Hồ Hữu
Tường tháng 3 năm 1955
theo tướng Ba Cụt vào rừng Sát chống lại ông Diệm, bị bắt và bị kết án
tử hình,
nhờ một nhóm trí thức Pháp trong đó có Albert Camus ký kiến nghị xin ân
xá; sau
khi ông Diệm đổ, Hồ Hữu Tường mới được trả tự do.
Thụy Khuê. Hợp Lưu
Gấu tính đi một đường về Võ
Phiến, nhưng TK đã nhanh nhảu đi rồi. Chưa đọc kỹ bài viết. Có mấy chi
tiết, trên,
sai.
HHT theo Bình Xuyên làm quân
sư cho Bẩy Viễn, không phải Ba Cụt [Hòa Hảo]. Bị kết án tử, nhờ can
thiệp, đổi thành
chung thân. Khi ông Diệm bị làm thịt, được thả.
*
Về văn, như Bình Nguyên Lộc,
Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương
Nghiễm
Mậu, Duy Thanh, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn
Thị
Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã
Ca,
Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình
Toàn,
Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y
Uyên, Cung
Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang,
Nguyễn
Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo
Trường, Nguyễn
Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh, Trần Thị Ngh, v.v...
Về phê bình văn học như Tam
Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao,
Huỳnh Phan
Anh, v.v.
TK.
Note: Không thấy tên Gấu.
Chán thế!
Trong Văn Học Tổng Quan, Võ Phiến
có nhắc tới Gấu, hơn một lần, rất lịch sự.
Bây giờ lèm bèm bậy bạ về
ông.
Chán thế!
*
“Một mình” viết năm 1963,
không biết ở thời điểm ấy, Võ Phiến tiếp cận triết học hiện sinh như
thế nào,
nhưng Hữu là nhân vật tiểu thuyết đầu tiên của ông có cái nhìn hiện
sinh.
Nếu trong cuốn La nausée-Buồn Nôn, Sartre mô tả Roquentin như một nhân
vật
không ngừng ý thức thấy thân xác mình và ý thức ấy càng rõ, thì anh ta
càng cảm
thấy ghê tởm. Cảm giác buồn
nôn là trạng thái xẩy ra khi con người
ý thức
được sự hiện hữu của thân xác mình. Sartre thuật lại cái cảm tưởng
buồn
nôn đó,
trong đầu một gã đàn ông, mà sự cô đơn và nhàn rỗi, khiến hắn chú ý đến
những
dữ kiện sống sượng nhất của đời sống.
TK
Nhận xét về Buồn Nôn như vậy
rồi ghép với Một Mình của VP,
không đúng. Cảm giác buồn nôn, với
Sartre, là một
cảm giác siêu hình, do cảm nhận về sự thừa mứa của hiện sinh, chứ không
phải ý
thức thân xác mình rồi ghê tởm, buồn nôn. Nhân vật của VP rất tởm thân
xác của
họ, sau khi ‘thất bại’ nghĩa là chiều theo nó, để cho thân xác chế ngự.
Điều này
Gấu này đã nhận ra, và đưa ra đề nghị, VP theo VC, là để chế ngự cái
tôi đáng tởm
đó. Thất bại, trở về, ông lại đắm chìm vào, để tìm lối thoát ra!
Tất cả
những tác
phẩm quan trọng của VP là "thành công của một sự thất bại", sau khi hy
vọng
vào chủ nghĩa CS.
Đây là trường hợp xẩy ra cho rất nhiều nhà văn trên
thế giới, vào thời kỳ này. Thí dụ như Koestler, Silone.... Có thể đọc
bài viết của Steiner, Nhà văn và chủ nghĩa CS để có một
cái nhìn toàn cảnh
*
Tôi đọc Võ Phiến rất sớm, một
phần là do ông anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông lúc đó cùng bạn bè chủ trương
tờ nhật
báo Tự Do, và sau đó, còn làm nhà xuất bản, nơi đã từng in cuốn Kể
Trong Đêm
Khuya (?) của Võ Phiến. Tôi đọc VP trước đó ít lâu, khi ông anh mang về
nhà mấy
tờ báo mỏng dính, in ấn lem nhem, như tự in lấy, tờ Mùa Lúa Mới, phát
hành đâu
từ miền Trung. (1) Tôi chỉ nhớ cái thuở ban đầu làm quen những nhân vật
của
ông, không còn nhớ đã từng viết về ông, một phần là do, thời gian sau
đó, tôi
mải mê, ngấu nghiến đọc những tác giả, mà tôi hy vọng họ giúp tôi giải
thích
tại sao sinh ra, tại sao sống, tại sao chết, tại sao có cuộc chiến khốn
khổ khốn
nạn đó... Nhân vật của Võ Phiến rất
giống nhân vật của
Zweig. Tôi không hiểu ông đã từng đọc Zweig, trước khi khai sinh ra
những Người
Tù,Kể Trong Đêm Khuya, Thác Đổ Sau
Nhà... với những con người phàm tục, bị cái libido xô đẩy vào những
cuộc phiêu
lưu tuyệt vời, khi thoát ra khỏi, lại nhờm tởm chính mình, nhờm tởm cái
thân
thể mình đã dính bùn, sau khi bị con quỉ cám dỗ.... Nhân vật của Zweig
cũng y
hệt như vậy, trừ một điều: họ đều muốn lập lại cái kinh nghiệm chết
người khủng
khiếp đó. Và cú thử thứ nhì, lẽ dĩ nhiên là thất bại, nhưng nhờ vậy, họ
vẫn còn
là người, vẫn còn đam mê, vẫn còn đủ sân si...
Trong truyện Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng, anh chồng
biển lận khiến cô vợ quá thất vọng bỏ đi làm gái. Anh chồng tìm tới
nơi, lạy
lục, than khóc, cô vợ mủi lòng quá, bèn quyết định từ giã thiên thai,
trở về
đời. Trong bữa ăntừ giã thiên thai, anh
chồng không thể quên tính trời cho, tóm tay anh bồi đòi lại mấy đồng
tiền tính
dư, cô vợ chán quá, bỏ luôn giấc mộng tái ngộ chàng Kim.
Hay trong Người Chơi Cờ, nhân vật chính, nhờ
chôm được cuốn thiên thư dạy chơi cờ, mà qua được địa ngục. Về đời,
thần tiên
đã căn dặn, chớ có chơi cờ nữa, nhưng làm sao không? Chơi lần sau, là
đi luôn!
Nhân vật của Võ Phiến, sau cú đầu là té luôn,
không gượng dậy được nữa. Thí dụ cái cô trong Thác Đổ Sau Nhà, gặp lại
Người Tình
Trong Một Đêm, bỗng tởm chính mình: Cớ sao lại ngã vào một tay cà chớn
tới mức
đó!
Hay nhân vật Toàn (?) yêu cô gái, con một tay
công chức (?), thất tình, anh bỏ đi theo kháng chiến, thay cái
"libido" bằng "cách mạng", cuối cùng chết mất xác, không
thể trở về đối diện với chính mình, với người yêu đầu đời...
Ông bố cô gái, nếu tôi nhớ
không lầm, thường viết thư sai con đưa tới mấy ông bạn cũ, để xin tiền.
Lúc
rảnh rỗi, hai cha con không biết làm gì, bèn đóng tuồng, con giả làm
Điêu
Thuyền, bố, Lã Bố...
*
Nhưng đọc VP như thế, thì cũng chỉ là viết về chỉ một nhà văn VP!
Trong bài viết Võ
Phiến, nhà văn
Bình Định, dựa vào cách nhìn Zweig như là nhà văn Âu Châu,
Gấu
đã manh nha coi ông như là một nhà văn, của mảnh đất địa linh nhân kiệt
là mảnh đất Bình Định, với những biến động lịch sử long trời dậy đất
của nó, qua nhân vật Nguyễn Huệ. Một Nguyễn Huệ bình Thanh tảo Bắc
Một Võ Phiến, từ mảnh đất Bình Định, đối diện với chao đảo của lịch sử,
vận mệnh của đất nước.
Và thất bại.
Và, tại sao thất bại?
Don Quixote biết,
những hành động của mình sẽ gây hậu quả, cho dù không hiển minh,
invisible, đối
với ông. Nan
đề Macbeth: Ông mong muốn những hành động không gây hậu quả: Sự bất khả
thực sự, độc nhất.
Tôi nhớ tới một người bạn ở Buenos Aires
kể cho tôi nghe là một
người đàn bà một bữa phải ngồi trong một tiệm cà phê, kế bên người đàn
ông đã
tra tấn con trai của bà. Đó là hậu quả của sự kiện, nhà nước Argentina
vờ công lý. Liệu sẽ có thay đổi? Có, khi nào nhà nước bãi bỏ sự miễn
nhiễm dành
cho những tên sát nhân mặc đồ lính. Một khi còn miễn nhiễm, còn “xử lý
nội bộ”,
là chẳng mong chi vãn hồi trật tự xã hội. Chẳng có xã hội nào hiện hữu
hài hòa,
nếu vờ công lý. Điều này thuộc bản chất của chính xã hội, nó định
nghĩa, ‘xã
hội là xã hội”.
Đối với Juan José Saer, Don Quixote là một nhân vật sử thi, bởi vì ông
không
quan tâm đến chuyện, xuống núi hành hiệp, lên đường hành đạo, thành
công hay
thất bại. “Nỗi hồ nghi, sự âu lo - không biết việc mình làm sẽ thành
công hay
thất bại - là điều cơ bản của xã hội con người bây giờ, và nó đối ngược
hẳn với
đạo hạnh sử thi.”
Hãy so sánh câu trên, với nhận xét của Stevenson: “Nhiệm vụ trên đời
của chúng
là thì không phải là thành công, nhưng mà là cứ tiếp tục thất bại,
trong cái
đẹp nhất của tinh thần này”.
“Thua, thua nữa, thua cho bảnh”. Beckett phán.
Huyền hoặc làm sao, là niềm tin không xoay chuyển được về công lý như
thế đó,
sống sót, ngay cả khi vị anh hùng không thể nào tiếp tục thế thiên hành
đạo
được nữa, và lết cái thân xác tàn tạ, thương tích đầy mình về nhà, và
vừa về
đến nhà, thì cái niềm tin bèn như một thứ virus, gây nhiễm, truyền
bịnh cho
tất cả những người khác, một cách rất ư là hung hãn, rất ư là nhiệt
tâm.
Quái
thế!
Viết tới đây, Gấu bỗng nhớ đến blogger Người Nuôi Gió, sau khi được Cớm
VC tha,
về nhà, gặp ai cũng mừng rỡ cho anh, như thể cái sự bắt giữ đó họ cũng
được
hưởng tí “sái”, và ai nấy bèn vỗ vai Người Nuôi Gió, “Bồng, Bồng!”
[Bon, bon!]
(1)
(1) ''Có một điều
tôi rất bất ngờ là khi tôi về thì họ hàng bên nội, bên ngoại anh chị em
đều rất
quý tôi. Họ bảo tôi làm cái việc rất được lòng mọi người.
NBG trả lời phỏng vấn BBC
*
Yankees....go home! Cursed
Tờ Người Kinh Tế có hai bài thật thú về TQ và Việt Nam.
Tin Văn post ở đây, và sẽ cống
hiến bản dịch sau.
Lạ, là Gấu vừa mới lai rai về sự chúc dữ của nước giáng lên gia đình
Quốc
[Nguyễn Quốc Gấu], thì tụi Hồng Mao bèn chôm ngay đề tài này, và đi một
đường
về sự chúc dữ của Phồn Vinh Giả Tạo, hay Cứt Mẽo, lên mấy ông Ba Tầu!
Đừng có sợ cải tổ triệt để hệ thống tài chính, dù có bị chụp mũ xã hội.
Tiền là động cơ của chúng tôi. Trong nghề trader này, phải lúc nào cũng
cảm thấy đói.
Du hành tới tận cùng địa ngục
Mỗi mùa sách có một cuốn
sách-quỉ. Năm 2006, có cuốn Những kẻ
thiện tâm. Năm ngoái, 2008, Zone.
Năm nay: Quỉ. "Bằng cách
nào, ý nghĩ giết người lại đến với một người không phải
là kẻ giết
người?" Khó a!
Gấu quen một tay. Một đàn em đúng hơn. Bạn của thằng em trai đã tử
trận. Cũng khá nổi tiếng trên chốn giang hồ, thành thử không tiện nêu
tên, vì không biết có chịu không. Sĩ quan Ngụy, trốn tù
cải tạo, tìm cách vượt biên nhiều lần.
Một lần bị lừa, bèn xách súng đi tìm gặp thằng lừa mình, kề vào ót,
tính đòm một phán, mà không được, đành lủi thủi ra về.
Nó biểu Gấu: Khó giết người lắm Gấu ạ.
Khó lắm!
Bạn NL là người dịch cuốn Les
Bienveillantes.
Cái chi tiết này, quí lắm, sẽ được sử dụng trong những kỳ tới để bàn
tiếp, về đề tài "trên tường nhà giam dán đầy bài của NL"!
Note: Bài viết về Những kẻ thiện tâm, thường xuyên là
một trong "Top 25", hàng tháng, theo server.
* Medvedev juge la Russie
"arriérée et corrompue" Dans une critique
voilée de
Vladimir Poutine, son puissant Premier ministre, le président russe a
dénoncé
"les pots-de-vin, le vol, la paresse mentale et spirituelle ou
l'alcoolisme" dans son pays.
Đôi khi rất nực cười
về sự giáo điều của những người
nhân danh chống giáo điều! Họ có một giọng thô bạo hết sức để chỉ mặt
đặt tên
cái gì không thuộc "hệ thống" của họ....:(
Tin Văn
giải thích sự kiện trong nước thích đọc Garcia Marquez và Kundera, là
vì họ đọc xã hội Việt Nam qua hai nhà văn này.
Một ông gốc gác CS, một ông viết về thế giới được tạo thành chỉ có một
nửa.
Do chế độ kiểm duyệt cho nên nhà văn Việt Nam không có ai dám viết về
những đề tài nhậy cảm, thì đành phải đọc hai tác giả trên, trong khi
chờ Godot!
Cách đọc như vậy là ‘giáo điều’ của những người nhân danh chống giáo
điều ư? Giọng văn hết sức thô bạo
để chỉ mặt đặt tên cái gì không thuộc "hệ thống" của họ.
Giọng văn trên Tin Văn, nó vốn vậy rồi. Có vẻ anh chị, cà chớn, nhiều
khi xuồng xã nếu là chỗ thân quen. Nhưng không thô bạo.
Bài viết về NL, cũng là chỗ quen biết, thành ra có thể có chút nặng
tay.
Có chủ ý.
*
"Hệ thống" của họ?
Của Tin Văn?
Nếu có, thì Gấu này cũng muốn biết, nó ra làm sao. Không lẽ “… trang Tin Văn có cấu trúc
rất lộn xộn, khi cần muốn tìm cái gì đó coi như là mò kim đáy bể”.. có
một hệ thống? Ngay Gấu này, mỗi lần
muốn kiếm một bài viết cũ liên quan tới đề tài đang viết, nhiều khi
cũng đành chịu. (1)
Nếu có chăng, thì là như thế này, ở dưới một mớ hổ lốn đó, là một câu
hỏi, giả như dân Mít được thông báo về vụ Lò Thiêu, liệu có để xẩy ra
Lò Cải Tạo.
Viện hình ảnh mà Koestler ban cho Newton, một vì nhạc trưởng một dàn
đại hoà tấu, trước khi ông xuất hiện, những hiện tượng thí dụ như thuỷ
triều, mặt trăng, trái táo rớt xuống đất… thì cũng hổ lốn, chẳng làm
sao móc nối với nhau, như những bài viết trên trang Tin Văn, và khi ông
xuất hiện, giơ cao cây đũa thần, thế là dàn nhạc lập tức chơi bản đại
hoà tấu “Vạn Vật Hấp Dẫn”.
Cái bản nhạc Vạn Vật Hấp Dẫn của trang Tin Văn, đó là lòng dân Mít lại
qui về một mối, theo kiểu Nối Vòng Tay Lớn, mỗi bàn tay hút nhau, đẩy
nhau, như vạn vật hấp dẫn vậy!
Để có được bản đại hoà tấu đó, là phải ôm riết lấy Lò Cải Tạo, truy đến
tận cùng Cái Ác Bắc Kít, và khu trục nó.
Bản nhạc trên, đã từng được tấu lên một lần rồi, nhưng là đồ dởm, thành
thử gây đại họa!
(1) Hiện nay, để kiếm bài cũ, Gấu sử dụng Google, thứ đặc biệt có tên
là Google Desktop, downlaod từ net. Nhờ nó, nếu không là vô phương!
* Tự do là khi ta bắt
đầu quên
tên lãnh tụ.
Joseph Brodsky (1940-1996), Nobel Văn chương 1987
talawas trích dẫn.
Note:
Câu này, có cả một giai thoại
đi kèm, và liên quan tới, chỉ một trường hợp Brodsky, như David Remnick
viết: Brodsky
sinh năm 1940 tại Leningrad.
Khi còn là một học sinh, sự tức giận, nổi loạn của ông ít nhắm vào ý
thức hệ Cộng-sản
mà về vẻ u ám của văn hóa Xô-viết và sự thừa mứa hình lãnh tụ. "Có cậu
bé
Lênin, như thiên thần có cánh với mớ tóc nâu", ông viết trong nhật ký
thời
trẻ. "Rồi Lênin trong những năm 20, 30; chẳng có một sợi tóc trên chỏm
đầu, mặt nghệt
ra...".
Bộ mặt này đã ám ảnh mọi người dân Nga. Cố tránh né nó là bước đầu
của ông để trở nên lạnh lùng, dửng dưng. (1) Tôi hết còn tin vào nơi chốn đó.
Hay như Coetzee ghi nhận:
Nhưng bảnh nhất, vẫn là thái độ từ chối
khoe ra những vết thương mà chế độ ưu ái dành cho ông.
Trong hành trình tự thuật
của ông, Brodsky không hề nhắc đến đoạn đời 1960, là lúc xẩy ra vụ án
chấn động
giang hồ của ông, và sau đó là lưu đầy nội xứ ở một nông trường cải tạo
ở phiá bắc
nước Nga. “Bằng mọi cách, hãy tránh đừng ban cho mình cái mác nạn
nhân”, ông nói
với sinh viên trong một cuộc nói chuyện.
Coetzee: Stranger Shores.
(1) Về cái sự dửng dưng đối với
chế độ, nhà nước, quê hương... của Brodsky, có một tay viết về nó, thật
tuyệt, trong cuốn Lưu Vong và Sáng Tạo. Bữa nào rảnh, lục đống sách,
Tin Văn sẽ đi một bài, chỉ về thái độ, "tao chán tụi mày quá rồi!",
của ông.
*
Bài viết chỉ được một nửa sự thực về Nguyên
Ngọc.
Ông đã từng "từ chối" anh hùng Núp?
*
Vậy tại sao ông lại không tiếp tục viết về Tây Nguyên? Lẽ nào sau anh
hùng Núp, lại là sự... "núp bút" của ông?
- Cũng đã cố thử đấy chứ, nhưng cứ được 2, 3 câu là lại trở lại giọng
điệu "anh hùng ca". Tìm một giọng điệu mới để phản ánh hiện thực mới
hình như là điều tôi không làm nổi.
- Tại sao ông lại không thích giọng điệu ấy nữa?
-"Anh hùng ca" là giọng điệu của một thời mà chúng ta đã
sống một cách phi thường. Nhưng là con người, làm sao có thể mãi sống
phi thường? Đã đành, cái phi thường là điều vĩ đại, nhưng biết đâu, cái
bình thường còn vĩ đại hơn?
- Như một số cây bút thành danh khác, ông cũng thích phủ nhận và "xoá
sổ" quá khứ của chính mình sao?
- Không phải phủ nhận, nhưng đó là việc đã được làm xong. Giờ, thì phải
đi làm việc khác. Tôi
sợ sự phi thường
* Mấy lần Đất nước đứng lên Đứng lâu cũng mỏi cho nên
phải nằm Hại thay một Mạch nước
ngầm Cuốn
phăng Đất Quảng lẫn Rừng Xà nu! Xuân Sắc Thế
nào là văn chương tự vấn?
Trên Tin Văn,
có hai bài phỏng vấn thật bảnh về Nguyên Ngọc. Copy từ net, có quá
nhiều lỗi. Đã sửa lại. Xin trân trọng tái giới thiệu, và biết đâu, có
hứng, viết về lần gặp ông tại Hà Nội.
NQT
Nguyên Ngọc & Nguyễn Quốc Trụ
@ Rendez-Vous. Hà Nội [Tháng Sáu 2001]
*
Mauvaise Conscience, cái gì vậy cà?
Thuật ngữ này, Gấu gặp lần đầu tiên, khi phụ trách trang VHNT
cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến, trước 1975.
Đúng ra, không phải Gấu, mà là ông bạn Mít học trường Tây,
Gấu vẫn thường xin bài. Lần đó, ông dịch bài diễn văn Nobel của
Saint-John Perse, và đụng từ này, một buổi sáng đẹp trời, ông ghé Quán
Chùa, hỏi khơi khơi những bạn văn ngồi cùng bàn, Gấu ngứa miệng bèn
dịch liền tù tì: Ý thức hư ngụy. (1) Từ này, sự thực, là mượn đỡ cái từ
tiếng Việt vẫn thường dùng để dịch từ mauvaise foi: ngụy tín.
Ông bạn Mít học trường Tây nhìn Gấu khinh khỉnh, ra cái điều
mày dân Mít học trường Mít, có biết tiếng Tây không đấy, mà dám dịch ẩu
dịch tả.
Nhưng sau đó, ông ta dùng đúng chữ của Gấu để dịch từ này.
(1) Có lần tán gẫu với NTV về từ này, anh cho biết, mấy anh Tầu dịch
là "tự vấn". Gấu bèn lèm bèm, "hư ngụy" hay hơn, vì lấy được ý "ngụy"
mà VC gọi đám Miền Nam. NTV lắc đầu, không được, làm như thế là cố tình
ép chữ vào cái nghĩa mà mình cần, là hấp diêm nó!
*
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này, là Nietzsche.
La mauvaise conscience
Extrait de Aurore, Livre I, § 76, Nietzsche
: Mal penser c'est rendre mauvais
Les passions deviennent mauvaises et
perfides lorsqu'on les considère d'une façon mauvaise et perfide. C'est
ainsi que le christianisme a réussi à faire d'Éros et d'Aphrodite -
sublimes puissances capables d'idéalité - des génies infernaux et des
esprits trompeurs, en provoquant dans la conscience des croyants les
remords à chaque excitation sexuelle. N'est-ce pas épouvantable de
transformer des sensations nécessaires et normales en une source de
misère intérieure et de rendre ainsi volontairement la misère
intérieure nécessaire et normale chez tout être humain ! De plus, cette
misère demeure secrète, mais elle n'en a que des racines plus profondes
: car tous n'ont pas comme Shakespeare dans ses sonnets le courage
d'avouer sur ce point leur mélancolie chrétienne. - Une chose contre
quoi l'on est forcé de lutter, que l'on doit maintenir dans ses
limites, ou même, dans certains cas, chasser complètement de l'esprit,
devra-t-elle donc toujours être appelée mauvaise ? N'est-ce
pas l'habitude des âmes vulgaires de considérer toujours, un ennemi
comme mauvais ? A-t-on le droit d'appeler Éros un ennemi ? Les
sensations sexuelles, tout comme les sensations de pitié et
d'adoration, ont en commun qu'en les éprouvant un être fait du bien à
un autre être par son plaisir - on ne rencontre déjà pas tant de ces
dispositions bienfaisantes dans la nature ! Et c'est justement l'une
d'elles que l'on calomnie et que l'on corrompt par la mauvaise
conscience ! La procréation de l'homme assimilée à la mauvaise
conscience ! - Mais cette diabolisation d'Éros a fini par avoir un
dénouement de comédie : le « démon » Éros est devenu peu à peu plus intéressant pour les hommes que
les anges et les saints, grâce aux cachotteries et aux allures
mystérieuses de l'Église dans toutes les choses érotiques : c'est grâce
à l'Église que les affaires d'amour devinrent le seul intérêt véritable
commun à tous les milieux, - avec une exagération qui paraîtrait
incompréhensible à l'antiquité - et qui ne manquera pas un jour de
provoquer l'hilarité. Toute notre poésie, toute notre pensée, du plus
élevé au plus bas est marquée et plus que marquée par l'importance
excessive avec laquelle l'histoire
d'amour entre en scène à titre d'histoire
principale : peut-être pour cette raison la postérité trouvera-t-elle à
tout l'héritage de la civilisation chrétienne quelque-chose de mesquin
et de fou. Nguồn
Et c'est assez,
pour le poète, d'être la mauvaise conscience de son temps.
Saint-John Perse sử dụng ý trên để kết thúc bài diễn văn Nobel của ông:
Là ý thức tự vấn của thời của mình, là quá bảnh cho một nhà thơ, rùi!
* Greene thấm ý
này, và thời của mình, bèn lập lại, như tiên tri ra được cái cảnh hết
cờ giải
phóng tới mũ tai bèo giã từ vũ khí:
Nón cờ vừa được "lộng kiếng", là bèn chạy về phía những kẻ
"bị" giải phóng, nếu không muốn biến thành bọ!
Solzhenitsyn, phán, nhà văn là nhà nước trong một nhà nước, là cũng
trong ý đó.
Ngay cả khi nhà nước đúng mười mươi, nhà văn vẫn không thể nào đứng
cùng một
phía với "cái không phải là mauvaise conscience" được. Nhân vật
Rubachov của Koetler, trong Đêm giữa ban ngày, giờ phút chót, trước khi
thi hành
mệnh lệnh chót của nhà nước, công khai thú nhận tội lỗi trước nhân dân,
và Đảng
sẽ nhân danh nhân dân ban cho cái chết tử đạo, mới ngộ ra điều trên:
Trong khi
cái đầu của ông tỏ ra hài lòng với Gletkin, trái tim của ông thừa nhận,
có lẽ
con người không nên theo những hiệu quả logic của tư tưởng đến tận
cùng. Có lẽ,
lý lẽ không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người
vào một
chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.
Cái khốn nạn của văn chương Miền Bắc, suốt chiều dài chống Pháp, chống
Mỹ cứu
nước, là cứ lăm lăm một điều văn chương là phải lẫm liệt.
Trầm luân
vì niềm tin. "Bằng roi vọt chúng ta quất
lên
đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai
và chỉ là lý thuyết..."
Koestler: Bóng Đêm Giữa Ban Ngày.
Một cuốn sách
hay giống như một món đồ thân yêu, thuộc loại gối đầu giường cũng nên,
vậy mà có khi cũng không nhận ra hết mọi nét quyến rũ. Hoặc tưởng chừng
đã biết hết, nhưng sự thực không phải như vậy. Rồi một ngày nào, cơ
duyên chợt tới, và cuốn sách lúc đó mới bầy tỏ "niềm bí ẩn cuối cùng"
của nó. VớI tôi, đó là trường hợp cuốn Darkness at Noon, của A.
Koestler.
Tôi đọc cuốn
sách rất sớm, qua bản dịch "Đêm hay Ngày", do Phòng Thông tin Hoa kỳ
xuất bản, những ngày đầu làm quen Sài-gòn, cố tìm cách "biện minh" cho
một chuyến "bỏ nhà ra đi", đi thật xa, chẳng mong có ngày về. Trong trí
óc ngây thơ của chú bé "mất Hà-nội là mất tất cả", đây chỉ là một cuốn
sách "chống cộng", một cuốn sách tuyên truyền, nếu không tại sao nó lại
được người Mỹ xuất bản?
Lần thứ nhì
đọc, qua bản dịch tiếng Pháp, Le Zéro et l'Infini, Số không và Vô tận,
những năm cuối bậc trung học. Đọc và đối chiếu với bản tiếng Việt, chủ
yếu là học, tập tành dịch sách "Tây". Cùng thời với những cuốn sách
khác viết về chủ nghĩa Marx, như của Henri Lefebvre. Merleau-Ponty...
Đọc, yêu, và kính nể tác giả, nhưng vẫn chưa có cơ hội "cảm" nhân vật
của ông, Rubashov.
Lần rời bỏ
Sài-gòn, trong mấy cuốn vội vã mang theo, tôi lại gặp Koestler. Lúc
này, tôi chỉ thấy "thương" Rubashov, khi so sánh nhân vật giả tưởng này
- suốt đời tin vào chủ nghĩa, đến lúc bị đồng bọn đem xử bắn, vẫn mong
mỏi cái chết của mình thuộc loại Tử Vì Đạo, đạo Cộng sản - với những
người Cộng Sản bỏ chạy đồng bọn, vốn đầy rẫy trong các trại tị nạn.
Phải tới lần
cuối cùng, đối diện với Rubashov, tại một thư viện ở Bắc Mỹ, cùng lúc
đọc bài viết của Harold Strauss, May 25, 1941, được đăng lại nhân tờ
Điểm sách của Thời báo New York (The New York Times Book Review) làm số
đặc biệt kỷ niệm 100 năm (1896-1996); nhờ bài điểm sách của H. Strauss,
duyên hạnh ngộ giữa tôi với Koestler, với Rubashov của ông, mới thực sự
trọn vẹn.
Vả chăng, cuốn
sách cũng rất bị "hiểu lầm", và có thể được đọc như là một bài diễn văn
sơ đẳng về một triết lý mang tính chính trị, vì đã thoát thai từ những
"người thực, việc thực", từ những vụ án phản động tại Moscow. Nhưng nó
đã được viết với một sức mạnh bi tráng, với sự ấm áp của tư duy, của
cảm nghĩ; với sự giản dị, đầy tính chiêu dụ mời gọi, và trở nên cuốn
hút như một bản bi ca.
Rubashov là
tổng hợp tất cả những người Bolsheviks cựu trào bị trừ khử bởi Stalin.
Cuốn truyện mở ra vào năm 1938, với sự bắt giữ Rubashov. Ông đang mong
đợi chuyện đó. Ông chẳng phạm bất cứ một tội nào sau đó ông sẽ tự thú.
Theo kiểu suy nghĩ "chuẩn mức", những chuẩn mức "xa xỉ, đỏm đáng", ông
vô tội. Nhưng trong cái đầu có sạn, Rubashov hiểu rất rõ, ông có tội.
Tại sao? Bởi vì ông vẫn là một trong những chuẩn mức làm nên con người
"cách mạng", 40 năm trời cung cúc, tự nguyện hiến thân cho sự nghiệp vô
sản, làm sao hoàn tất nó với tất cả mọi phương tiện, dù ghê tởm, tàn
nhẫn tới đâu. Khi một con người "thép đã tôi" đến mức đó, mà lại để một
chút nghi ngờ cỏn con len lén chui vào tâm tư, khi ông tự hỏi, phải chi
mà cuộc cách mạng đỡ tốn kém đi một chút, những đau thương, những mạng
người, khi đó, ông biết rằng ông hết còn ngây thơ vô tội. Chỉ một chút
lòng trinh bạch là đủ để bị trừng phạt bằng cái chết. Thật tuyệt vời.
Koestler theo sát nút những suy nghĩ của Rubashov, tới tận điểm của "mê
cung", sự thừa nhận cuối cùng "tay chót nhúng chàm": "Tôi hết còn tin
vào ‘khả năng vô địch, bách chiến bách thắng’, của riêng tôi. Vì vậy,
tôi thua".
Tuy là một
cuốn sách viết về nhà tù, nhưng không có sự đối xử "ác ôn, côn đồ" ở
đây. Vấn đề là, một khi bị coi là có tội, theo "chuẩn mức" của nhà nước
Xô-viết, tội nhân, hoặc chết trong im lặng, hoặc "được" quyền tự thú
trước nhân dân.
Giải pháp nằm
trong tay hai thẩm tra viên Ivanov và Gletkin. Cả hai đều muốn Rubashov
bằng lòng tự thú công khai, vì thế giá cách mạng của ông rất cao, trừ
khử ông không một lời giải thích sẽ gây một tổn thất lớn lao về đạo đức
cách mạng đối với nhân dân. Ivanov, vốn là một cựu trào, tin rằng có
thể "nắm" được diễn biến, tư tưởng của người đồng chí cũ.
Hai buổi hỏi
cung đầu do Ivanov. Bằng một "logic" không thể chê, anh cho Rubashov
thấy những vấn đề mà bản thân ông không ngờ được. Anh chứng tỏ, sự mất
cảm tình, không trung thành của Rubashov bắt đầu, là khi ông trở về từ
Đức, sau hai năm bị Nazi cầm tù. Ông đòi hỏi được đi công tác tại hải
ngoại, mặc dù được trao một chức vụ quan trọng ở trong nước.
-Anh không cảm
thấy thoải mái ở đây, chắc thế? Trong lúc anh vắng mặt, đã có một số
thay đổi, và rõ ràng là anh không hài lòng?
Một khi
Rubashov thừa nhận, ông không hài lòng, việc trừ khử những cựu trào,
cái bẫy xiết chặt lấy ông. Bởi vì, theo suy nghĩ của Đảng và Nhà nước,
một chống đối công khai luôn bắt nguồn từ một bất mãn, bất trung thành
ngấm ngầm.
Ivanov chơi
một trò chơi tuyệt hảo với Rubashov. Anh kêu gọi, nhắc nhở người đồng
chí cũ về sự tuân thủ kỷ luật Đảng mà ngày nào ông đã từng một lòng một
dạ. Anh cố làm cho ông tin rằng ông đã lầm lạc. Cuối cùng thành công.
Nhưng Ivanov bị khiển trách và bị xử bắn sau đó, vì đã quá tình cảm với
tội nhân.
Buổi hỏi cung
cuối, khi Rubashov đã sẵn sàng thú tội, là do Gletkin, một kẻ "đã được
cắt nhau ở rốn", nghĩa là không còn một chút dây mơ rễ mái với đám cựu
trào. Đây là một màn tra tấn tinh vi, tạo cơn hấp hối kéo dài. Chủ đích
là phải đem vào bản tự thú, những chi tiết đặc thù. Một thỏa thuận ngấm
ngầm được đặt ra giữa đao phủ và tội nhân: một khi lời buộc tội được
coi như là đúng, tự gốc rễ, cho dù gốc rễ này chỉ có tính trừu tượng,
có vẻ hợp lý; khi đó Gletkin được quyền tha hồ vẽ ra những chi tiết còn
thiếu.
Nhưng đây mới
là mấu chót của câu chuyện, điều mà bao lần đọc Darkness at Noon, vì
thành kiến, tôi đã không nhận ra, may nhờ H. Strauss mới thấy được:
Trong khi bề ngoài, Gletkin thắng trận đấu sinh tử tay đôi (duel), một
sự thay đổi lớn lao đã xẩy ra bên trong Rubashov. Ông lần hồi trở lại
"làm người", một con người của suy tư, cảm nghĩ, của những cảm xúc mang
tính chủ quan. Trong khi cái
đầu của ông tỏ ra hài lòng với Gletkin,
trái tim của ông thừa nhận, có lẽ con người không nên theo những hiệu
quả logic của tư tưởng đến tận cùng. Có lẽ, lý lẽ không thôi, là một
cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi đầy
dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù. (1)
Hiệu quả huyền
ảo của cuốn truyện là một mỉa mai bi thảm: Rubashov tự thú công khai
trước nhân dân, và sau đó bị xử bắn. Nhưng ông mới chính là kể thắng
trận, trước đám người thống trị, nhục mạ ông.
Nguyễn Quốc Trụ
Bạn đọc để ý, câu chiêm nghiệm chót của
Rubashov, trầm tư chót, áp dụng đúng y chang vào trường hợp sau 30
Tháng Tư, 1975:
Trong khi bề ngoài, Gletkin thắng trận
đấu sinh tử tay đôi (duel), một sự thay đổi lớn lao đã xẩy ra bên trong
Rubashov. Ông lần hồi trở lại "làm người", một con người của suy tư,
cảm nghĩ, của những cảm xúc mang tính chủ quan. Trong khi cái đầu của
ông tỏ ra hài lòng với Gletkin, trái tim của ông thừa nhận, có lẽ con
người không nên theo những hiệu quả logic của tư tưởng đến tận cùng. Có
lẽ, lý lẽ không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con
người vào một chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong
đám sương mù.
Với đám Yankee mũi tẹt, chẳng có chuyến
đi đầy dông bão... : Chuyến đi này thuộc về thuyền nhân.
Nhưng có, cuộc hoá thân sau cùng, hiện
tượng Chúa Sẩy Thai. Nôm na: Biến thành bọ.
Blog Tin Văn
(1) Đây cũng là một bài học muộn, về cuộc chiến Việt nam, của McNamara:
He learned most of the lessons of Vietnam
too latez: Ông học được quá trễ, hầu hết những bài học về Việt Nam
He was
haunted by the thought that amid all the objective-setting and
evaluating, the careful counting and the cost-benefit analysis, stood
ordinary human beings. They behaved unpredictably. During the Cuban
missile crisis of 1962, which he had lived through at cabinet level,
“Kennedy was rational. Khrushchev was rational. Castro was rational.”
Yet between them they had pushed the world to the brink. Rationality,
he concluded, “will not save us.” Perhaps what would were the little
quirks that had made him love John Kennedy: the president’s sudden
capacity to be empathetic, surprised, intuitive, and ready to jettison
his most confident calculations.
Ông bị ám ánh bởi điều, giữa một đống những tính toán, nghiên cứu, đánh
giá, lên kế hoạch, đong đo cân đếm… là con người bình thường, Họ xử sự
rất bất thuờng, nghĩa là đếch làm sao biết trước được. Trong cuộc khủng
hoảng hoả tiễn Cu Bố, Cu Thầy vào năm 1962 mà ông trải qua, “Kennedy
thì hữu lý. K. thì hữu lý. Castro thì hữu lý.” Vậy mà họ đẩy thế giới
tới bờ vực thẳm.
Hữu lý, ông kết luận, ‘đếch cứu được chúng ta”.
Ui chao, còn cái gì hữu lý hơn là chân lý “Lước Việt Lam Nà Một”!
* Có đoạn này, trong bài
viết của Thần đồng họ Trần, về Nguyên Ngọc, thật
tuyệt: Chiều
7-9- 2000, Nguyên Ngọc
về đến Hà Nội thì sáng ngày 8-9, nhà văn Nguyễn Trí Huân, Phó Tổng thư
ký cùng
nhà thơ Nguyễn Hoa, cán bộ Tổ chức Hội, thay mặt Ban Chấp hành đã đến
tận nhà
trao ông Huân chương Độc lập hạng nhì của Nhà nước cùng với lẵng hoa
của Hội
nhà văn. Phó Tổng thư ký Nguyễn Trí Huân còn thông báo cho ông biết,
ông có 7
triệu đồng tiền đầu tư sáng tác
- Ồ, cái đó thì mình không
nhận đâu.
Nguyên Ngọc lắc đầu. Nhà văn
Nguyễn Trí Huân cười điềm đạm:
- Đây là lộc chung thôi anh
ạ. Lộc của Nhà nước mà!
- Lộc nào của Nhà nước. Tiền
đóng thuế của dân đấy. Mình không nhận đâu!
*
Gấu, là Gấu đợp liền!
*
Nhà văn giả đò
Trong số những nhà văn giả đò, bảnh
nhất, có lẽ là me-xừ Romain Gary. Ông này sinh ra đời một cái, là được
bà mẹ
xúi, con phải là nhà văn, còn chính ông con thì tự nhủ: Mình sẽ là Chúa
Giê Su
đợt thứ nhì. Hay đợt thứ ba, thì cũng còn tùy.
Đợt thứ nhì, theo Gấu, khủng khiếp nhất,
đó là trường hợp Chúa Sẩy Thai, hay hiện tượng Con Bọ của Kafka.
Chúng ta cứ giả dụ như Chúa suy tư, như
vầy:
Lần đầu, Ta nhập thế, dưới hình hài con
người, chịu tội thay cho loài người, tụi nó không cám ơn thì chớ, lại
đem Ta
đóng đinh.
Lần thứ nhì, Ta thử nhập thế, dưới dạng
bọ, rồi chịu tội thay cho con người, dưới dạng bọ, dạng ruồi... coi có
đi tới
đâu không.
Cũng không đi tới đâu!
Lần thứ ba, là qua... Romain Gary. Ông
này, không cần loài người đóng đinh, mà tự tay làm thịt mình.
*
Romain Gary
Và điều mà tôi toan tính làm, là, sẽ
thuyết phục bạn, về một sự kiện, bề ngoài xem ra có vẻ quái dị khó tin
[incredible], ông Romain Gary này cứ nhẩn nha nghĩ về mình, và tạo vóc
dáng cho
mình, y như là đây là Lần Tới Thứ Nhì [as if it were the Second
Coming]: Romain
Gary là một "self-anointed, self-appointed, self-resurrected" [tự xức
dầu thánh, tự phong chức, tự tái sinh], và, sau hết, một Chúa Cứu Thế
Tự Đóng
Đinh Chính Mình, a self-crucified Messiah.
Note: Lần Tới
Thứ Nhất, các bạn biết rồi, và đang sửa soạn để tưởng nhớ, vinh danh,
vào ngày
25 Tháng Chạp sắp tới.
Vinh Danh Chúa Trên Trời
Bằng An Người Dưới Thế
"Mẹ tôi," Gary
nói về bà cụ của ông, vào năm 1973, 'hơi
bị được huyễn hoặc', [My mother was pretty legendary]. "Bằng nghĩa đó,
tôi
muốn nói, bà rất ư là giỏi trong cái chuyện phịa ra những huyền thoại".
Hơn thế nữa, ông tiếp tục, bà bị mắc một thứ bịnh rất phổ thông ở Âu
Châu vào
thời kỳ đó: bịnh sính Tây, cứ nghĩ ai cũng có thể là một Jean d'Arc,
thứ bịnh
này lan rộng trong đám Do Thái thuộc vùng Đông Âu.
Thế là ông con được thừa hưởng cả hai
nét [đẹp] này của bà mẹ: Sính Tây và mê đến điên cuồng phịa ra những
huyền
thoại. (1)
(1) Về vụ này, ônh phán: Đếch có một giọt máu Tây nào trong huyết quản
của tôi, nhưng nước Pháp chảy qua tôi!
Bà là Do Thái? Lại một lần nữa, chẳng có
ngay một câu trả lời sẵn sàng. Giữa đám đông, Gary khoái nổ, mẹ tớ là
người Do
Thái, nhưng, riêng tư, cái gốc gác chân thật, Do Thái giáo nói tiếng
Yiddish,
đặc biệt lạ thường của bà mẹ, chỉ còn có 1, nếu ông con nổ, 4. Chính
ông con,
nếu được hỏi, thì bèn hiên ngang 'vỗ ngực xưng tên', "Nếu người ta muốn
tôi là Do Thái, thì hà cớ làm sao mà không nhận, có chết chóc thằng cha
nào
đâu?" ["If people want me to be, I don't mind"].
Ui chao, thế là gần như tất cả mọi người
đều muốn như vậy - khởi đầu, chẳng có gì hồ nghi, là những người Ba Lan
ở Vilnius, và Warsaw. Gary
sống cùng
họ, từ khi ba, tới năm, mười bốn tuổi. Với cái tên Kacew, chạy Trời
không khỏi
nắng... Do Thái: Cậu bé được coi là Do Thái, được gọi bằng một cái tên
Do Thái,
được đối xử như là Do Thái, và như vậy, mọi ý định, toan tính, mục đích
đều đưa
đến chuyện, ông là một Do Thái, ngoại trừ điều này: Bà mẹ Nina đã cho
con làm
lễ rửa tội, là một tín hữu Ky tô, và thường xuyên được một ông linh mục
Chính
Thống giáo ban phước lành.
Nhưng, nói cho cùng, đấng Giêu Su, thì
cũng đâu phải là một tín hữu Do Thái thuận thành, ngoan đạo, ăn chay
trường?
[Jesus wasn't a very kosher Catholic either]. Và, như chúng ta đã biết,
ông
Gary này làm sao mà bỏ qua một dịp may như thế: hăm hở tự nhận mình là
một tay
nào khác, cho dù đây là đấng Giêu Su, và, khi coi mình như là đấng Giêu
Su, thì
làm sao mà bỏ qua dịp may hiếm có: thưởng thức những đau khổ mà Chúa đã
từng
chịu đựng vì nhân loại?
Mãi sau này, ông đã từng hết sức giận
dữ, khi mấy anh Israelis từ chối không đưa tên ông vô cuốn Vẻ Vang dân
Mít, ấy
chết xin lỗi,Vẻ Vang dân Do Thái, của họ. "Những người Đức," ông nói,
"vậy mà có quan điểm thoáng hơn nhiều" [Les Allemands avaient des
vues plus larges] (1974).
*
Note: Trên tờ Le Magazine Littéraire,
số Tháng Sáu 2009, đặc biệt về Socrate, kèm tài liệu mới tìm đuợc về
Romain Gary, cho thấy, chính là một âu lo về Lò Thiêu khiến ông tự sát.
Người ta đã hiểu lầm quá nhiều về ông.
Blasphémer pour afftronter la Shoah. Phỉ báng để đối đầu Lò Thiêu.
Les Risques du je: Rủi ro với trò chơi cái tôi: Gấu, Hai Lúa, Jennifer
Tran, Tuấn Anh, Sơ Dạ Hương, Lý Thương Ẩn, và NQT