chước ông phê bình gia, Gấu đếch cần biết Bác Hồ có hỏi
như thế
như thế không, mà cần biết, Bác đã siêu thoát, và đã đi đầu thai chưa?
Amen!
*
Ông Hồ có rất nhiều giai thoại, để tự đánh bóng mình, liên quan đến
chuyện chăm
lo đến từng chi tiết, nơi ăn chốn ngủ, miếng cơm manh áo của nhân dân.
Giai
thoại, "Cháu có cần đi đái hay không để Bác chỉ chỗ cho", cũng chỉ là
một trong những mánh của ông mà thôi.
Trừ khi cái đầu bịnh hoạn của người viết nghĩ khác.
*
Hay là ông phê bình gia không nhận ra điều này?
Đọc toàn bài viết, có vẻ như ông "khen" [hay là "chê"?] "ông Minh",
nhưng để "hiểu"
"ông Minh", phải có thêm, ít lắm, một cuộc cách mạng, và vài cuộc
chiến nữa! (1)
(1)
Tôi có
dịp làm việc với các
đồng chí tiền bối thuộc lớp trước tôi, trước khi qua đời đều “di chúc”
lại băn
khoăn này như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, như ủy viên Bộ Chính trị Tố
Hữu, như
cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt v.v…, thậm chí có đồng chí (Tố Hữu) nói: “Bảo
ơi, có
lẽ phải làm lại cuộc cách mạng.”
talawas
I Can U
U Tha cho ME!
*
Đầu tháng Chín, nhân dịp khai trường, Gấu tính đi một bài, để vinh danh
Thanh
Tịnh và bài viết "Hôm nay tôi đi học" của ông, nhưng lại lười, cứ lần
khân mãi, sau cùng chụp pô hình sau đây, cũng là để ghi nhớ ngày đầu
tiên
Richie Hiếu đi học, 8.9.2009.
Giả như không có bài viết của ông, tuổi thơ của Gấu và bao nhiêu cu,
hĩm khác,
sẽ nghèo nàn biết là chừng nào!
Hôm nay
Hiếu đi học.
Hàng năm cứ vào cuối thu, lá
ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc, là
Hiếu lại
nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường!
*
Chuyện
dân Mít băn khoăn Bác
có mấy vợ, nó liên can đến cái crédit mà VC ban cho Người, một thứ
Thiên Tử,
Con Trời, được Trời cho xuống trần gian để cứu dân Mít.
Và Trời cũng đã căn dặn trước
khi cho "Giáng Sinh", này, nhớ làm xong việc, là về, cấm sờ đến thực
phẩm của trần gian!
Nói rõ hơn, cấm sờ cái số ta!
Sờ cái số ta, là hết về Trời, phải sa địa ngục!
Sợ ông phê bình gia không nắm
được vấn đề, nên mới dõng dạc phán, tao đếch cần biết Ông Minh có mấy
vợ!
Thánh, mà làm sao lại có vợ?
|