|
Hôm nay
Hiếu đi học.
Hàng năm cứ vào cuối thu, lá
ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc, là
Hiếu lại
nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường!
20
năm trước, 1989, Bức Tường Bá Linh sụp đổ
Russia's past
The unhistory man
Sep 3rd 2009
From The Economist print edition
Russia
should do more to condemn Stalin’s crimes—for its own sake
Vì một Bắc Kít
của chính Bắc Kít, vì "hồn ai người ấy giữ", Yankee mũi tẹt nên kết
án Cái Ác Bắc Kít!
Polar
asks a character
in JM Coetzee's new book Summertime. This unsparing,
autobiographical novel continues the intimate conversation the Nobel
laureate
has been having with a series of alter-egos in his work.
Một bài viết thật
tuyệt về Coetzee.
Gấu biết đến ông này, là nhờ đọc tờ Điểm sách Nữu Ước, và đọc những bài
viết của ông, trước khi được gom thành sách. Bài về
Walter Benjamin, vừa đọc một cái là mê liền, và dịch liền. Dịch tới
đâu, là bèn phôn hẹn gặp NTV, khi đó chưa về nước ở luôn, ở một quán cà
phê Tầu
[Coffee Time] gần nhà anh, tại Khu Phố Tầu Đông, Toronto, và nhờ anh
'hiệu đính'.
Tiếng Anh của Gấu hồi đó tệ lắm, nhưng liều cùng mình, chơi toàn thứ
dữ, Steiner, Coetzee, Brodsky...
Đúng là điếc không sợ súng!
Bây giờ cũng chẳng hơn gì.
Nhưng đâu cần!
*
by Selina Hastings
The Sunday Times
review by
Robert Harris: despite Selina Hastings’s best efforts, her biography of
Somerset Maugham shows him to have been cruel, cynical and a ‘malignant
crab’
Khi Maugham, khi đó là tác
giả thành công nhất trên thế
giới, ăn thượng thọ tám bó, vào năm 1954, nhà xb bèn đề nghị một số nhà
văn đóng góp bài vở cho một tuyển tập đặc biệt vinh danh ông, nhưng ai
cũng lắc, trong có cả những
đấng bạn quí của ông.
Thành ra đành phải bỏ!
Ui chao đọc một cái, là Gấu rụng rời
hết cả chân tay, như nhìn ra số phận của mình, khi đi, không kèn, không
trống,
không ma nào phân ưu, tưởng niệm, ai điếu.
Tin Văn có mặt trên 10 niên trên chốn
giang hồ hải ngoại, vậy mà Vê ô a, Bi Bì Xèo, hay em TK, đài Rờ Fờ Fờ
gì gì đó, đều coi như hủi, chẳng thèm nhắc tới.
(1)
Bèn
nhớ đến BHD, để tự an ủi:
Ta tha thứ cho mi, vì mi lắm kẻ thù quá!
(1) Sự thực, Gấu vờ họ. Thí dụ, trường hợp 'em' [từ này, của một ông
trong nhóm Sáng Tạo, họa sĩ DT hình như vậy] TK, nghe nói bà con bên vợ
của NTV. Và qua NTV cho biết, em có hỏi thăm Gấu, khi bà xã NTV qua
thăm Paris.
Mấy đám kia, miễn còm.
The Secret Lives of
Somerset Maugham: Có mấy thằng cha... Gấu?
*
‘Mặc dù người viết
tiểu sử
của ông đã cố gắng hết sức’ nhưng chẳng làm sao giấu được, Maugam
quả đúng
là một tên ‘sa đích văn nghệ’, độc ác, đểu giả, một ‘con cua hiểm độc’.
Ui chao,
lại nhớ đến nữ sĩ Hoàng Đông Phương mô tả dáng đi của Gấu: như một
con bồ câu bị lấy mất bộ óc!
Tuy nhiên
Maugham chắc thua Léon Bloy, người đã từng được Greene vinh danh,
bằng một “câu lớn lao”, a “great phrase”, của Gaugin: Life
being what it is, one dreams of revenge: Sống ở trên đời thèm miếng
thịt kẻ thù.
Tờ Le Magazine Littéraire, số đặc
biệt về sự độc ác của mấy đấng
nhà văn, không thể bỏ qua Bloy. Bài viết trên báo này, thua bài viết
của Greene, theo Gấu.
Nên nhớ, Bloy là tác giả của câu văn trứ danh thần sầu sau đây:
L'homme a des endroits de son
pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre afin
qu'ils
soient.
Trái tim đáng thương
của con
người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo
ra
chúng.
[W.G. Sebald trích
dẫn, làm
đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác
trong
Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and
Cruelty
in the Works of Peter Weiss, trong
"Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, On the natural history of
destruction", nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức].
Những hứa hẹn của một bộ mặt bô
trai!
Les délices de la polémique
Cái thú ỉa vào
miệng nhau của giới viết lách
Langue de Bloy
Lưỡi của Bloy
Le plus féroce
des écrivains français ne sacrifiait jamais à l'injure
inarticulée. Il fut d'autant plus intraitable qu'il était un entêté de
«
l'Absolu ».
Nhà văn Tây
hung dữ nhất không hề bỏ qua, ngay cả những lời lăng mạ không thốt
nên thành lời.
Ông bị Trời
hành, vì dám đụng tới Tuyệt Đối. Ông phán:
"Như những kẻ bị Tuyệt Đối cắn phải, tôi đếch có bạn."
Thảo nào, Gấu đếch có bạn, vì đụng nhằm Cái Ác Bắc Kít Tuyệt Đối!
Graham Greene viết về Bloy,
trong cuốn The
Lost Childhood, chê cũng dữ, mà khen cũng thú.
Bài viết Man Made Angry của ông, mở ra thật dữ dằn:
Thật mất thì giờ chỉ trích thằng cha Gấu nhà văn, mày có biết tiếng Tây
không
đấy? Thằng chả chỉ lo có mỗi một chuyện là tự vẽ vời ra mình, từ nỗi
cay đắng,
là một thằng Yankee mũi tẹt, bỏ chạy cái ao làng xứ Đoài mây trắng lắm,
từ thù
hận và tủi nhục...
Nhưng Bloy, đích thị xừ luỷ, viết về mình, mới phách lối làm sao:
Tớ [Gấu] cũng sắp xuống lỗ rồi. Cũng có tí tác phẩm, khá bảnh,
phải nói,
thật bảnh. [Thí dụ, Những Ngày Ở Sài Gòn, Lần Cuối Sài Gòn, Tứ Tấu
Khúc ?].
Ngay cả mấy thằng thù [Gấu] đến phát điên lên, cũng phải úp mặt vô
tường [chữ
của ông con NĐT], lẩm bẩm, đúng, đúng, Gấu là một nghệ sĩ nhớn!
Gấu nhà văn
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Một thời để yêu, để hát, và để chết
Bài
Ngày mai đi nhận xác
chồng này Gấu đọc lại, mới nhớ ra đây là một bài viết bỏ lửng, tính
viết tiếp,
rồi quên luôn.
Vào lúc đang viết đó, Gấu
đụng vô, cái gọi là sự “chúc dữ của nước”, tạm gọi như vậy, mô phỏng
điều mà
Koestler gọi là sự "chúc dữ của cái vòng tròn", la malédiction du
cercle, giáng lên văn minh Tây Phương.
Vì quá mê cái vòng tròn mà
văn minh Tây Phương mất mẹ nó mất hai ngàn năm, kể từ Pythagore cho đến
khi
Kepler khám phá ra quỹ đạo của các hành tinh là hình bầu dục [ellipse].
Khi Kepler khám phá ra điều
này, ông nghĩ mình là thằng khùng, hay tên tội phạm, bởi vì đây là điều
cách
đây hai ngàn năm Pythagore đã biết rồi!
Nhà Gấu bị chúc dữ bởi
nước! Vào năm 1946, ông bố bị một ông học trò làm thịt, đòm một phát,
thẩy thầy
xuống sông, kèm cục đá.
Thằng em trai của Gấu chết vì
một viên đạn bắn từ bên kia sông, xuống mặt nước, giống như bắn thia
lia, và
viên đạn nhảy lóc cóc trên mặt nước, qua bên này sông, bay lên, lọt vào
ót
thằng em trai, lúc đó đang cùng tiểu đội tuần tra vòng đai phi trường
Sóc
Trăng, vào năm 1967, trước Mậu Thân một năm. (1)
Khi thằng em vô quân trường
Thủ Đức, là Gấu đã ngửi ra cái chết của nó.
Và nó sẽ chết vì nước!
Lần Gấu thoát chết vì mìn
claymore của VC ở bờ sông Sài Gòn, là Gấu biết, thằng em vô phương!
(1) Đây là Gấu phóng đại, làm gì có viên đạn nào đi thia lia, nhẩy lóc
cóc, nhưng nếu bạn bắn một viên đạn xuống bước, thì bắt buộc nó phải
trồi lên, theo một định luật về vật lý học. Thằng em Gấu quả là chết vì
một viên đạn như thế. Khi nghe tiếng súng từ bên kia sông, theo phản
sạ, cu
cậu cúi đầu né, cái nón sắt, do ẩu tả, không cài dây, rớt xuống đất, và
khi viên đạn bay hết đà, bèn ghé cái ót cu cậu nằm nghỉ!
Gấu đã từng
gặp viên quân y sĩ, ông nói, nếu lấy viên đạn ra, thì sẽ nát bấy khuôn
mặt, nên tôi để luôn trong đó.
Đến khi Gấu bỏ chạy quê hương, bèn đào mộ ông em, lấy xác, hoả thiêu,
đem tro cốt vô chùa, vì cũng sợ, mấy ông VC chẳng tha người đã chết.
Và
quả đúng như vậy, chúng cho ủi sạch nghĩa trang quân đội Gò Vấp.
Mới đây thôi, đứa con gái út của Gấu về Việt Nam, ghé chùa, mang tro
cốt của bà cụ và đứa em trai ra Vũng Tầu, thả xuống biển.
Bà sư trụ trì chùa
nói, Ông Tướng Râu kẽm cũng vừa ghé, và cũng làm như
Gấu!
Gánh Nặng
Tuổi Thơ
Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ
trên, đa số
là những phê bình, nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ,
phải nói
là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn
sách mà
chúng ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt
hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời
thơ
ấu khốn
khổ khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi
Gấu trở
về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu
còn ở
lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh
nặng
tuổi thơ…
*
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ, Graham Greene viết:
"Có vài nhà văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống
ai,
nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh nặng
tuổi thơ.
Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong trường hợp
Dickens, còn
với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà bà cô Aunt
Rosa, bên
một con đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai đều chẳng bao giờ quên được.
Tất cả
những kinh nghiệm sau đó của họ, đều như dính mắc tới những tháng,
những năm
bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng
ta
đã có tí ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào
những năm
tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng
chứa toàn
những cay đắng ngày nào, (1) thì có lẽ những lời phán của Greene xem ra
cũng
đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương
tựa vào
nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế
độ,
trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc,
tìm ra
được quê hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một
lô những
ông bạn quí hoá."
*
Hai ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc đời cắn, bất
thình
lình, đúng vào lúc chưa biết thế nào là tự vệ. Khác thường làm sao, là
cách họ
phản ứng, sau khi bị cắn. Dickens học được sự thân ái, sympathy.
Kipling, sự
độc ác. Dickens phát hiện và khai triển một văn phong dễ dãi, tự nhiên,
easy
and natural, đến có thể ôm trọn cả nhân loại vào trong sự hiểu biết của
nó.
Kipling chế tạo ra cỗ máy đi dã ngoại, rất ư là hợp thời, vào thời đó.
*
Câu
này, Bonaparte viết cho người yêu Joséphine, Gấu mượn để tặng Gấu Cái:
Sự nghèo
khổ, bị tước đoạt, và sự cùng cực làm nên vợ nhà văn nhớn. La pauvreté,
les
privations et la misère sont l'école du bon soldat. Napoléon Bonaparte.
Extrait
d'une Lettre à Joséphine de Beauharnais.
Note: Tks. Napoléon Bonaparte. Gấu.
(1) Đây là Gấu Cái nhớ lại kỷ
niệm tuyệt vời nhất trong đời, là lần rời Cai
Lậy về Sài Gòn, và, vì nước lụt, xe cô dâu biến thành xuồng.
Bả than:
Trên xuồng
có đủ cay đắng, đủ dùng cho... ba người, người thứ ba là cô phù dâu
cũng ngồi
trên xuồng!
*
Gấu, nhà văn
Unpredictability, not the inevitable death, Nooteboom seems to say, is
at the
core of our life.
Nguồn
Không thể biết trước, chứ không phải chết không thể nào tránh được, đó
mới là
cốt lõi của cuộc đời của chúng ta.
Unhappiness wonderfully aids the memory.
Greene: The Burden of childhood
[Bất hạnh là thuốc bổ của hồi nhớ]
*
Không thể biết trước được.
Quả có thế.
*
Lại nói chuyện tuổi thơ bất hạnh.
Trong bài ‘tạp ghi đầu tay’ mở ra sự nghiệp‘Gấu nhà văn tạp ghi’
ở hải
ngoại (1), Nước Cờ Của Hư Trúc Gấu
đưa ra nhận xét, những nhân vật của Kim Dung đều bước ra từ cái bóng
của Oliver
Twist của Dickens.
Những đứa trẻ bất hạnh.
Bài viết gây một trận sóng gió trên diễn đàn VHNT của Phạm Chi Lan, chỉ
mãi sau
này Gấu mới biết, khi tình cờ ghé mục lưu trữ của báo. Và đây có thể
coi là bài
đầu tiên Gấu viết cho báo này, không phải bài Mùa
Xuân nói chuyện
Mậu Thân bị PCL từ chối, kèm cái note thật là lịch sự, …
đây là
một nhân vật gây tranh cãi, tốt nhất, anh đưa bài khác, cho khỏi xui
cái duyên
văn tự giữa anh và VHNT.
(1) “Nick’ này, Gấu nhờ nhà thơ Luân Hoán mà có được. Trong đại tác
phẩm hàng
ngàn trang Nhà văn Việt Nam của ông, hân hạnh có Gấu ở trong đó, phần
tiểu sử,
ông ghi nhà văn, nhưng phần tác phẩm, thấy toàn tạp ghi, thành thử
‘chết tên’:
Gấu nhà văn tạp ghi.
Bài viết đăng trên tờ Văn Học, trước khi Gấu giữ mục Tạp Ghi, vài
tháng, hoặc
một niên sau đó. Một ông nhà văn ở tòa soạn báo này [hình như là PN]
bèn gửi
cho VHNT. Thời gian đó, Gấu chưa biết net, chưa biết không gian ảo là
cái gì,
tuy có tậu được một cái PC, nhưng chỉ sử dụng được trên Dos, không có
Window.
Thế là một bàn tròn văn học được mở ra, đây chắc là mục thường trực
cuối tuần
của báo này. Gấu còn nhớ trong đó có nhà văn THT. Ông này thì chán Gấu
như chán
cơm nếp nát, từ trước 1975, bèn lắc đầu, đọc văn đọc thơ là "cảm
nhận", chứ đâu có phân tích phân tiếc nhức đầu như thế này. Một ông,
trẻ,
Gấu chưa từng nghe danh, ở trong ban biên tập, thì rất ư bực mình, Kim
Dung thì
có liên can gì tới Dickens, đến những đứa trẻ bất hạnh? Đến cái đoạn
Gấu tán
phó mát về nước cờ của Hư Trúc, ông càng bực, đây là nước cờ ăn may, là
vô
chiêu thắng hữu chiêu, là buồn ngủ gặp chiếu manh, tình cờ may mắn mà
có được,
liên quan gì tâm hư tâm trúc ?
*
Sau này, khi viết thường trực cho VHNT, Gấu cũng hân hạnh, thường xuyên
được là
đề tài của bàn tròn văn học, và những lần như thế, đều được PCL gửi cho
một bản
sao. Một lần, một ông tỏ ra hết sức bực mình về chuyện Gấu rất ư là
nhập
nhằng
giữa những gì viết ra, và những gì được coi là trích dẫn, dịch thuật,
"his
own style", như ông viết.
Quả có chuyện đó, thành thử sau này, Gấu cố gắng, mỗi lần trích dẫn, là
mở
ngoặc, đóng ngoặc thật là đàng hoàng. Tuy nhiên, cách tốt nhất, cứ coi
như
chẳng có Gấu ở trong đó.
Toàn là của người, cả.
Đây là giấc đại mộng của Walter Benjamin, làm sao viết tác phẩm, chỉ
gồm toàn
trích dẫn, và phần của ông, giống như những giàn dựng, khi tác phẩm
hoàn thành,
được rút ra, dẹp bỏ.
Đây còn là giấc đại mộng của Roland Barthes: Tác giả, mi hãy chết đi,
để cho
độc giả xuất hiện.
*
Đỗ Long Vân, khi viết Vô Kỵ giữa chúng ta, tuy trân trọng tiểu
thuyết chưởng
Kim Dung, nhưng tự hỏi, Vô Kỵ là ai, mà ở giữa chúng ta, và nghi vấn
này, [cơn
sốt, hiện tượng mê Kim Dung tại Miền Nam lúc đó, do đâu mà ra],
người
đời sau sẽ giải đáp.
Nghi vấn này, cho đến nay, vẫn chưa sao giải đáp. Trong nước sau 1975
còn mê
Kim Dung hơn trước nhiều. Những bản dịch sau này, đầy đủ hơn, từ những
bản văn
đã được Kim Dung nhuận sắc, bỏ đi những đoạn mà tác giả coi như là dài
dòng.
Trước 1975, đọc Lục Mạch Thần Kiếm, Gấu không hiểu, tại làm sao
mà pho
tượng trong động, nơi Đoàn Dự học Lăng Ba Vi Bộ, lại y chang Vương Ngọc
Yến, y
chang người đẹp trong tranh của Hư Trúc.
Hoá ra là tất cả là cùng một nguồn gốc.
Tuy nhiên đọc mấy ông dịch giả kiêm phê bình gia, biên khảo gia, thí dụ
như ông
Vũ Đức Sao Biển chẳng hạn, thì hỡi ôi, sao lại có những ông liều lĩnh
đến như
thế, và mới hiểu ra, là Kim Dung thật không dễ đọc, và vấn nạn Nước Cờ
Hư Trúc
quả thật không dễ giải đáp.
Và càng khó thực thi.
Giai thoại Nước Cờ Hư Trúc là từ tư tưởng Phật giáo, nhưng nó làm nhớ
tới giai
thoại "rau vô tâm" trong truyện Đát Kỷ giết Tỷ Can, bằng cách moi tim
ông làm thuốc. Ông này nhờ được mách bảo, sau khi bị móc tim, hãy ngậm
miệng
đừng nói thì toàn mạng, và khi không thoát khỏi sự tò mò, hỏi cô gái
bàn rau,
rau vô tâm là rau gì, và khi nghe trả lời rau muống, thế là ngã xuống,
đi luôn.
[Nên nhớ rau muống là rau 'quốc hồn quốc túy' của dân Việt].
Thành thử "hư trúc" thì mới giải được nước cờ, nhưng "hư
trúc" thì chết!
Trong lời giới thiệu, đại gia VĐSB phán, chúng tôi gọi Tiếu Ngạo
Giang Hồ là
một siêu phẩm. Toàn bộ tác phẩm gồm 40 chương hồi. Tuy nhiên tác phẩm
lớn không
ở chỗ dài hơi đó. Nó lớn vì chiều sâu kiến thức chứa ngay trong tác
phẩm.
Tuy nhiên sau đó, đọc ông viết
về những chiều sâu kiến thức, nào Phật
nào Lão
mà ông gán cho Kim Dung qua những nhân vật này nọ, thì hóa ra là ông
tán tào
lao tất cả.
Điều này chứng tỏ ông không đọc nổi Kim Dung, và có thể không đọc nổi
bất cứ
một cuốn tiểu thuyết, bất cứ một thứ giả tưởng.
Chứng cớ. Ông viết, "cơ duyên nào đưa đẩy một nàng Nhạc Linh San mới
muời
sáu tuổi say mê cái mã đẹp trai của Lâm Bình Chi và dễ dàng phụ dẫy
thâm tình
ban đầu mà cô đã dành cho Lệnh Hồ Xung? Cho đến khi lấy Lâm Bình Chi,
nhận ra
bản chất tàn bạo của gã, cô mới hối hận vì đã đánh mất một báu vật trên
đời?"
Đọc, Gấu này thực sự thấy thương cho đại gia VĐSB. Thương cho những
nhân vật
của Kim Dung.
Lâm Bình Chi đâu phải bản chất tàn bạo. Tay
này
cũng một thứ tuổi thơ bất hạnh. Hắn trở thành độc ác, thì đó là do bị
cuộc đời
cắn cho một miếng thật bất thình lình, đúng vào lúc chú bé hăm he làm
việc
thiện, giải cứu người đẹp, một cô gái bán rượu, vô tình sa vào tay con
người
độc ác mưu mô, tàn nhẫn, là Nhạc Bất Quần, đem cả con gái ra làm mồi
nhử chú bé
con nhà giầu mang trong mình kho tàng Tịch Tà Kiếm Pháp.
Đã có lần Gấu lèm bèm về nhân vật này, và mối tình Nhạc Linh San dành
cho Lâm
Bình Chi, và gọi đây là một thứ “tình nghiệt”. [Trong bài viết
Ngọa Hổ Tàng Long].
Nhưng sau đọc “Sebald đọc Weiss”, mới khám phá thêm một khía cạnh của
thứ tình
nghiệt này: Nhạc Linh San là mẫu người muốn trả nợ, muốn đem lại cho họ
Lâm tất
cả những gì đẹp đẽ nhất của đời người - cái gọi là hạnh phúc - để đền
bù lại sự
độc ác của loài người, qua tác nhân là cha cô - đã giáng lên đầu đứa
trẻ bất hạnh
này, trong đó có cả sự độc ác của chính cô, khi giả làm cô gái bán rượu.
Có thể nói, cái chết của Nhạc Linh San, là đã được "tiên đoán", khi
cô khoanh tay đứng nhìn Lâm Bình Chi giết người vì cô. Chính vì thế khi
chết,
cô cố năn nỉ “người anh”, “người yêu cô”, “người bạn thời thơ ấu”, Lệnh
Hồ
Xung, hãy chiếu cố cho họ Lâm. Bà mẹ của cô, khi biết, mới than, ôi oan
nghiệt,
là theo nghĩa đó.
Sự kiện, Nhạc tiểu thư năn nỉ Lệnh Hồ Xung đừng giết Lâm Bình Chi còn
là một
mệnh lệnh: Đừng làm hỏng ước mong trả nợ, cho bố ta trước tiên, và, cho
sự độc
ác của cả giống người. Và chuộc tội cho cả ta nữa.
Đẩy đến tận cùng ước mong này, là sự thực thê lương: Không ai có thể
giết được
Nhạc Linh San, ngoài Lâm Bình Chi! Mạng đòi mạng, oan oan tương báo là
như vậy
Bảo rằng, Nhạc Linh San say mê Lệnh Hồ Xung chứng tỏ chưa đọc Tiếu
Ngạo, tuy
dịch, bởi vì chính Nhạc Linh San, khi Lâm Bình Chi trổ mòi ghen tuông,
và sau
đó giết cô, đã giải thích cho ông chồng hờ, về mối tình khi còn là con
nít này.
Ngay Lệnh Hồ Xung sau cũng nhận ra, anh không phải mẫu người của Nhạc
Linh San.
Nàng yêu một người nào như cha nàng, nhưng lại không phải như cha nàng:
Một
người như Nhạc Bất Quần nhưng trừ bỏ đi, sự độc ác.
Người tình trong mộng của Nhạc tiểu thư, như thế, chính là Lâm Bình
Chi, khi
còn là một công tử miệt vườn Phúc Kiến mê mẩn tiếng hát [quan họ?] của
mấy cô
hái chè quê mình, không phải quê người.
Cái chết của Nhạc Linh San, ở tay người chồng hờ, mang tính tình
nghiệt, của
Đông Phương. Do đó, trước khi chết Nhạc Linh San năn nỉ Lệnh Hồ Xung
chiếu cố
tới Lâm Bình Chi, và tiễn nàng ra đi, là âm thanh của những bài hát của
những
cô gái hái chè vùng [Phú Thọ] Phúc Kiến, quê hương nhà chồng trong trí
tưởng
của nàng.
Ngọa Hổ Tàng Long
Ui chao thế "lày" thì,
khi Gấu đi, Gấu Cái nhớ cho đội kèn đồng tấu bài "Đôi Mắt Người Sơn
Tây", nhé!
Đi?
Gấu lại nhớ đến lời mời của Má Mì, lần đầu tiên tới xóm:
-Thế cậu có đi không?
Ngu quá, cù lần quá, Gấu bèn lắc đầu:
-Tôi không đi!
Nhật Ký Tin Văn
Gấu đọc
lại đoạn trên, viết về
Nhạc Linh San, ngộ ra một điều, cái xứ Bắc Kít, và cái tuổi
thơ bất
hạnh của Gấu, nó hành Gấu thật là khủng khiếp, thê lương!
BHD sở dĩ bỏ đi, một phần còn
do cô nhận ra, Gấu không chỉ yêu cô, mà còn thù cô, như yêu và thù xứ
Bắc Kít,
và tuổi thơ Bắc Kít của Gấu!
Mới đây thôi, Gấu còn cố thực
hiện mối tình khốn khổ khốn nạn với cái xứ Bắc Kít khốn nạn khốn khổ
khốn kiếp,
bằng
cách đằng đẵng, cúng hết cả cái quãng đời ở hải ngoại vào cái việc mơ
tưởng thực hiện một mối
tình tưởng
tượng, với một “em”, phải nói, một “ bà
già” Bắc Kít, một "Me Mẽo" thì đúng hơn.
Gấu muốn nói với em đó, bằng
cái tiếng Bắc Kít, “Anh Yêu Em”, thực hiện giấc mơ điên khùng ngày nào
với cô bé
con Bắc Kít 11 tuổi!
[Note: Đừng có tin, phịa đấy!]
Cũng là một cách trả ơn những "Me" của Gấu, có thể nói như vậy.
Bởi vì không có bà cô, Cô Dung, một Me Tây, làm sao có Gấu nhà văn!
Nguyễn Huy
Thiệp vs Kurtz
Một xin lỗi là việc ông đã ký
đơn kiến nghị vào năm 2001, nói rằng chính phủ của ông Bush có thể đã
cho phép
các vụ tấn công khủng bố 11/9 xảy ra.
BBC
Ui chao, chẳng lẽ
Yankee mũi
lõ lập lại cú đầu độc tù Phú Lợi, nhằm có cớ tạo ra hai cuộc chiến?
Đọc lại
V[I]P
Don Quixote
Bất thình lình,
và không chờ đợi, tôi nhận được một lá thư của Giáo sư Isaias Lerner ở
Nữu Ước.
Ông là một trong một số vị thầy dậy tiếng Tây Ban Nha của tôi hồi trung
học,
một vị giỏi nhất, và thật khó quên. Ông đọc một bài viết của tôi và
quyết định
liên lạc. Tôi khi đó chắc phải cỡ 15 tuổi, khi học ông. Trọn một năm,
chúng tôi
học El Lazarillo, La Celestina, El Libra del buen amor
nhưng chẳng
bao giờ ngó tới Don Quixote, vì ông thầy muốn học trò yêu chi
tiết, lặn
sâu xuống cuốn sách thay vì mê số lượng đọc. Và tôi khám phá ra, ông dậy
Don
Quixote, ở trong một lớp học khác, thế là tôi bèn lén vô nghe thầy
giảng.
Mùa hè năm đó, tôi khệ nệ mang theo hai tập của bộ tiểu thuyết của
Cervantes,
và trải qua ba tháng trời ăn ngủ cùng với Đức Ông Don Quixote.
Theo dõi cuốn truyện ở trong lớp học, và đọc nó, ở dưới tàng cây, là
hai kinh
nghiệm hoàn toàn khác nhau. Thí dụ, tôi nhớ là ông thầy Lerner đi một
đường Mao
Tôn Cương thật là tới chỉ, về cái thư viện của Don Quixote. Để phòng
ngừa những
cơn điên khùng tiếp theo, Curate và Barber bèn quyết định xây tường bít
kín.
Đọc một mình, tôi gần như phát khóc, khi chứng kiến vị hiệp sĩ già,
loạng quạng
bò ra khỏi giường, quờ quạng, và không thể nào kiếm ra căn phòng mà ông
để
những cuốn sách của ông.
Đối với tôi, đúng là một cơn ác mộng: Thức giấc, và khám phá ra rằng,
cái nơi
chốn mà mình để những cuốn sách, biến mất, cảm thấy mình đếch phải là
cái con
người mà mình vẫn tưởng mình là: một thằng Gấu mọt sách! (1)
Samsa của Kafka, chịu cuộc hoá thân, mất mẹ bản thân, cái tôi, cái ngã.
Don Quixote, thay vì vậy, để tiếp tục nghĩ, mình là Don Quixote, bèn
tưởng
tượng ra rằng, ma quỉ đã dọn sạch cái thư viện của mình rồi!
Ma quỉ, Quỉ Đỏ, đã dọn sạch tủ sách của mi rồi.
Tên Gấu già, đọc đoạn
trên, bèn nhớ đến tủ sách của mình, bị thổi bay vào đống lửa những
ngày 30 Tháng
Tư 1975.
(1) Ui chao, bây giờ quí độc giả hẳn là thông cảm tên Gấu già ì ạch ôm
hàng ngàn số báo NYRB, TLS, hai tờ này đều mua dài hạn từ 1997 tới
2009, TLS là tuần báo, Lire, Obs, The New Yorker, The London Review,
L'Express, Le Point... , chỉ giữ lại những số Le Magazine Littéraire],
vào thứ sáu mỗi tuần, bỏ vô thùng "tái chế", chờ xe rác đến dọn.
*
Don Quixote chỉ muốn
là một kẻ
công chính, vì mình, không vì luật người hay luật Trời. “Chúa ơi! Hãy
cho ta đủ
sức mạnh và can đảm/Để ngó xuống trái tim, thân xác này mà không chán
ghét, ghê
tởm!” Lời cầu khẩn của Baudelaire gói trọn đạo hạnh của Đức Ông.
Vị thầy, the Hassidic master
Rabbi David of Lelov, mất năm 1813, phán: “Mạng lưới những hành động
đúng kết hợp
thế giới vào với nhau, biến nó thành vàng”. Don Quixote phán: “Sancho,
bạn ta,
biết, ta sinh ra là do ý muốn của Thượng Đế, trong thời đại sắt của
chúng
ta, để ta lại sinh ra, trong thời đại vàng, hoàng kim thời đại, như là
nó được
gọi”.
Với vị sư phụ, the Hassidic
master Rabbi David of Lelov, sự hiện hữu của thế gian được chứng giám,
justified,
nhờ 36 người công chính, được gọi là 36 Tên Què Gánh Tội, Lamed
Wufniks, nhờ họ
mà thế gian này chưa bị huỷ diệt [Ngày Tận Thế chưa vội tới].
Don Quixote lên đường hành động,
như là một kẻ công chính, trong một thế giới bất công, và, bất công
chính là bản
chất của
nó.
*
Đọc Don
Quixote,
tôi mê mẩn với cái thế giới mà Cervantes tái tạo ra, và ít để ý tới sự
phơi mở
của câu chuyện. Phong cảnh hai kẻ du dịch đi qua, những cuộc xung đột
hàng ngày,
nỗi đau, nỗi bụi, cái đói, tình bạn của họ thì thực một cách mãnh liệt
đến nỗi tôi quên chúng nối đuôi
nhau theo dòng kể, và tôi giản dị thưởng thức chúng, có chúng ở
kế bên. Tôi ít quan tâm tới chuyện gì sẽ xẩy ra sau đó, so với những gì
đang xẩy
ra, bây giờ. Đôi lúc, tôi cảm thấy như đang đọc những tác giả như
Conrad, hay
Thomas Mann, hay Sherlock Holmes.
Lionel Trilling
phán: “Mọi giả tưởng là một sự gia giảm, lên xuống, thay đổi, a
variation, của đề
tài Don Quixote”.
Đúng, nếu “đề tài”,
ở đây, có nghĩa: thực tại và chân lý của văn xuôi, prose fiction.
Đứa con trai của tôi, thằng Rupert, có lần nói với bố: Con không làm
sao kéo dài,
nín, nhịn, và chỉ muốn xé rào, ấy là nói về điều mà con tin tưởng vào
nó: Nhịn
không mua cái món này, món kia… Nó mới hai muơi tuổi, và gần như lúc
nào
cũng phải cưỡng lại những mời chào, mê hoặc, cám dỗ của cuộc đời, những
điều mà
nó muốn chống lại, vì nếu chiều theo, là phản bội một thứ lý tưởng nào
đó, thí
dụ vậy.
Tôi tưởng tượng ra thằng con, giống như một tay chơi cờ, muốn nhìn thấy
nước đi của mình sau cùng sẽ dẫn mình tới đâu, nhưng bất lực, và chỉ
nhìn thấy
những hậu quả tức thì.
Kundera:
Gặp gỡ
The
Necessity of Loneliness
Cao Hành Kiện
Tiểu thuyết mới
ở Việt Nam
Những rừng đen chai đứng
dậy trong đêm
khuya
Simenon
par Simenon
Simenon_Paris_Review
Kundera là nhà văn có ý thức
sâu sắc về
lối viết và được hâm mộ từ lâu trên thế giới. [ý thức sâu sắc về
lối viết, vậy thôi sao? Đúng là một câu... huề vốn!] Là người đã dịch
một số
tác phẩm
của Milan Kundera, "đến" [“mà” đúng hơn] cuốn mới in ở VN là Những mối tình nực cười, anh
đánh giá
thế nào về ảnh hưởng của Kundera với đời sống "viết lách" [dùng chữ
"văn
học", lịch sự hơn] VN?
Một mặt, tôi nhận thấy cái tên Milan Kundera được nhiều
nhà văn nhắc tới.
Nếu như đó là dấu hiệu của ảnh hưởng thì chắc chắn Kundera có ảnh hưởng
không
nhỏ ở Việt Nam, theo tôi là ngang với Garcia Márquez, mặc dù Kundera và
Garcia
Márquez rất khác nhau: nếu một người là biểu tượng của tư duy phân tích
lạnh
lùng, thậm chí ác độc thì người kia hay được coi là một bậc thầy phóng
túng và
nồng nhiệt, đầy nhân tính. Ở một số nhà văn lớn tuổi có yếu tố “phản
tỉnh” như
Nguyễn Khải hay Nguyên Ngọc dấu ấn của Kundera là không thể phủ nhận.
Tuy
nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng một nhà văn chỉ thực sự lớn khi không
ai có thể
bắt chước được.
Blog Nhị Linh
Theo tôi, không thể lấy cái sự được yêu thích ngang nhau giữa hai ông
nhà văn
Garcia Marquez và Kundera mà so sánh, như trên được, mà phải đặt câu
hỏi, và sự
trả lời, như sau đây, thí dụ:
Liệu có sự giống nhau, về chủ đề nào đó, khiến cả hai ông đều được độc
giả Mít
hồ hởi đón nhận?
Từ đó, ra câu trả lời:
Kundera, từ lò Đông Âu.
Garcia Marquez, từ thế giới thứ ba, thứ thế giới chỉ được "thực hiện có
một nửa",
nói theo Salman Rushdie:
Ở Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn là do văn
hóa. Sự
thực được bưng bít đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối cùng chỉ
còn một
sự thực độc nhất, đó là lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm
của Garcia
Marquez không có tương quan trực tiếp tới chính trị, nhưng chúng đề cập
tới
những vấn đề đại chúng bằng những ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
là một
khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu thực
diễn tả
lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là của những xã hội được
tạo thành
"có một nửa", trong đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại cái mới
làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối nát "công cộng" của đám
cầm quyền và nỗi khiếp sợ "riêng tư" của từng người dân, tất cả đều
trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez,
những điều
vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa
ban ngày
ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một
hệ
thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà
chính
là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó tính nhiệm mầu
của ông.
Mác Két Ở Xứ Mít
Có thể, độc giả Việt Nam đọc xã hội hiện tại Việt Nam, qua kinh
nghiệm,
cách viết của hai nhà văn trên. do đó mà có sự sùng bái, best
seller, hai ông này chăng?
Hỏi và trả lời, kiểu 'cò mồi', trên đây, giữa tay phóng viên và địch
giả NL, là, hoặc lệch ra ngoài nguyên tác, [biến
hai tác
giả trên, trở thành "vô hại"], hoặc, theo kiểu
ẩn dụ của Rushdie, hoặc, theo chủ trương của nhà nước: Biến mọi tác
phẩm
"nhậy cảm" thành "lãnh cảm".
Câu phán "một nhà văn chỉ thực sự lớn khi không ai có thể bắt chước
được", theo tôi, không đúng, theo như kinh nghiệm của riêng tôi: Viết
văn
là phải có thầy.
Bữa nào rảnh, sẽ trở lại với vấn đề này,
bởi vì, chắc chắn, sẽ có rất nhiều nhà văn Mít, những ông thành danh
rồi, lão làng
rồi, bật cười, tự hỏi, như tao đây, đâu cần thầy! NQT
*
Kundera là nhà văn có ý thức
sâu sắc về lối viết và được hâm mộ từ lâu trên thế giới.
Bất cứ nhà văn, nếu là nhà
văn thực sự, thì đều có ý thức sâu sắc về lối viết.
Và được hâm mộ trên thế
giới.
Ông nào, nếu hân hạnh được
dịch ra tiếng Mít, thì đều được hâm mộ trên thế giới cả!
Phán kiểu đó, mà không... huề
vốn sao?
Ở một số nhà văn lớn tuổi
có
yếu tố “phản tỉnh” như Nguyễn Khải hay Nguyên Ngọc dấu ấn của Kundera
là không
thể phủ nhận. Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng một nhà văn chỉ thực
sự lớn
khi không ai có thể bắt chước được.
NL
Thú thực, Gấu không làm sao
tìm được mạch nối giữa hai câu văn này.
Bởi vì, NK, hay NN đâu có hề
muốn bắt chước K?
V/v phản tỉnh? Ở Nguyễn Khải?
Ông chỉ mượn K hình ảnh Thượng Đế thì cười, nếu tôi nhớ không nhầm.
Còn cái sự ăn năn cuối đời vì
suốt đời
chịu hèn chịu nhục, giả như phản tỉnh, có lẽ cũng chẳng
mắc mớ gì tới K. Ở NK có sự cay cú, vì không được Đảng coi là con đẻ,
so với mấy ông khác. Cái sự đi tìm cái tôi của ông, có vẻ như là sự
tranh chấp nội tâm của ông, giữa, một bên là Đảng, một bên là Nhà Thờ,
như có lần ông thú nhận, giá không gặp Đảng, thì ông đã chọn nghề linh
mục.
Còn NN, tôi nghĩ ông dịch K là để cho lớp nhà văn trẻ nhiều hơn là cho
ông. Một cách nào đó, ông muốn, ông là K. của Mít, qua những sự kiện
như khám phá ra NHT, dịch K, vờ anh Núp, đứa con tinh thần của ông, khi
có nhà nước có ý định chuyển thành phim cuốn tiểu thuyết lẫy lừng nhất
của ông, có thể như vậy.
Một cách nào đó, 'lối viết' của Kundera được tóm gọn vào câu sau đây,
của ông:
"the struggle of man against
power is the struggle of memory against forgetting.": Cuộc chiến đấu
của con người chống lại quyền lực là cuộc chiến đấu của hồi ức chống
lại sự
lãng quên.
*
Hồ sơ K trên
Tin
Văn
Gấu kể như là người đầu tiên giới thiệu Kundera với dân Mít ở hải
ngoại, qua
mục Tạp Ghi trên báo Văn Học của NMG.
Nhờ đọc Kundera, Gấu mới viết được bài Mùa
Thu những di dân, và liên
kết được hình ảnh nhà thơ Văn Cao - đóng hai vai cùng một lúc, vừa là
thi sĩ
vừa là đao phủ thủ - với hình ảnh nhà thơ Mayakovsky ngồi ké né bên
trùm mật vụ
Nga
Dzherzhinsky.
Mít,Yankee mũi tẹt đúng hơn, quả là bảnh thật!
*
Với
tôi, hay nhất ở Phạm Duy, vẫn là những bản nhạc tình. Ông không thể, và
chẳng
bao giờ muốn đến cõi tiên, không đẩy nhạc của ông tới tột đỉnh như Văn
Cao, để
rồi đòi hỏi "thực hiện" nó, bằng cách giết người. Một cách nào đó,
"tinh thần" Văn Cao là không thể thiếu, bắt buộc phải có, đối với
"Mùa Thu", khi mà nhà thơ ngự trị cùng với đao phủ. Kundera đã nhìn
thấy điều đó ở thiên tài Mayakovsky, cũng cần thiết cho Cách mạng Nga
như trùm
cảnh sát, mật vụ Dzherzhinsky. (Những Di chúc bị Phản bội). Nhạc không
lời, ai
cũng đều biết, mấy tướng lãnh Hitler vừa giết người, vừa ngắm danh họa,
vừa
nghe nhạc cổ điển. Cái đẹp bắt buộc phải "sắt máu", phải
"tyranique", (Valéry). Phạm Duy không nuôi những bi kịch lớn. Ông tự
nhận, chỉ là "thằng mất dậy" (trong bài phỏng vấn kể trên). Với kháng
chiến, Phạm Duy cảm nhận ngay "nỗi đau, cảnh điêu tàn, phía tối, phía
khuất",
của nó và đành phải từ chối vinh quang, niềm hãnh diện "cũng được chính
quyền và nhân dân yêu lắm". Những bài kháng chiến hay nhất của Phạm
Duy:
khi người thương binh trở về. Ở đây, ngoài nỗi đau còn có sự tủi hổ.
Bản chất của
văn chương "lưu vong, hải ngoại", và cũng là bản chất của văn chương
hiện
đại, khởi từ Kafka, là niềm tủi hổ, là sự cảm nhận về thất bại khi muốn
đồng nhất
với đám đông, với lịch sử, với Mùa Thu đầu tiên của định mệnh lưu vong.
Phạm Duy muốn làm một người tự do tuyệt đối nên đã bỏ vào thành. Nhưng
Văn Cao,
chỉ vì muốn đồng nhất với tự do tuyệt đối, nên đã cầm súng giết người.
Thiên
tài Mayakovski cần thiết cho Cách Mạng Nga cũng như trùm công an mật
vụ, là vậy.
Tiểu
thuyết
không phải là tên tà lọt của sử gia
Tan hàng rã ngũ
I am in sympathy with Dostoevsky, who was so
infuriated by Russian
intellectuals who knew Europe better than they did Russia.
Orhan Pamuk: The
Collector
Tôi chịu Dos: Ông cáu lắm khi đám trí thức Nga rành Âu châu hơn nước
Nga của họ.
*
Ui chao, Gấu đọc blog NL, và đọc còm, cũng muốn cáu như Dos đã từng
cáu! NQT
Mình
tưởng vết thương ngày nào đã thành sẹo, không ngờ
vẫn mưng mủ…
Hồi
Gấu còn giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG, sau khi đụng tới
NHT, và
Nguyễn Huệ của ông, khi ra Bắc, làm cái chuyện ấy với bà gì gì đó trong
Phẩm
Tiết, và làm cái chuyện gì gì đó, với đám sĩ phu Bắc Hà, tờ VH nhận
được thư
của một độc giả, phàn nàn, chuyện NHT đã 10 năm rồi, vết thương đã lên
da non,
ông Trụ này còn chọc dao vô, rồi ngoáy ngoáy, nhưng hy vọng, lần này nó
sẽ
thành sẹo!
Khi Văn Cao tự khui ra cái vụ làm đao phủ thủ cho Đảng, Gấu tự hỏi, tại
sao,
nhưng sau nghĩ ra, không khui ra là bỏ mẹ, vì đúng vào sắp sửa đi, chưa
kịp
chôn, mà tổ chức khui ra, như vụ Vũ Bằng thì khốn nạn nào bằng!
Truờng hợp Đỗ thi sĩ, Chung Do Kwan, Gấu thoạt đầu thấy hơi lạ, ông này
đâu cần
phải lạy ông tôi ở bụi này, và lấy trường hợp Kim Phúc để cắt nghĩa,
nhưng một
nữ độc giả "mắng cho", và mách nước, phải so sánh với trường hợp Grass,
và cùng với nó, là thế kỷ bửn nhất trong mọi thế kỷ, và chính vì vậy,
ai sắp
sửa đi, là làm một cú "thú tội trước bàn thờ", để mà còn thanh thản
đi đầu thai.
*
Quả có thế. Thí dụ trường hợp Kundera.
Ông này viết về "Đời nhẹ khôn kham", và Đời bèn đáp lễ: Lịch sử không
nhẹ như cuộc đời đâu. Hòn đá Sisyphe đấy!
Milan Kundera
The unbearable weight of
history
A long-buried scandal may
taint a giant's reputation
MILAN
KUNDERA'S poignant novels epitomised the tragic division of
central Europe from the rest of the
continent. Works such as
"The Unbearable Lightness of Being" told of lives clouded or ruined
by totalitarianism.
The story of Miroslav Dvoracek, a Czech spy for the West, would fit
well into a
Kundera novel. Caught by the secret police in 1950 while on an
undercover
mission to Prague,
he was tortured and then served 14 years in a labor camp. He was lucky
not to
be executed. He has spent nearly six decades believing that a childhood
friend
called Iva Militka betrayed him; he had unwisely contacted her during
his
clandestine trip. Similarly, she has always blamed herself for talking
too
freely about her visitor to student friends. Now a police record found
by Adam
Hradlicek, a historian at the Institute for the Study of Totalitarian
Regimes,
in Prague,
suggests that it was one of those friends, the young Mr Kundera, who
was the
informer.
Mr Kundera, a recluse for decades, insists that he had no involvement
in the
affair and is baffled by the document.
Communist-era records are not wholly trustworthy. But a statement from
the
Czech archives says it is not a fake; the incident (if it happened)
could help
explain why Mr Kundera, then in trouble with the authorities, was
allowed to
stay at university even though he had been expelled from the Communist
Party.
True or not, the story echoes themes of guilt, betrayal and
self-interest found
in Mr Kundera's own work, such as "unbearable lightness" (dodged but
burdensome responsibility). In "The Owner of the Keys", a play
published in 1962, the hero kills a witness who sees him sheltering a
former
lover from the Gestapo.
As Mr Kundera himself has written so eloquently, "the struggle of man
against
power is the struggle of memory against forgetting." Under
totalitarianism, fairy tales good and bad often trumped truth. Some
heroes of
the Prague Spring in 1968 had been enthusiastic backers of the
Stalinist
regime's murderous purges after the communist putsch of 1948.
Mr Hradlicek surmises that Mr Kundera probably acted out of
self-interest, not
malice or conviction. Millions faced such choices in those times. Some
have
owned up; many have not. Countless episodes like that linger over
eastern
Europe like an invisible toxic cloud +
Người Kinh Tế, 18
Oct, 2008
Những cuốn tiểu thuyết nhức nhối của Kundera kể những cuộc đời u ám hay
bị tiêu
tan vì chế độ toàn trị. Và câu chuyện một điệp viên chìm Tây phương gốc
Czech
bị mật vụ tó do có người tố cáo thật hợp với chúng. Anh chàng này cứ
đinh ninh
là mình bị cô bạn thời thơ ấu phản bội. Cô bạn này cũng cứ tự hành hạ
mình, vì
lỡ nói về chuyến đi của anh với bạn bè của cô. Nhưng hồ sơ mật mới khui
cho biết,
người tố cáo là một trong những người bạn của tay điệp viên, và là
chàng trai
trẻ Kundera.
Kundera bác bỏ lời tố cáo, nhưng đây là một tài liệu thực. Và nó giải
thích
được, trường hợp Kundera, tại sao gặp khó khăn với nhà nước vậy mà vẫn
được
tiếp tục ở Đại học, mặc dù đã bị đuổi ra khỏi Đảng.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng Nobel vừa rồi về tay Kundera, mới thấy sự
việc
khủng khiếp là dường nào. Chẳng lẽ vừa trao xong, là đòi lại liền?
Kundera như chúng ta được biết, rất ghét cái món tiểu sử. Và sống cũng
rất ư là
ẩn dật. Hay là chàng hơi bị nhột, vì vụ này?
“Sử nặng khôn kham”: Độc giả Kim Dung thì quá rành đòn “Gậy ông đập
lưng ông”.
“Gieo gió gặt bão”, liệu có thể nói như vậy.
*
"Mặt
trời chân lý chiếu qua tim". (Tố Hữu). Tính chất trữ tình không thể
thiếu,
trong thế giới toàn trị (totalitarian world): Tự thân, thế giới đó
không là ngục
tù, gulag. Nó là ngục tù, khi trên tường nhà giam dán đầy thơ và mọi
người nhẩy
múa trước những bài thơ đó, (Kundera, sđd).
Câu
này, có thể áp dụng cho những bài viết của NL: Chúng được dán lên đầy
các tờ báo
hàng ngày hàng tuần, như TTVH, SGTT… và dân Mít tự hào đọc nó, cảm thấy
mình cũng trí thức
[trữ tình] như ai, và quên đi số phần của mình. NQT
*
Note::
Tin Văn có đọc bài trả lời của NL.
Xin phúc đáp:
1. Tin Văn không hề áp đặt một cách nhìn Kun. Bạn NL có cách đọc của
bạn, thì cũng phải cho Tin Văn có cách đọc của Tin Văn.
2. V/v vô hại. Thì nó vô hại thực thì đành phải viết ra như vậy.
3. Tôi không hề phỉ báng ông Kap Ba Lan. Ông ta viết về Châu Phi như
thế nào, thì bạn Thái Linh phải đọc, rồi mới có ý
kiến được.
Ba Lan có nhiều tay bảnh hơn Kap. Tin Văn chưa từng gọi những ông như
Milosz,
thí dụ, là khốn nạn hết.
Tôi sợ bạn TL chưa từng đọc Milosz?
[Tôi không hiểu ở Ba Lan bây giờ, tác phẩm của Milosz có được nhà nước
cho phép đọc? ]
4. V/v "Tôi lấy làm choáng ngợp trước hiện tượng các nhà văn, nhà trí
thức,
nhà chính trị của Việt Nam khi chuẩn bị hậu sự bỗng dưng đóng góp nhiều
thế,
sắc sảo thế, ưu thời mẫn thế thế. Còn trước đây thì các ông làm gì?
Almost
nothing. Chuyến tàu vét đi vào lịch sử bỗng thành chuyến tàu của Ấn Độ,
người
người chen lấn lên tận nóc tàu. Hai câu này chi phối hành động của các
vị hơi
nhiều, hoặc là quá nhiều: "Cuốn sổ bình sinh công với tội" và "Đâm
mấy thằng gian bút chẳng tà". Tất nhiên không ai chọn phe nước lèo, tất
tật đều về phe công chính (Những người công chính, mượn đỡ Jean-Paul
Sartre)."
Xin miễn trả lời.
Tuy nhiên, đọc lại bài trên Tin Văn, thấy nặng nề quá.
Đành chịu cú hồi đáp này vậy.
Tks. NQT
V/v Ông Kap Ba Lan.
Hình như
vụ này, trên blog NL có một lần đã nhắc tới? Tôi nhớ là có một độc giả
còm, v/v ông Kap này kiêm nghề mật vụ, vào thời kỳ đó, làm sao tránh
khỏi, nếu muốn được đi qua
những nước Tây Phương.
Chúng ta thử hỏi, trong thời
gian dài làm mật vụ như thế, ông Kap này đã làm hại bao nhiêu người?
Xin post lại bài về ông Kap, để chứng minh, cái sự hồ nghi của giới học
giả, không phải của Gấu, về ông ta.
Phi châu truyền kỳ
Travels with Hodorotus Review
TLS
Ryszard Kapuscinski, widely
regarded as
the greatest journalist of the twentieth century, died in January this
year.
Virtually the last sentence he wrote was the one that concludes this
volume of
memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel in Bodrum, Turkey,
the modern name for
the ancient town of Halicarnassus,
where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted
the ageing
Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite,
but
“tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and
indifferent mien toward a strange man”.
Kap được nhiều người coi là nhà báo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, chết
tháng Giêng
vừa rồi [2007]. Cứ kể như câu văn chót ông viết, là câu đóng lại tập
chót cuốn
hồi ức này của ông. Câu văn tả cô tiếp tân của một khách sạn ở Bodrum,
Thổ nhĩ
kỳ, tên mới của thành phố cũ, Halicarnassus,
nơi sử gia Hy Lạp thời cổ đại Herodotus sinh ra. Mặc dù lịch sự có
thừa, đúng
dân nhà nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu nữ Thổ mắt đen lay láy vẫn
phảng phất
sự khinh khi, rè bỉu, lãnh đạm, đúng theo truyền thống, đối với một
“người
dưng”.
*
Đúng là một câu văn của một tay điểm sách nhà nghề, trên tờ báo văn học
số 1
của thế giới. Lịch sự có thừa, nhưng gói gém tất cả những gì bài viết
sau đó sẽ
mở ra.
1. Herodotus là thầy của Kap.
2. Vẻ lãnh đạm truyền thống này, cũng là vẻ lãnh đạm truyền thống, của
những xứ
sở mà Kap viết về họ. John Ryle, trong bài điểm cuốn Bóng Mặt Trời
xác
nhận điều này: "Tác phẩm của ông không được nhiều độc giả Phi châu đón
nhận, và họ, cả học giả, lẫn ký giả, thì đều hồ nghi sự chính xác của
nó".
3. Sự tiếp nhận của Tây phương, cũng dè dặt. Đây là nói về tác phẩm
The
Emperor của ông, vẫn theo John Ryle. Bởi vì "hai lần dè dặt" đối
với nguồn, [awareness of its doubly exotic origin]: Một cuốn sách viết
về một
xứ sở xa vời, và được viết bởi một tác giả cũng vời xa không kém, một "rara avis" [a rare or
unique person
or thing, nhân vật độc nhất], một bậc thầy, bề ngoài, của một thứ ký
giả mới
của Tom Wolfe, từ bên trong thế giới CS bò ra.
Ai điếu Kap. trên TLS
*
Nhắc tới Le
Carré có ngay Le
Carré. John
Ryle khuyên chúng ta, thà rằng đọc Le Carré còn hơn đọc Kap.
If you want an accurate summary of the war in Sudan
you would do better to read
John Le Carre's The Constant Gardener, which doesn't pretend to
be
anything other than a novel.
Khốn nạn nhất, là tay Kap này còn thực dân cả thực dân, như John Ryle
viết:
As Kapuscinski himself wrote of South American baroque, "If there is a
jungle it has to be enormous if there are mountains they have to be
gigantic if
there is a plain it has to be endless .... Fact is mixed with fantasy
here,
truth with myth, realism with rhetoric." The direction of Kapuscinski's
exaggerations and distortions becomes apparent. This is a continent
without
bookshops. Its inhabitants are prisoners of their environment. They
live on
milk. They are outside time. (Who knows? They may even have heads
beneath their
shoulders.) Europeans can never really understand them. Here we may be
getting
close to the truth, for the one thing that the inhabitants of this
hugely
various continent do have in common is the experience of European
colonialism
or occupation. And despite Kapuscinski's vigorously anti-colonial
stance,
his own writing about the continent is a variety of literary
colonialism, a
kind of gonzo orientalism, a highly selective imposition of form,
conducted in
the name of humane concern, that misrepresents Africans even as it
purports to
speak for them.
Such criticisms do not rob Kapuscinski's writing of its bright allure,
but they
warn us not to take it as a guide to reality. In the last chapter of The
Shadow of the Sun, there is a final epic
generalization that embodies
his ambiguous attitude to factual reportage and his attraction to the
realm of
poetry and fiction. "The kind of history known in Europe as scholarly
and
objective", Kapuscinski writes, "can never arise here because the
African past has no documents or records, and each generation,
listening to the
version being transmitted to it, changed it and continues to change
Cái từ "khốn nạn" của Gấu, về ông Kap, là phản ứng tất nhiên, khi đọc
những đoạn viết trên đây.
|