Thư tín
Càng già càng thảm hại
Wednesday, September 2, 2009
5:57 AM
From:
To:
Ông Nguyễn Quốc Trụ,
Tôi lên google tìm tin tức
văn học, tình cờ tôi ghé nhằm vào trang web của ông. Đọc thử, thấy chán
quá.
Hồi xưa ông đâu có như thế
này. Sao càng già càng tệ vậy?
Sao thấy toàn là những lời
cay đắng nói xỏ nói xiên mập mờ người kia kẻ nọ vậy ông?
Lớn tuổi rồi thì sống làm sao
cho thanh thản, chứ sao mà cứ quằn quại vì những chuyện thị phi hơn
thiệt?
Già rồi thì yên nghỉ, thảnh
thơi đầu óc trí lự, chứ sao lại đâm ra tị hiềm, mặc cảm chi cho nhọc
lòng.
Chẳng lẽ sắp xuống lỗ rồi mà
còn muốn vác theo đầu tôm xương cá hay sao ông?
Tu tâm đi ông.
*
Phúc đáp:
Đa tạ.
NQT tôi đâu có nói xỏ nói
xiên.
Những chuyện đó, đều thực,
đều là chuyện người thực, việc thực.
Giả như không trả lời, tu tâm
đi, thì ai sẽ là người ‘minh oan’ cho NQT?
Nếu bạn nghĩ như thế, khi
talawas, NHQ post bài khốn nạn, về tôi, tại sao bạn không lên tiếng,
như bây
giờ?
Tại sao bạn không khuyên lũ
chó đó tu tâm đi?
Kính
NQT
T.B1: NQT vừa tính, chấm dứt
thứ đầu tôm xương cá đó, thì nhận được mail của bạn.
Thành thử, cũng là một lời
cảnh tỉnh thật nghiêm trọng mà Gấu tôi xin ghi lòng tạc dạ.
Những chuyện đầu tôm xương
cá, Gấu phải đợi đến tận già, mới dám viết ra, vì không tính mang theo.
Đã tính mang theo, nhưng lại
sợ, đời sau “hiểu lầm”, sẽ nghĩ, có đến mấy thằng NQT, và đều thứ đáng
chán,
đều thứ thảm hại cả.
Khổ thế.
Loạt bài đó, mục đích là như
vậy, chứ không tính xỏ xiên ai.
Viết thẳng, viết thật.
Để thanh thản mà đi.
Trân trọng. NQT T.B 2: Mới đọc
net, biết tin Thông Luận được Đảng chiêu hồi.
Bạn gửi mail cho
NQT, đúng vào ngày 2/9: Liệu có điềm gì chăng? NQT
*
Thời gian đầu, khi lũ hủi đó mới xuất hiện, Gấu đã muối mặt xin viết
cho chúng, chỉ để mong, có được một tiếng nói văn học thống nhất ở hải
ngoại, để khi hữu sự, trong nước cần đến; về mặt văn học, đất nước,
trong ngoài kéo thành một dải. Nhưng chúng giở toàn những đòn hèn hạ
đánh Gấu.
Cũng bỏ qua, bây giờ nghĩ lại, nếu không lên tiếng một lần, biết
đâu, khi chết đi, chúng làm nhục cả kẻ không còn có mặt.
Mong bạn hiểu cho.
Kính
NQT
* Hello,
This is John contacting you
again on the possible partnership issue. I emailed you some time ago
but never
heard back from you.The thing was that I have visited your site
www.tanvien.netand found it quite
impressive.
I am in the process of
building up a business wrapped about my website and I am looking for
some
inbound linking to grow my page-rank. If you could link to my site I
would be
much appreciative. You probably receive quick a few link requests a
month so I
would really appreciate it if you could help me out by adding my site
with this
information. Link
Details:
Title: Dirt Cheap
Airline Ticket
URL: www.Dirtcheapairlineticket.org
Kind Regards,
John B. www.Dirtcheapairlineticket.org * Note: Tks for your
"impressive" remark.
Best Regards and Good Luck. NQT
Gấu vẫn
tự hào, rất rành về
thầy, nhưng đọc bài viết về Faulkner, trong số báo Le Magazine
Littéraire, đặc biệt về Le Polar [Polar là
từ tiểu
thuyết trinh thám, roman policier, viết tắt], thì mới hiểu ra là, đây
mới là
người hiểu Faulkner,
do hiểu thời của Faulkner, nhờ vậy quy tụ được một số tác giả, tưởng
chừng chẳng
liên hệ gì tới ông. Thí dụ như Horace McCoy, tác giả cuốn On
achève bien les chevaux, chính là cuốn mà Gấu đã dịch cho me-xừ
Phạm Mạnh Hiên, những ngày sau 1975, với cái tít Khiêu Vũ
Với Tử Thần.
Bản dịch của Gấu đã gây ra một
trận phong ba nơi tòa soạn phía Nam của nhà xb Văn Học, thời Hoàng Lại
Giang,
khi đó PMH là một đệ tử dưới trướng của ông này.
Giai thoại này tuyệt lắm. Thư
thả kể hầu quí vị.
*
Cuốn Người ta làm thịt cả
ngựa, của Horace McCoy, là một cuốn sách đen, série noire, Gấu
đọc từ trước
1975, thời gian vừa đọc vừa học tiếng Tây, cùng với những tác giả như
Simenon,
J.H. Chase..thời kỳ ra trường Bưu Điện
chừng hai năm, đã đổi qua bên VTD Quốc Tế, cầy thêm job cho UPI, đọc
cùng lúc
với ông Hưng, chuyên viên gửi hình VTD, radiophoto, của AP, ông Hưng
thì mê
những tác giả khác không giống Gấu, thí dụ Carter Brown.
Sau 1975, tay PMH nhờ Gấu
dịch theo nguyên tác tiếng Anh, They Shoot Horses, Don’t They?
Tay này làm cho
nhà xuất bản Văn Học, bộ phận phía Nam, và còn là một lái
sách. Gấu
biết anh ta, khi đến VH để lo biên tập cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, theo bản dịch
trước 1975 của Gấu, dưới sự giám sát của tay Nhật Tuấn, nhà văn Miền
Bắc, anh
ruột, hay em ruột của Nhật Tiến. Cái vụ xb lại cuốn này, là cũng nhờ
Nguyễn
Mai, khi đó làm thợ sửa mo rát cho VH.
Để có được bản dịch cuốn MTVM, Gấu phải
cầu cứu Jospeph Huỳnh Văn, có bà con làm ở Thư Viện Quốc Gia, nhờ mượn
về, đưa
cho nhà xb VH làm mẫu.
Joseph HV tới lúc đó mới đọc văn dịch của Gấu, gật gù,
mi bảnh thật, hơn cả thằng em tao, nó Tú Tài Tây, mà thua mi!
Đưa trước một mớ. Dịch xong,
anh ta đếch thèm in.
Thế rồi một bữa, Gấu thấy cuốn sách của mình nằm ngay
trước mắt mình, vì lúc đó, Gấu đang làm thằng bán báo, tại sạp nhà,
ngay trước
chúng cư 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn
*
On achève bien les chevaux
Titre original They Shoot
Horses, Don't They?
inspiré du roman de Horace
McCoy
On achève bien les chevaux
(They Shoot Horses, Don’t They? dans la version originale) est un film
américain réalisé par Sydney Pollack, sorti sur les écrans en 1969.
inspiré
d'un roman de Horace McCoy.
L’action se situe au début
des années 1930, en Californie. Au cœur de la grande dépression, on se
presse
pour participer à l’un des nombreux marathons de danse organisés à
travers le
pays pour gagner les primes importantes qui y sont mises en jeu. Robert
et
Gloria font partie de ces candidats...Au-delà de l'anecdote, c’est à
une
lecture de notre propre société qu’invite ce film, par opposition entre
l'enfer
que vivent les participants de ce marathon - privés de sommeil et de
temps de
réfléchir, et soumis à des épreuves cruelles (où mourra l'un d'entre
eux) - et
la beauté du paysage et du soleil levant entrevus de façon fugitive à
l'extérieur. Sydney Pollack indiqua avoir attaché une grande importance
au
personnage de l'animateur, « symbole de tout ce que l'Amérique avait de
pire et
de meilleur ». Mais on peut aussi y voir une réflexion sur l'absurdité
de la
condition humaine
Wikipedia
*
Cái cuốn truyện, sau chuyển
thể điện ảnh, Gấu đọc, trước 1975, và dịch, sau 1975, như tiên đoán cơn
suy
thoái của Mẽo, và của thế giới, thế mới quái dị, nếu bạn đọc những lời
giới
thiệu trên.
Tay PMH, không hiểu nghe ai
nói về cuốn sách, đưa Gấu bản tiếng Anh, Gấu đánh vật với nó, đến khi
đưa, anh
ta chê, vứt một xó, Đoàn Thạch Biền nhặt lên, bèn ơ rơ ka một phát, hay
như thế
này mà sao mày chê, đúng là... thi sĩ!
Ui chao, chẳng lẽ cái nhìn
tiên tri của anh "tiên tri" đến tận những ngày này?
Cái tít Khiêu Vũ với Thần
Chết quả là đắc địa! Những đứa con của trí tưởng
Les classiques William Faulkner Polars
clandestins Peut-on considérer certains
livres de Faulkner comme des romans noirs, à commencer par le fameux
Sanctuaire? L'écrivain était en tout cas friand de « crime publications
». Par JEAN-BAPTISTE BARONIAN
Il
existe deux catégories de
roman noir: une première qui n'est qu'une métamorphose du récit de
détention,
une seconde, beaucoup plus originale, qui inaugure une véritable
révolution en
plaçant à l'avant-plan de l'intrigue un nouveau personnage: le coupable
lui-même. Et celui-ci, selon les cas, est gangster, assassin, tueur
fou,
proxénète, trafiquant, faussaire ou voleur. Dans cette perspective, les
premiers auteurs représentatifs du genre, aux États-Unis, ne sont pas
tant
Hammett ou Chandler
(leurs héros contiinuent d'être des limiers) que William Burnett,
Donald
Clarke, James Cain et Horace McCoy. On remarquera au surplus que les
livres qui
les ont fait largement connaître ont tous été publiés dans les années
de crise,
c'est-à-dire entre 1929 et 1935: Le Petit
César et Un dénommé Louis Beretti
en 1929, Le facteur sonne toujours deux fois
en 1934 et On achève bien les chevaux
en 1935.
À ces noms, il convient
d'ajouter celui, prestigieux, de William Faulkner. Chose curieuse, on
évite en France
de le
ranger au sein des auteurs du genre, sans doute parce que ce dernier
est mal
perçu ou parce qu'il est toujours de bon ton de dénigrer la littérature
policière,
sous prétexte qu'elle est le plus souvent mal écrite et qu'elle
s'adresse au plus grand nombre. Au surplus, les
spécialistes français eux-mêmes négligent le Faulkner « romancier noir
», comme
on en a une preuve en parcourant le numéro de la revue Europe,
paru en août-septembre 1984 et consacré au roman noir
américain: Faulkner n'y est pas étudié et c'est en vain qu'on
chercherait ici
une allusion relative à son œuvre. En revanche, de l'autre côté de
l'Atlantique, on ne manque jamais de souligner que Faulkner a, lui
aussi, écrit
des histoires criminelles. Ce qui explique pourquoi un article lui est
dévolu
dans l'ouvrage de base Twentieth-century crime and mysterywriters, dont
la
deuxième édition date de 1985 et où son nom figure, en bonne place
entre Howard
Fast et Kenneth Fearing.
Pour Hugh Holman, l'auteur de
l'article, cinq titres de Faulkner relèvent directement des « crime
publications
»: Sanctuaire, Lumière d'août,
Absalon, Absalon!, L'Intrus et Le Gambit du cavalier.
Il est certain que le
premier d'entre eux est le plus typique du roman noir. Faulkner y
travailla de
janvier à mai 1929, surtout dans l'intention de faire de l'argent et de
rencontrer le succès auprès du public. «J'ai songé, dira-t-il plus
tard, à ce
que je pouvais imaginer de plus horrrible et je l'ai mis sur le papier.
» Ce à
quoi il aura songé est le milieu de la pègre, telle qu'elle vivait dans
l'État
du Mississippi,
à la fin des années 1920, en s'adonnant à la fois au jeu, à la
prostitution et
à la contrebande d'alcool. On peut donc raisonnablement penser que
certains
personnages de Sanctuaire et certaines situations décrites ont un fond
de
vérité. Selon David Minter, un des biographes de Faulkner, l'étonnant
Popeye,
peut-être le plus sinistre héros faulknérien, aurait été inspiré par un
gangster célèbre de Memphis,
un dénommé Popeye Pumphrey. Quant à Miss Reba, elle ne serait que la
transposition d'une prostituée connue, à l'époque, de toute la ville.
Est-ce à
dire que le roman est le reflet précis d'un monde que Faulkner avait
sous les
yeux? Répondre à la question par l'affirmative reviendrait à banaaliser
le
livre et, plus encore, à déconsidérer la puissance créatrice de
l'auteur et son
extraordinaire génie de romancier. Ce qui est sûr, c'est que Sanctuaire
est, au
premier abord, un roman d'action dramatique et qu'il ne contient que
peu d'éléments
relevant de l'analyse. En cela, Faulkner a, d'évidence, atteint son
objectif:
raconter une histoire qui soit de nature à intéresser des lecteurs de
récits
d'aventures et de mystère. Lui-même, du reste, en aura toujours été
friand et
on sait que, dans sa propre bibliothèque, il conservait des livres
d'Agatha
Christie, de John Dickson Carr, de Dorothy Sayers, d'Ellery Queen et de
Rex
Stout. Sanctuaire
inspirera d'ailleurs un fameux polar stricto
sensu, Pas d'orchidées pour Miss
Blandish, de James Hadley Chase (dont la première version date de
1938).
Les héros de Chase rappellent en effet nettement ceux conçus par
Faulkkner,
surtout Miss Blandish elle-même et Slim Grisson. Ainsi, si Popeye, dès
son plus
jeune âge, découpait des perruches en petits morceaux pour attiser son
plaisir,
Slim Grisson ne peut, lui, réellement exprimer l'amour étrange qu'il
nourrit
pour Miss Blandish que par des actes sadiques et violents, par exemple
lorsqu'il veut sublimer sa virilité devant elle en se servant d'un
couteau. Que
Chase se soit nourri du livre de Faulkner, cela ne semble faire aucun
doute.
L'adéquation thématique est patente. Il reste que dans Sanctuaire
l'action policière est des plus ténues, et que le ton
adopté par Chase évoque davantage celui inauguré par Dashiell Hammett
dans Le Faucon deMalte, paru en
1930, le premier véritable roman noir de l'histoire
de la littérature moderne, écrit selon une étonnante esthétique de
l'ellipse.
Il demeure surtout que la vision de Chase, pour efficace qu'elle soit,
ne
parvient jamais à l'intensité tragique, à la sombre et sensuelle
âpreté, à la
majesté bouleversante et hallucinante qui traverse Sanctuaire
d'un bout à l'autre. Sanctuaire
n'est
en effet pas un roman d'action comme un autre, et certainement pas un
ouvrage
de série. Car ce qui y est dit est si effroyable, si cru, si brutal
qu'il
sacralise une véritable esthétique de la perversion, exprimée selon une
vision
douloureuse de la sexualité et du crime. Tous les personnages du livre
sont, de
fait, des corrompus, entièrement fascinés par la violence et la luxure,
totalement soumis à l'emprise du mal. Dans ces conditions, on comprend
pourrquoi André Malraux a parlé de Sanctuaire comme d'une
tragédie, en sachant fortbien
ce que recouvrait le mot. D'où aussi ces phrases de Marc Saporta, dans
sa «
psychobiographie» de Faulkner (1) : « On trouve au cœur de Sanctuaire
l'un des
ressorts les plus révélateurs dont use la mythologie pour nous
renseigner sur
la condition humaine: l'homme ou la femme semble s'acharner avec
persévérance à
faire son propre malheur. » Compte tenu de ce qui précède, il
n'est donc pas
exagéré de prétendre que le livre constitue une parabole, à l'instar de
tout ce
que Faulkner a écrit, de sa jeunesse à sa consécration internationale,
et
jusqu'à la publication, en 1962, l'année même de sa mort, de son
dernier roman Les Larrrons où, il faut le souligner,
resurgit le personnage de Miss Reba. Autant dire que Faulkner, malgré
son souci
de sacrifier à la littérature de genre, dans le but de faire bouillir
la
marmite, n'a pu contenir ses hantises les plus profondes et a été
incapable
d'étouffer les pulsions qui le poussaient sans cesse vers la feuille
blanche. Et
c'est là ce qui devait arriver aussi à Georges Bernanos lorsque, pour
des
besoins alimenntaires il allait se mettre à écrire Un crime.
Au demeurant, après avoir lu le manuscrit de Sanctuaire en
1929, Hal Smith, l'éditeur
de Faulkner, ne cachera pas sa surprise. «Bon Dieu! lui dira-t-il dans
une
lettre, je ne peux pas publier ça! On nous mettrait en prison tous les
deux. »
De telle sorte que Sanctuaire ne
paraîtra, remanié, qu'en 1931, soit deux ans après Le
Petit César de Burnett et Un
nommé Louis Beretti de Clarke. Et il aura fallu attendre l'année
1981 pour
que soit éditée la version originale du roman. Après tout, est-ce si
étonnant
que Sanctuaire ait les accents d'une
parabole? D'un certain point de vue, le roman noir, le vrai, n'est
jamais
qu'une fable sur la transgression. Or, chez Faulkner, tout est
transgression.
Et c'est pourquoi il est impossible de lire son œuvre éblouissante sans
avoir
la tête en feu et sans avoir la certitude que ce sont bien le bruit et
la
fureur qui président aux destinées du monde.
(1) M. Saporta. Les Erres du faucon, une psychobiographie
de
William Faulkner, éd. Seghers, 1984,412 p., 26,68 €.
*
William Faulkner: The
Sanctuary of Evil
Mario Vargas Llosa
Faulkner suốt đời giữ cái
nhìn tiêu cực của ông, với Sanctuary, câu chuyện một cô gái bị một tên
liệt
dương phá huỷ trinh tiết bằng một cái bắp ngô, bởi vì, cả nửa thế kỷ,
sau những
dòng tự kiểm hồi sách mới ra lò, trong lần nói chuyện tại Đại học
Virginia,
[Vintage Books, New York, 1965], ông vẫn còn chê đứa con hư hỏng của
mình, coi
đây là một câu chuyện "yếu" và được viết bởi những tà ý [base
intentions].
Nhưng đây là một đại tác phẩm
của ông. Hai Lúa cứ liên tưởng tới Giáo Đuờng Của Cái Ác, ở một xứ sở
khác, ở
đó, có những tên già, liệt dương hay không liệt dương, lôi con nít vào
khách
sạn hãm hiếp, xong xuôi, đuổi ra, quẳng cho cô bé hình như là một trăm
đô thì
phải, thí dụ như một tay LQD nào đó.
Bởi vì, chỉ có thiên tài mới
có thể kể một câu chuyện như thế, với những sự kiện như thế, với những
nhân vật
như thế, bằng một cách kể mà người đọc, không chỉ chấp nhận, gật gù, kể
được,
được đấy, mà còn như bị quỉ sứ hớp hồn!
Như chính Faulkner đã từng
kể, ông viết Giáo Đường, bản viết đầu, trong ba tuần lễ, năm 1929, liền
sau Âm
thanh và Cuồng nộ. Ý tưởng về cuốn sách, như ông giải thích, trong lần
in thứ
nhì [1932], thứ tiểu thuyết ba xu, và ông viết, chỉ vì một mục đích duy
nhất,
là tiền, [trước nó, thì chỉ vì vui, for "pleasure"]. Phương pháp của
ông, là, "bịa ra một câu chuyện ghê rợn nhất mà tôi có thể tưởng tượng
ra
được", một điều gì một con người miệt vườn, vùng Mississipi, có thể coi
như là một chủ đề. Quá sốc, khi đọc, tay biên tập bảo ông, hắn sẽ chẳng
bao giờ
xuất bản một cuốn sách như thế, bởi vì, nếu xb, là cả hai thằng đều đi
tù.
Bản viết thứ nhì cũng chẳng
kém phần ghê rợn...
Được coi như, hiện đại hóa bi
kịch Hy Lạp, viết lại tiểu thuyết gothic, ám dụ thánh kinh, ẩn dụ chống
lại
công cuộc hiện đại hoá mang tính kỹ nghệ nền văn hóa Miền Nam nước Mẽo
vân vân
và vân vân. Khi Faulkner mang đứa con hư của mình trình làng văn Tây,
André
Malraux phán, đây đúng là, "đưa tiểu thuyết trinh thám vô trong bi kịch
Hy
Lạp", và khi Borges nói dỡn chơi, rằng những tiểu thuyết gia Bắc Mỹ đã
biến "sự tàn bạo thành đức hạnh", chắc chắn, ông ta có trong đầu lúc
đó, cuốn Giáo Đường của Faulkner.
Fiction does not reproduce
life; it denies it, putting in its place a conjuring trick that
pretends to
replace it. But, in a way that is difficult to establish, fiction also
completes life, adding to human experience something that men do not
meet in their
real lives, but only in those imaginary lives that they live
vicariously,
through fiction. The irrational depths that are also part of
life are beginning to reveal their secrets and, thanks to men like
Freud, Jung
or Bataille, we are beginning to know the way (which is very difficult
to
detect) that they influence human behaviour... Giả tưởng không
tái sản xuất cuộc đời, nó
chối từ cuộc đời, và, đặt ở đó, một trò ảo thuật, [một trò mà con mắt,
như
Sartre đã từng chê Sartoris của Faulkner], giả như là cuộc đời. Nhưng,
bằng một
cách nào đó, thật khó xác định, giả tưởng cũng hoàn tất cuộc đời, bằng
cách
thêm vào kinh nghiệm con người, một điều gì con người chưa từng gặp,
trong đời
thực của họ, và nhờ giả tưởng, mà họ được nếm mùi vị của nó. Những vùng sâu
phi lý, ngoại lý, cũng là
một phần của cuộc đời, nhờ những người như Freud, Jung, hay Bataille
bắt đầu lộ
ra, và chúng ta bắt đầu hiểu, cung cách, đường hướng [thật khó tách
bạch hẳn ra
được], chúng ảnh hưởng lên cách ứng xử của con người.
William Faulkner: The
Sanctuary of Evil
According to his own
testimony, Faulkner wrote the first version ofSanctuary
in three weeks in 1929, immediately after
The Sound and the
Fury. The idea of the book, he explained in the second edition of the
novel
(1932), had always seemed to him 'cheap' because he had conceived it
with the
sole intention of making money (up to then, he hadonly written for 'pleasure'). His method was
'to invent the most horrific tale that I could imagine', something that
someone
from the Mississippi
could take as a topical theme. Aghast at the text, his editor told him
that he
would never publish such a book since, if he did so, both of them would
go to
prison.
Then, while he was working in
a power plant, Faulkner wrote As I Lay Dying. When this book came out,
he
received the proofs of Sanctuary which the editor had finally decided
to
publish. On rereading his work, Faulkner decided that the novel was
indeed
unpresentable as it stood and made many corrections and deletions, to
such an
extent that the version which appeared in 1931 differed considerably
from the
original. (A comparison of both texts can be found in Gerald Langford,
Faulkner's Revision of Sanctuary, University of Texas Press, 1972.) The second version is no less
'horrific' than
the first: the main horrifying events of the story occur in both
versions, with
the exception of the discreetly incestuous feelings between Horace and
Narcissa
Benbow and Horace and his stepdaughter Little Belle, which are much
more
explicit in the first version. The main difference is that the centre
of the
first version was Horace Benbow, while in the new one, Popeye and TempleDrake
have grown and have relegated the honest and weak lawyer to a minor
role. With
regard to structure, the original version was much clearer, despite the
temporal complexities, since Horace was the perspective from which
nearly all
the story was narrated, while in the definitive version the tale
continually
changes point of view, from chapter to chapter, and sometimes even
within a
single paragraph. Faulkner maintained his
negative opinion of
Sanctuary throughout his life. A half century after that self-critical
prologue, in his Conversations at the University of Virginia
(Vintage Books, New York, 1965), he once again called his story - at
least in
its first version - 'weak' and written with base intentions. In fact, Sanctuary is one of
his masterpieces
and deserves to be considered, after Light in August and Absalom,
Absalom,
among the best novels of the Yoknapatawpha saga. What is certain is
that with
its harrowing coarseness, its dizzying depiction of cruelty and
madness, and
its gloomy pessimism, it is scarcely tolerable. Precisely: only a
genius could
have told a story with such events and characters in a way that would
be not
only acceptable but even bewitching for the reader. This almost
absurdly
ferocious story is remarkable for the extraordinary mastery with which
it is
told, for its unnerving parable on the nature of evil, and for those
symbolic
and metaphysical echoes which have so excited the interpretative
fantasy of the
critics. For this is, without doubt, the novel of Faulkner that has
generated
the most diverse and baroque readings: it has been seen as the
modernization of
Greek tragedy, a rewriting of the Gothic novel, a biblical allegory, a
metaphor
against the industrial modernization of the culture of the South of the
United
States etc. When he introduced the book to the French public in 1933,
André
Malraux said that it represented 'the insertion of the detective novel
into
Greek tragedy', and Borges was surely thinking of this novel when he
launched
his famous boutade that North American novelists had turned 'brutality
into a
literary virtue'. Under the weight of so much attributed philosophical
and
moral symbolism, the story of Sanctuary tends to become diluted and
disappear.
And, in truth, every novel is important for what it tells, not for what
it
suggests. What is this story? In a
couple of sentences,
it is the sinister adventure of Temple Drake, a pretty, scatterbrained
and
wealthy girl of seventeen, the daughter of a judge, who is deflowered
with an
ear of corn by an impotent and psychopathic gangster - who is also a
murderer.
He then shuts heraway in a brothel in Memphis where he
forces
her to make love in front of him with a small-time hoodlum whom he has
brought
along and whom he later kills. Woven into this story is another,
somewhat less
horrific: Lee Goodwin, a murderer, an alcohol distiller and bootlegger
who is
tried for the death of a mental defective, Tommy (who was killed by
Popeye),
condemned and burned alive despite the efforts of Horace Benbow, a
well-intentioned lawyer, to save him. Benbow cannot make good triumph. These horrors are a mere
sampling of the many
that appear in the book, in which the reader encounters a strangling, a
lynching, various murders, a deliberate fire and a whole raft of moral
and
social degradation. In the first version, furthermore, the character
endowed
with a moral conscience, Horace, was caught in the grip of a double
incestuous
passion. In the final version this has been softened to the extent that
it
remains as scarcely a murky trace in the emotional life of the lawyer. In every novel it is the form
- the style in
which it is written and the order in which it is told - which
determines the
richness or poverty, the depth or triviality, of the story. But in
novelists
like Faulkner, the form is something so visible, so present in the
narration
that it appears at times to be a protagonist, and acts like another
flesh and
blood character, or else it appears as a fact, like the passions,
crimes or
upheavals; of its story. The effectiveness of
Sanctuary's form stems
above all from what the narrator hides from the reader, putting the
facts in a
different place in the chronology, or leaving them out altogether. The
yawning
gap in the novel - the barbarous deflowering of Temple - is an ominous silence,an
expressive
silence. Nothing is described, but from that unexpressed savagery a
poisonous
atmosphere seeps out and spreads to contaminate Memphis and other
places in the
novel, turning them into a land of evil, regions of ruin and horror,
beyond all
hope. There are many other hidden pieces of information, some of which
are
revealed retrospectively, after the effects that they cause - like the
murder
of Tommy or Red or the impotence of Popeye - and others which remain in
the
shadows, although we do learn something about them, enough to keep us
intrigued
and for us to surmise that in this darkness something murky and
criminal is
lurking, like the mysterious journeys and shady affairs of Clarence
Snopes and
the adventures of Belle, the wife of Horace. But this manipulation
of the facts of the
story, which are withheld momentarily or completely from the reader, is
more
cunning than these examples might indicate. It occurs at every stage,
sometimes
in every sentence. The narrator never tells us everything and often
throws us
off the scent: he reveals what a person does, but not what he thinks
(Popeye's
private life, for example, is never revealed), or vice versa, with no
prior
warning, he depicts actions and thoughts of unknown people, whose
identity he
reveals later, in a surprising way, like a magician who suddenly makes
the
vanished handkerchief reappear. In this way, the story lights up and
fades;
certain scenes dazzle us with their illumination while others, almost
invisible
in the shadows, can only be glimpsed. The pace of the narrative
time is also
capricious and variable: it speeds up and goes at the pace of the
characters'
dialogues, which the narrator recounts almost without commentary - as
for
example in the trial. In Chapter 13, the crater chapter, time is filmed
in slow
motion, almost stops and the movements of the characters seem like the
rhythmic
development of a Chinese shadow theatre. All the scenes of TempleDrake
in the house of the old Frenchman are theatrical, they move at a
ceremonial
pace which turns actions into rites. In this tale, with some
exceptions, the
scenes are juxtaposed rather than dissolving into each other. All this is extremely
artificial, but it is
not arbitrary. Or rather, it does not seem arbitrary: it emerges as a
necessary
and authentic reality. The world, these creatures, these dialogues,
these
silences could not be otherwise. When a novelist succeeds in
transmitting to
the reader that compelling, inexorable sensation that what is being
narrated in
the novel could only happen in that way, be told in that way, then he
has
triumphed completely. Many of the almost infinite
number of
interpretations of Sanctuary stem from the unconscious desire of
critics to
come up with moral alibis which allow them to redeem a world which is
described
in the novel as so irrevocably negative. Here once more we come up
against that
perennial view - which, it seems, literature will never be able to
shake off —
that poems or fiction should have some kind of edifying function in
order to be
acceptable to society. The humanity that appears in
this story is
almost without exception execrable or, at the very least, wretched.
Horace
Benbow has some altruism, which makes him try to save Goodwin and help
Ruby,
but this is offset by his weakness and cowardice which condemn him to
defeat
when he tries to face up to injustice. Ruby also shows some spark of
feeling
and sympathy - she does at least tryto
help Temple
-
but this does not have any useful outcome because she has been
inhibited by all
the blows and setbacks and is now too cowed by suffering for her
generous
impulses to be effective. Even the main victim, Temple, causes as much repugnance as
sympathy
in us because she is as vacuous and stupid - and, potentially as prone
to evil
- as her tormentors. The characters who do not kill, bootleg, rape and
traffic
— like the pious Baptist ladies who have Ruby thrown out of the hotel,
or
Narcissa Benbow - are hypocritical and smug, consumed by prejudice and
racism.
Only the idiots like Tommy seem less gifted than the rest of their
fellow men
in this world when it comes to causing harm to others. In this fictional
reality, human evil is
shown, above all, in and through sex. As in the fiercest Puritans, an
apocalyptic vision of sexual life permeates all Faulkner's work, but in
no
other novel of the Yoknapatawpha saga is it felt more forcibly. Sex
does not
enrich the characters or make them happy, it does not aid communication
or
cement solidarity, nor does it inspire or enhance existence. It is
almost
always an experience that animalizes, degrades and often destroys the
characters, as is shown in the upheaval caused by Temple's presence in the Old
Frenchman's
house. The arrival of the
blonde, pale girl, with
her long legs and delicate body, puts the four thugs - Popeye, Van,
Tommy and
Lee - into a state of excitement and belligerence, like four mastiffs
with a
bitch on heat. Whatever traces of dignity and decency that might still
survive
within them vanish when faced with this adolescent who, despite her
fear and
without really being conscious of what she is doing, provokes them.
Purely
instinctive and animal feelings prevail over all other feelings such as
rationality and even the instinct for survival. In order to placate
this
instinct, they are prepared to rape and to kill each other. Once she is
sullied
and degraded by Popeye, Temple
will adopt this condition and, for her as well, sex will from then on
be a
transgression of the norm, violence. Is this animated
nastiness really humanity?
Are we like that? No. This is the humanity that Faulkner has invented
with such
powers of persuasion that he makes us believe, at least for the
duration of the
absorbing reading of the novel, that it is not a fiction, but life
itself. In
fact life is never what it is in fiction. It is sometimes better,
sometimes
worse, but always more nuanced, diverse and predictable than even the
most
successful literary fantasies can suggest. Of course, real life is
never as
perfect, rounded, coherent and intelligible as its literary
representations. In
these representations, something has been added and cut, in accordance
with the
'demons' - those obsessions and deep pulsations that are at the service
of
intelligence and reason, but are not necessarily controlled or
understood by
these faculties - of the person who invents them and bestows on them
that
illusory life that words can give.
Fiction does not reproduce
life; it denies it, putting in its place aconjuring
trick that pretends to replace it. But, in
a way that is
difficult to establish, fiction also completes life, adding to human
experience
something that men do not meet in their real lives, but only in those
imaginary
lives that they live vicariously, through fiction. The irrational depths that
are also part of
life are beginning to reveal their secrets and, thanks to men like
Freud, Jung
or Bataille, we are beginning to know the way (which is very difficult
to
detect) that they influence human behaviour. Before psychologists and
psychoanalysts existed, even before sorcerers and magicians took on the
role,
fiction helped men (without their knowing it) to coexist and to come to
terms
wfth certain phantoms that welled out of their innermost selves,
complicating
their lives, filling them with impossible and destructive appetites.
Fiction
helped people not to free themselves from these phantoms, which would
be quite
difficult and perhaps counterproductive, but to live with them, to
establish a
modus vivendi between the angels that the community would like its
members
exclusively to be, and the demons that these members must also be, no
matter
how developed the culture or how powerful the religion of the society
in which
they are born. Fiction is also a form of purgation. What in real life
is, or
must be, repressed in accordance with the existing morality - often
simply to
ensure the survival of life - finds in fiction a refuge, a right to
exist, a
freedom to operate even in the most terrifying and horrific way. In some way, what happened to
Temple Drake in
Yoknapatawpha County according to the tortuous imagination of the most
persuasive creator of fiction in our time, saves the beautiful
schoolgirls of
flesh and blood from being stained by that need for excess that makes
up part
of our nature and saves us from being burned or hanged for fulfilling
that
need. London, December 1987
Mario Vargas Llosa
Những mắc mớ, liên hệ, giữa những tác giả tưởng chẳng liên hệ với nhau,
như J.H. Chase, Faulkner, McCoy, tất cả đều quy về một thằng Mít, là
Gấu, cùng chỉ ra cơn suy thoái về kinh tế trên toàn thế giới, và về đạo
đức riêng ở xứ Mít, liệu tất cả chỉ để nói ra điều này: Trong những
ngày nằm nhà thương Grall, BHD ghé thăm, trên đường đi, ghé tiệm sách ở
đường Lê Lợi, mua cho Gấu cuốn của Chase, Un beau matin d'été, và khi đưa cho
Gấu, hỏi đọc chưa, Gấu ngu quá, nói đọc rồi, và em buồn rầu nói, em
cũng nghi như vậy, khi mua!
Ui chao, số mệnh chẳng lẽ chi ly, châu đáo đến như thế, đối với thằng
cha Gấu?
To die for others is
difficult enough.
To live for others is even
harder.
G. Steiner: Errata
Giữa “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” và “Ngày
mai đi nhận xác chồng” là chân lý:
Chết vì người đã khó, sống vì người còn khó
hơn?
*
Nhà thơ Lê Thị Ý, người được
độc giả đón nhận bàng hoàng khi biết chính là tác giả bài thơ dội vang
tình cảm
người đọc trong thời chiến tranh khốc liệt. Bài thơ được nhạc sĩ Phạm
Duy phổ
nhạc, được người đọc lấy câu thơ đầu trong bài để gọi tên: “Ngày mai đi
nhận
xác chồng.” Thực ra, “Ngày mai đi nhận
xác chồng” có tên nguyên tác là “Thương Ca 1” trong một chuỗi năm bài
Thương Ca
được ghi số Thương Ca 1, Thương Ca 4, Thương Ca 5, Thương Ca 6, và
Thương Ca 8. Nhắc chuyện cũ, tác giả Lê
Thị Ý cho biết thêm, “Bài thơ được chọn đăng trên tờ Tranh Ðấu của sinh
viên
Sài Gòn. Học giả Nguyễn Ðức Quỳnh đọc được đã gửi cho bạn ông là nhạc
sĩ Phạm
Duy và Phạm Duy đã phổ nhạc rồi cho phổ biến trên các đài phát thanh
lúc bấy
giờ. Chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cấm.” Nói về hoàn cảnh bài thơ
được
khai sinh, tác giả Lê Thị Ý cho biết, “Nhà tôi ở gần nhà xác trên
Pleiku. Khi
ấy vào những năm 1969, 70 chiến tranh đang diễn ra thật khủng khiếp.
Không ngày
nào nhà xác không nhận thêm được xác những chiến binh QLVNCH hy sinh
tại chiến
trường. Và những người vợ trẻ thì đứng đầy quanh nhà xác với những vành
tang
trắng thê lương nên hồn thơ được nhập đầy những cảnh thê lương ấy. “Em không thấy được xác
chàng, Ai thêm lon giữa hai hàng
nến
trong? Mùi hương cứ tưởng hơi chồng, Nghĩa trang mà ngỡ như phòng
riêng ai...” Nguồn Người Việt Nhà thơ Lê Thị Ý,
nghe nói,
là em gái nhà thơ Vương Đức Lệ (Lê Đức Vượng).
Không biết có đúng
không. Cái chi tiết về NDQ đọc, và
gửi
cho PD, tuyệt! Có lẽ đã đến lúc phải viết
về
cái kỷ niệm nghe bản nhạc trong tù VC rồi đấy. Gấu bảo Gấu.
Gấu đã lèm lèm vài lần về kỷ niệm này, nhưng chưa viết hết về nó, theo
nghĩa, chưa báo cáo độc giả Tin Văn, để được nghe bản nhạc đó, Gấu phải
trải qua những cơ may huyền diệu, sau những đau khổ khủng khiếp như thế
nào!
Gấu có cảm tưởng, bản nhạc PD sáng tác là chỉ để dành riêng cho Gấu,
trong cái dịp trọng đại đó.
Nó ra đời là để chờ gặp Gấu, vào bữa đó.
Cái món quà con K trao cho Gấu, khi Gấu đi vô tù VC để gặp nó!
* Theo server, thì 3,
trong số
“top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là: Phố vẫn
hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi. Và: Ngày mai
đi nhận xác chồng. Ui chao, sao mà
tuyệt đến như
thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
*
Nhà thơ Lê Thị Ý
là em của Vương Đức Lệ, qua bài phỏng vấn
trên báo Người
Việt cho biết.
-ÐQAThái: Khi phổ thành ca khúc, hình như Phạm Duy có sửa vài lời trong
bài
thơ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Ðúng vậy. Có lẽ ông Phạm Duy sửa vài chữ cho nó hòa
hợp với
âm điệu bài nhạc hơn. Có câu ông Phạm Duy cắt bớt. Thí dụ câu tôi viết,
“Chiếc
quan tài phủ cờ màu, hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng” thì Phạm Duy sửa
thành
“Bây giờ anh phủ mầu cờ” và cắt đi câu thơ kế tiếp.
-ÐQAThái: “Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng”, tại sao lại phũ phàng ạ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Khi đau đớn thì cái gì cũng phũ phàng cả. Phũ phàng
là hình
ảnh đau đớn, quằn quại.
Tuyệt! Thơ được trao cho thi sĩ, là như vậy đó. Đám thi sĩ dởm làm sao
biết một
chân lý đơn giản như vậy. Cái tay ký giả thì bị ám ảnh bởi mấy cái vạch
cờ ba
sọc, nên mới théc méc,"tại sao lại phũ phàng ạ"!
Cũng ý này, Lão Tử phán, thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu [Gấu
nhớ đại
khái, không biết có đúng không, cái này là tán phó mát thêm!]
Lẽ
phải, tình người bao giờ
cũng đẹp và thật. Đã đẹp và thật thì không thể không
lương thiện.
Nghệ thuật cũng như tình yêu không thể sống được ngoài cõi “đẹp và
thật”. Bắt
chước Lão tử tôi nói rằng: đến lúc cảm thấy không đẹp nữa, không thật
nữa thì
người ta bắt đầu nói đến cái “thiện”. Hoàng Ngọc Hiến đọc Đặng Tiến
Gấu đã từng tin như vậy. Cho đến
khi đọc Coetzee viết về Brodsky, trong StrangerShores.
Câu sau đây có thể là nền tảng
của Tin Văn: “Trong
diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo]
mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó.
Mỹ học
như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới
đâu thì
sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về
phía của
cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma,
về mặt
còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong
tồi tệ”
[Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad
stylist”.
On Grief… trang 49].”
Cái cú đầu độc tù
Phú Lợi là đốm lửa gây cuộc chiến Đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào.
Cú Tháp Đôi gây
ra hai cuộc chiến của Mẽo, sau cuộc chiến Việt Nam.
Cú đốt nhà Quốc Hội Đức gây ra Đệ Nhị Chiến, nhưng, Cái Cực Ác, lòng
thù hận
của dân Đức đối với Do Thái mới là nguyên nhân gây nên Lò Thiêu.
Cũng thế, Cái Cực Ác Bắc Kít là nguyên nhân xô dân Mít xuống biển, và
đẩy đất
nước Mít xuống đáy vực thẳm như hiện nay.
Mẽo, dù sao rồi cũng thoát nạn, như nó đã từng thoát nạn ở Việt Nam,
nhưng cưu
mang “trong tim trong hồn trong máu” Cái Cực Ác kia thì vô phương thoát
nạn!
The
Necessity of Loneliness Speech
presented on receiving the Golden Plate Award
at the Forty-first International Achievement Summit
of the AmericanAcademy
of Achievement, held on 8 June 2002 in Dublin.
Published in the Literary Supplement of the Taiwanese daily Lianhebao,
11 July
2002 THE FEELING OF LONELINESS IS
unique to humans. A tree or a bird may seem to be lonely, but this is
an
attribute bestowed by the person making the observation. The tree or
the bird
is incapable of perceiving loneliness. This feeling occurs when a
person is
alone, and, moved by his emotions, associates his own circumstances
with those
of the bird or the tree that he sees before him. Since this feeling
entails an
element of self-examination, it is not a purely objective observation.
The
feeling of loneliness produced is thus a form of aesthetics, in that
while
observing one's external environment, one is at the same time examining
the
self that is located within it, and to a certain extent this is an
affirmation
of one's own personal worth.
This feeling of loneliness,
which stems from self-love, can arouse self-pity or lead to
conceitedness, and
can even turn into unbridled impetuousness. If concern for the external
world
is lost, this feeling can become a tangled mass in the heart and turn
into an
affliction that gives rise to arrogance and bigotry.
To derive interest from
loneliness instead of allowing it to become an affliction, one must
examine
both what is external and what is internal - in other words, use
another eye to
calmly observe the outside world as well as one's own inner world. This
third
eye, which can transcend the limitations of one's self, is what is
known as
consciousness, or even wisdom.
However, wisdom or consciousness
comes also with distance - in other words, with taking a step back. One
requires a certain distance to be able to see clearly and make accurate
judgments about people and events.
Loneliness is not merely an
aesthetic judgment, because it can also turn into a drive. Since it is
premised
on affirming an individual's worth, it contributes to motivating the
individual
to go forth and overcome difficulties, or pursue a particular goal.
It is only when a child is
alone that he starts to become an adult, and it is only when a person
is alone
that he can achieve maturity. Loneliness is essential for adults. It
encourages
independence, and needless to say, the ability to endure loneliness is
indispensable for strengthening character within social situations.
It is bad not to have this
vital distance between the individual and others, to be running into
people all
the time - either within a family or within some other collective unit.
Moreover, coexistence requires magnanimity and understanding, and these
depend
on our having adequate space between ourselves and others.
To an even greater extent,
loneliness is a prerequisite for freedom. Freedom depends on the
ability to
reflect, and reflection can only begin when one is alone.
The world does not consist
only of dualities - right or wrong, condoning or opposing,
revolutionary or
reactionary, progressive or conservative, politically correct or
politically
incorrect. Before making a choice, there is no harm in hesitating and
leaving a
little room for independent reflection.
When ideologies, trends in
tl1inking, fashions or crazes are all-embracing, it is being lonely
that
affirms the individual's freedom.
In the bustling world of
today the propaganda of the mass media is all-pervasive, and if at
times an
individual wants to listen to the voice of his heart he will need the
support
of this feeling of loneliness. As long as it does not turn into an
ailment,
loneliness is necessary for the individual to establish himself and to
achieve
things.
I thank all of you here today
at this illustrious gathering for patiently listening to me talk about
insights
that I have gained from my experiences. I am sure that all of you too
have had
such insights.
Gao Xingjian: The Case for
Literature
Note: Bài viết Sự cần thiết của cô đơn này, một cách nào đó, là để trả
lời nhận định của Ha Jin, khi ông này cho rằng, người TQ chỉ
thích sống quần tụ, và phải có, ít nhất là một người bạn, để trò chuyện!
* Ha Jin cho
rằng,
có một sự khác biệt giữa hai xã hội, TQ và Tây Phương, và con người, vì
là sản
phẩm của xã hội, nên “dính trấu”. Theo ông, người TQ không tin có đời
sau. Như
đoạn dưới đây cho thấy, khi Ha Jin viết về Solz.
“Trọn đời tôi, chỉ lo viết có một thứ”, ông có lần nói như vậy. Ngôi
làng
Cavendish, theo nhà viết tiểu sử Solz vào lúc đó không có một vị bác
sĩ, mà do
bị bịnh thần kinh hông, nhà văn có tuổi Solz cứ phải đứng viết. Điều gì
làm ông
kiên trường như thế, theo tôi, [Ha Jin] không phải chỉ vì ông lo quá
cho cái chuyện
viết chỉ một điều đó, mà còn vì niềm tin Ky Tô của ông, chính cái niềm
tin này
kéo thành một dải, một sự liên tục vượt khỏi cuộc đời này. Chính cái
niềm tin
còn có một “sau-đời” khiến con người có thể sống cuộc đời này mà chẳng
sợ hãi .
Trong một cuộc phỏng vấn trước khi trở về Nga, Solz được hỏi, ông có sợ
chết
không, và ông trả lời với một bộ mặt thích thú: Làm gì có chuyện đó.
Chỉ là một
sự chuyển tiếp thật êm ả. Là một tín hữu Ky tô, tôi tin rằng có cuộc
sống sau
khi chết, và tôi hiểu rằng, đó không phải là chấm dứt đời sống. Linh
hồn có một
sự tiếp tục, và linh hồn cứ thế tiếp tục sống. Chết chỉ là một giai
đoạn, và người
ta có thể nói, một sự giải thoát.
Trong một đoạn khác, ông nói, “Mục đích của sự hiện hữu của con người
không
phải là hạnh phúc, mà là sinh trưởng, nẩy nở tinh anh."
Điều này có thể cắt nghĩa sức mạnh tinh thần của ông, từ đó, ông tiếp
tục công
việc của mình khi lưu vong.
Những lời nói của ông làm tôi nhớ đến cuộc gặp gỡ của tôi với một nhóm
thi sĩ
TQ, ở River Falls, Wis, vào Mùa Hè 2001. Một trong họ là bạn học cũ của
tôi.
Anh rất mê khí hậu và cảnh sắc của thành phố nhỏ này, nó làm anh nhớ
tới vùng
đông bắc TQ nơi cả hai chúng tôi sinh ra. Tôi hỏi anh, “Nếu có thể, anh
sống một
mình ở đây, để chú tâm vào chỉ việc làm thơ?”, anh ta trả lời, khó lắm,
tôi
cần, ít lắm cũng một người bạn.
Đúng là một câu trả lời đặc Tầu. Người TQ không trông mong vào một
quyền năng
vượt ra khỏi cõi người, như là một chỗ dựa về tinh thần. Điều này giải
thích
rất ít người TQ lưu vong tại Bắc Mỹ sống tách biệt, riêng lẻ, và hầu
hết trong
số họ sống ở thành phố. Không thích sống cô đơn chỉ là bề mặt của vấn
đề, và ở
dưới nó, là sự trống vắng một niềm tin tôn giáo và niềm tin này đem đến
một cái
nhìn khác về cuộc đời.
Simenon
par Simenon Simenon_Paris_Review Dọn
Kít Từ một lầm lẫn nhỏ như hạt
bụi, về một bài viết tác giả quên mình đã từng viết, vậy mà chui xuống
gầm giường
nhà người thì khủng khiếp thật!
*
Theo Gấu, cú bịp
thành công nhất của băng đảng Hậu vệ, là cú Hậu hiện đại!
Để giải thích vụ
đánh quả lớn lao này, và thành công, chúng ta phải đi một đường vòng vo
Tam
Quốc, nghĩa là, phải trở lại với thời kỳ trước 1975, khi Miền Nam, Sài
Gòn,
hang ổ cuối cùng của Mỹ Nguỵ, lên cơn số ác tính do con virus hiện sinh
gây ra.
Sau bài viết
‘tiểu thuyết mới ở Việt Nam’ đăng trên Văn, me-xừ Lê Tấn Lộc, ông anh
của Kiệt
Tấn bèn kể thêm, về cái vụ hai anh em cãi nhau ỏm tỏi, có ông chứng
kiến, ấy là
vì cái quán ở gần nhà KT, chủ quán đã cho người tới báo động. Ông cho
biết, hai
thằng cãi nhau bữa đó là về tiều thuyết mới. Rồi ông kết luận, vì tiểu
thuyết
mới mà xém tí nữa, là có hai thằng nhà văn Mít chết vì nó!
Ông cho biết thêm, trong bài viết, đăng trên Văn, liền sau bài của Gấu,
là, có
phôn cho ông Butor Mít, hỏi về cái vụ thằng cha Gấu nó nói, ông mới
chính là
người chủ soái, khai sinh ra cái nhóm tiểu thuyết mới ở Miền Nam, Người
bèn trả
lời, hồi đó, khi cả Sài Gòn lên cơn sốt vì hiện sinh thì Người đã qua
tiểu
thuyết mới rồi!
Và Người kể, kỷ niệm những lần bệ Butor đầy bụi từ tiệm
sách về nhà, vv và vv.
Gấu có đọc bài của ông Butor Mít, và thú thực quá nản. Bởi vì, không lẽ
thằng
Tây nó có một cái trào lưu mới nào, là Mít vội vàng chạy theo ư?
Cái vụ hậu hiện đại Mít y chang cái vụ tiểu thuyết mới Mít trên!
Ông Butor Mít này viết văn y chang Butor mũi lõ! Than ôi, đúng như Butor nhưng không phải Butor!
Cái vụ đúng Butor nhưng không phải Butor này, Gấu phải đi một đường
minh họa,
thì bạn đọc mới hiểu ra được.
Trong cái lần Gấu ăn hai trái claymore của VC, đã kể quá nhiều lần, thì
ông
trưởng đài cùng đi với Gấu bị mìn VC thiến mẹ nó mất khẩu súng. Ông
giám đốc
Bưu Điện, thầy học của Gấu, bèn nói đùa, khi nhìn thấy ông trưởng đài:
-Vẫn là thằng T., nhưng không phải thằng T.
Ông nói bằng tiếng Tây.
Gấu thú quá, chôm luôn, và đưa vào trong một bài viết đăng trên Vấn Đề,
ỷ y,
ông trưởng đài chẳng bao giờ đọc.
Nhưng rủi quá, ông đọc, thế là ông thù Gấu thấu xương.
Chỉ đến mãi sau này, khi qua Cali,
gặp lại, ông mới tha thứ cho Gấu.
Ở đây có mấy 'vấn nạn' cùng một lúc:
Cái vụ Sài Gòn mê hiện sinh thời gian đó, không phải là chạy theo Tây
mũi lõ.
Và nếu sau đó, đọc tiểu thuyết mới, thì cũng có nghĩa là chạy theo tiểu
thuyết
mới.
Cái thứ tiểu thuyết mới của ông Mít Butor chỉ có phần xác mà không có
phần hồn,
thành thử chẳng có ai thèm đọc!
Bữa nào rảnh, Gấu sẽ lèm bèm thêm về cái vụ này.
Cũng thế, cái gọi là hậu hiện đại Mít, như hiện nay, cũng chỉ có cái
vỏ, y chang ông Mít Butor viết văn y như Butor!
Đám nhà văn trong nước chạy theo hậu hiện đại là để chạy trốn thực tại.
Và hậu hiện đại mấy ông này chạy theo, là do băng đảng Hậu vệ ban
cho họ.
Đám này cũng chỉ biết cái vỏ hậu hiện đại.
"Vỏ của vỏ", thì làm gì có lõi! Tiểu thuyết mới
ở Việt Nam Những rừng đen chai đứng
dậy trong đêm
khuya