|
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Cứ
tưởng bở!
Bài viết của tay Đào
Hiếu về
TCS này “được, được"!
Cụm từ “cứ tưởng bở” này,
cũng đã từng được ông Xì sử dụng, để chỉ me-xừ Gide, khi còn mê thiên
đường Xô
Viết. Lẽ dĩ nhiên, ông nói bằng tiếng Nga, và khi được dịch ra tiếng
Anh, thì là “thằng khờ được việc”, useful idiot. Và khi Gide hết mê CS,
sau khi đi Liên Xô về, chửi um lên, khi đó ông Xì gọi Gide là con "rắn
độc dâm đãng"!
Và có vẻ như, những me-xừ VC
nằm vùng như Đào Hiếu, và, tất cả Miền Nam, đều tưởng bở, tưởng
Yankee mũi
tẹt là cứu tinh, hóa ra là kẻ cướp!
Ngay trong đám Yankee mũi tẹt
này, cũng đa số là những người cứ tưởng bở, giải phóng Miền Nam xong là cùng xúm lại xây cái nhà
Việt Nam
to lớn đàng
hoàng hơn trước.
Nhưng, đẩy cho đến tận cùng,
‘cứ tưởng bở' còn có thể được dùng để chỉ tất cả những người đã tin vào
chủ
nghĩa CS, tin tưởng vào cách mạng vô sản. Đây là điều mà nhà văn
Skvorecky đã
phát biểu trong bài diễn thuyết, Một cuộc cách
mạng thì thường là giải pháp khốn nạn nhất, trong đó ông lập lại từ "thằng khờ được
việc" của ông
Xì, để chỉ những đấng như Đào Hiếu. So với TCS, thì DH 'được việc' hơn
nhiều!
TCS ham vui, còn DH, vừa ham vui, vừa ham làm cách mạng, và ham..
giết
người, bởi vì có cuộc cách mạng mà không có đổ máu, một cuộc cách mạng
không đổ
máu thì rất đáng ngờ!
Cứ tưởng bở!
Mình nghĩ nó đôi J, ai ngờ nó
đôi Xì!
Mình nghĩ nó cứu tinh, ai ngờ
nó kẻ cướp!
*
Phở
hồi đó ba
đồng một tô. Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường
xuýt xoa,
tiếc nhớ một hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn,
mùi
Cộng Sản, thảm hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt. Những buổi sáng hiếm hoi
trong túi
có mấy đồng bạc cắc bà Trẻ thương tình giấu giếm cho, nhân bữa trước
bán hết
mấy món đồ xi cho mấy cô gái, mỗi lần đi chợ Phú Nhuận, sau khi mua mớ
rau, con
cá, vẫn thường xúm quanh cái mẹt của bà già Bắc Kỳ, mân mê chiếc vòng
mã não,
chiếc cà rá hình trái tim, cây lược lưỡi liềm, tấm gương bầu dục phía
sau có
hình mấy nghệ sĩ cải lương... tôi có cảm tưởng cả con hẻm, khu phố cũng
xôn xao
cùng tôi qua những hương vị buổi sáng của nó: Tô phở nơi đình làng Phú
Nhuận,
trong hơi phở có chút hiền từ của khói nhang, của những lời cầu khấn,
mấy bà
mấy cô đi chợ tiện thể ghé đình lạy Phật và dùng điểm tâm. Dĩa bánh ướt
của cô
gái trong xóm với đôi quang gánh lúc nào cũng lao về phía trước, chỉ
chậm lại
nơi đầu con hẻm mươi, lăm phút rồi lại tất tả chạy quanh xóm. Có bữa dù
đã chạy
vội từ nhà, khi ra tới nơi chỉ còn kịp nhìn thấy một nửa bóng dáng cùng
cử chỉ
quen thuộc của cô còn nán lại phía sau lưng đòn gánh. Khi đã đi làm, có
lương
tháng, có nhà ở, do cơ quan cấp, bị dòng đời xô đẩy không cho ngoái cổ
nhìn lại
con hẻm xưa, có những buổi sáng chạy xe vòng vòng đuổi theo dư âm ngày
tháng
cũ, biết đâu còn sót lại qua dĩa bánh cuốn Thanh Trì, nơi con hẻm đường
Trần Khắc
Chân, khu Tân Định. Thứ bánh cuốn mỏng tanh, không nhân, chấm nước mắm
nhĩ màu
mật, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả
quế, giò
lụa. Chủ nhật đổi món bún thang dậy mùi mắm tôm, khi đã no nê vẫn còn
thèm
thuồng chút thơm tho của đôi ba giọt cà cuống đầu tăm. Nhìn bước đi của
thời
gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh,
trong nỗi
hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân
cũ, thực
dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù...
Lần Cuối Sài Gòn
Thằng
Khờ được việc
Trang
Tin Văn 30.4.2005
Không hiểu sao, trang này hiện đang Top Ten, đầu tháng Tư 2009,
qua server!
Không phải vì sắp tới 30 Tháng Tư, bởi vì chính Gấu cũng chẳng hề biết
đến trang này, làm sao độc giả mò ra!
Cả bài
dưới đây, cũng Top Ten!
Một
thời để yêu, để hát, và để chết
Thư tín:
Chú Trụ,
Re: Mr.
Bean.
Mới xem
hôm qua. Và chợt nhận
ra rằng, khi Mr Bean không cười khá giống chú Trụ (qua hình trên trang
nhà).
Không chừng, khi chú Trụ cười, lại giống Mr. Bean.
Re: Câu
hỏi về bài thơ của
thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Vâng, đã đọc. Chuyện văn thơ của các ngài thi
sĩ đó có
thể nói hoài chẳng dứt nhưng cũng có thể chung qui được một điều: 19
năm văn
chương Miền Nam là
một điểm
son trong văn chương (toàn cõi) Việt Nam thời cận đại mà ảnh
hưởng của
nó vẫn còn đến ngày nay. Cháu chỉ sống trong thời đó chừng vài ba năm
do sinh
sau đẻ muộn. Chỉ biết được những dòng thơ lời hát đó qua người nhà và
khi đi
khỏi Việt Nam
(cũng hơn ½ đời người). Nhưng vẫn ấp ủ nó trong lòng như một hoài niệm
về thời
hoàng kim nào đó. Điều thú vị là sau nầy về Việt Nam
gặp những đứa em bà con, những
người bạn mới đều sinh sau 75 và đều có chung một hoài niệm đó.
Lan N
*
Phúc
đáp:
Cám ơn
rất nhiều.
Thư
viết đúng giọng Mr. Bean.
Tuyệt vời!
Mr. Bean
Không chừng, khi chú Trụ
cười, lại giống Mr. Bean.
Liệu
có chuyện chấm hết, với Mr. Bean?
Sau Kỳ
hè của Mr. Bean, tôi nghi vậy. Nhưng trước đây 10 năm thì cũng
nghi vậy, với cuốn phim đầu tiên. [Cười]. Khi bạn ở lưng chừng đời, như
tôi bi giờ, bạn sẽ cảm thấy ơn ớn, súng của mình không còn nhạy, mình
'lão hoá' mất rồi! Tôi luôn luôn coi me-xừ Bean là một nhân vật vượt
thời gian, không có tuổi, và tôi muốn anh ta được hậu thế nhắc nhở, như
là một tay súng nhanh nhạy, luôn luôn tâm niệm, bắn chậm thì chết, ở
cái tuổi 30 hoặc 40.
Ông
phịa ra tay này, từ ông, hay từ tình cờ, rồi gia giảm, thêm mắm thêm
muối?
Đúng là
một thứ từ tôi mà ra. Một kiểu hoá thân của tôi. Me-xừ Bean là cái khúc
củi tự nhiên của tôi, khi nó được ra lệnh, hãy tỏ ra khôi hài, hoàn
toàn bằng cử chỉ, điệu bộ, để cho ai cũng có thể nhìn thấy, và lập tức
nhận ra. Ai thì cũng có những lúc nhăn nhó làm hề như thế cả, nhưng chỉ
trong khi tập rượt thôi, không phải ở vào cái lúc bị đẩy ra giữa sàn
đời.
Bằng
cách nào, làm sao mà cái sự chọc cười, chọc quê của ông vượt biên
cương, vượt các hàng rào cản của các miền văn hóa, một cách thật là
ngon lành?
Đúng là
nhờ cái thưở còn con nít của nó. Mr. Bean bản chất là một đứa bé, bị
mắc bẫy, ở trong cơ thể của một người đàn ông. Tất cả các nền văn hoá
nhận ra đứa trẻ cùng một đường hướng như vậy, chính vì thế mà nó vượt
biên cương, vươn tới toàn cầu. Những cậu bé 10 tuổi thì có chung nhiều
trò chơi, ở bất cứ một quốc gia, nhưng khi 30 thì súng của các cậu khác
hẳn nhau! Chúng ta lớn lên, trưởng thành, và chính cái cảm tính đó,
"súng của tao khác súng của mày", chia rẽ chúng ta!
Câu chuyện thời sự, một người
cán chết
người, phải ở tù mỗi năm một ngày, đúng cái ngày cán chết người, làm
Hai Luá
nhớ tới một câu chuyện kinh dị đọc từ hồi còn nhỏ, của Hoffmann, và
khủng khiếp
hơn nữa, là cứ hơi bị liên tưởng đến ngày 30 Tháng Tư.
Câu chuyện của Hoffmann, như Hai Lúa còn
nhớ được đại khái như sau.
Một anh chàng xa quê hương quá lâu, bèn về. Tới làng, thì đã đêm, bèn
trọ lại ở
quán nước đầu làng. Ở đây, anh ta chú ý tới một ông khách lạ dáng vẻ
hết sức
bồn chồn, tay đeo một chiếc nhẫn chạm nổi hình một chiếc xe ngựa, bốn
con ngựa
dáng thật hung hãn, đang phi nước đại.
Sau hồi làm quen, ông khách cho
biết, ông
là chủ chiếc xe ngựa được khắc trên mặt chiếc nhẫn, và đây là một kiệt
tác của
một thợ nổi tiếng tại làng này, cách đây năm trăm năm. Ông khách lạ là
vị lãnh
chúa của vùng này. Mê xe ngựa, mê cho xe chạy như điên trên đường làng,
và một
lần, đã cán chết đứa con gái nhỏ của ông thợ.
Quá đau đớn, và cũng để trả thù cho đứa con, người thợ này cặm cụi khắc
chiếc
xe ngựa lên chiếc nhẫn, và nguyền: Mi mê phóng ngựa, thì ta cho phóng
ngựa. Cứ
mỗi năm, đúng vào ngày mi cán con ta, mi sẽ phải trở về đây, cưỡi chiếc
xe này,
phóng vòng đua này, rồi sau đó, đi lang lang như người Do Thái phạm tội
giết Chúa,
đến ngày đến tháng lại trở về.
Khi vòng đua cuối cùng của năm trăm năm
được thực hiện, chiếc xe ngựa trên chiếc nhẫn mà ông khách trao tặng
anh chàng
kể chuyện này, cứ thế mờ dần, và biến mất.
Nhân câu chuyện thời sự, Hai Lúa bỗng nhớ
lại câu chuyện ma quái trên, và cứ tưởng tượng một cách thật là ma quái
rằng
thì là có một dân tộc bị lời nguyền, cứ đến ngày 30 Tháng Tư, là lại
diễn lại
cái tuồng cuộc chiến 30 năm mới có ngày 30 Tháng Tư này, vui sao nước
mắt lại
trào?
*
Này coi chừng, bị tẩu hỏa nhập ma đấy, cha
nội!
Hai Lúa lại bỗng nhớ đến một lời cảnh cáo của một độc giả Tin Văn.
*
Thư độc giả
Lần này thì không kêu lên “Coi chừng bị
THNM”, mà gật gù đồng ý, rằng đúng như thế, dân tộc kia rõ ràng là bị
một lời
nguyền độc địa, khiến mỗi lần chỉ nghe nói đến 30 Tháng Tư là đã rợn cả
người,
không biết nên quên hay nên nhớ.
Chao ôi, chẳng lẽ chúng ta cũng bị một ông
thợ rèn nào đó trù yểm, một ngàn năm nô lệ chú Chệt, một trăm năm nô lệ
thằng
Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày, và năm trăm năm sau vẫn còn lang
thang
chờ khóc một 30-4?
K.
Nguồn
Một cuộc cách
mạng thì thường là giải pháp khốn nạn nhất
Josef Škvorecký's Ordinary
Trong
Stranger Shores, tập
tiểu luận, [1986-1999] nhà văn nhớn, nhà phê bình nhớn, nhà văn Nobel,
Coetzee đi
một đường
ai điếu hơi bị sớm nhà văn hiện còn sống, Josef Skvorecky: … Looking
back over his career, Skvorecky produces a humorously modest obituary:
“After
years of socialism… he was..”. [Nhìn lại sự nghiệp văn
chương....
]. Không
biết ông nhà văn này có
quê không, nhưng mới đây, cho ra lò một cuốn thật hách xì xằng [xb năm
2004, bản dịch tiếng Anh, 2009], tờ
TLS, số
mới nhất đi một đường chào mừng: Josef Škvorecký's Ordinary
Lives A novel
that reveals the
horror inherent in life under totalitarianism, trong
đó để nhẹ nhà phê bình
nhớn, Nobel văn chương một câu: In
2002, in Stranger Shores,
J. M. Coetzee published a premature obituary on Škvorecký’s literary
career,
implying he was finished as a writer.
Chính là do đọc bài viết của Coetzee, chê thật nặng
nề, mà Gấu bỏ qua ông này, cho tới khi đọc bài viết trên TLS số mới
nhất, thì mới ngã ngửa ra rằng, ông, cũng công dân Canada, cũng cư dân
Toronto như Gấu, và, cũng mê Faulkner, như Gấu, tuy nhiên, đã từng là
ứng viên Nobel văn chương, chưa kể cả lô giải thưởng này nọ.
Xin
giới thiệu một bài viết,
từ website của ông. Tin Văn sẽ dịch bài này, tặng mấy đấng VC nằm vùng,
"mấy thằng ngu có ích", "mấy đứa con nít không hề biết đùa với lửa có
khi mang họa, cho tới khi
lửa đốt rụi ngôi nhà Miền Nam
của chúng!"
They are — if you'll excuse the platitude — like a child who doesn't
believe
that fire hurts, until he burns himself.
Bài
trên TLS vinh danh Josef,
nhiều câu tuyệt cú mèo, như để bù lại cho tác giả về những bất công mà
Coetzee đối xử với ông
NMG vs Lưu
Vong
Cioran
mơ một thế giới, ở đó
con người chết chỉ vì một cái dấu phẩy. Gấu, có thể cũng mơ một thế
giới tương tự khi “từ bỏ thành công” của truyện ngắn đầu
tay, Những con dã tràng [Nó
sẽ đi xa hơn DNM, ông anh nhà thơ phán], để chọn con
đường gian nan khổ ải, ở đó, người ta có thể chết vì… quá
nhiều dấu phẩy!
Ui
chao lại nhớ, lần viết xong câu văn, đúng thời kỳ đẹp nhất của đời Gấu:
Niên học
cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu
bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội,
tôi thức
giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một
buổi
sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết.
Rushdie nhắc tới
câu văn chứa
hàng trăm câu văn.
Câu văn trên chứa cả cuộc đời của Gấu.
“La Peau”de Malaparte
Thua ai, thua anh bộ
đội Cụ
Hồ, thì còn vinh dự nào bằng!
Tuy
nhiên, mọi thứ, hễ anh sờ vô, là trở thành
hư ruỗng.
Anh
vừa mới cười với một cô
gái trong trắng, xong, là cô ta biến thành điếm!
Một
khi mọi lý tưởng chỉ là
cứt đái, thì lá cờ độc nhất, cho một con người, là làn da của chính anh
ta.
*
Cuốn La Peau,
bản Việt văn do
Gấu dịch, vào những ngày đầu ra hải ngoại, Gấu thấy bầy bán tại một
tiệm sách
Việt tại thành phố Toronto, cùng với một cuốn khác, cũng Gấu dịch, Ngày
dài nhất.
Mua về làm kỷ niệm. Không thấy cuốn Những
ngày ở Sài Gòn. Một ông bạn
cho biết,
cuốn đó cũng có, nhưng ở thư viện chính của Toronto, và một đệ tử của anh bạn sau
đó đã
photocopy cho Gấu một bản. Đưa cho một ông bạn bác sĩ mới quen đọc. Khi
trả lại,
ông nói, có vẻ hơi bực, đâu có Sài Gòn ở trong đó, chỉ thấy Hà Nội.
Phải đến khi qua Tiểu
Sài Gòn,
vô tiệm sách Tú Quỳnh, thì Gấu mới thấy đủ cả ba.
Nhân Kundera trong
cuốn mới
nhất vừa xb, tại Pháp, ca Malaparte thấu trời, Gấu lấy ra đọc lại. [Đã
một lần
Tin Văn tính post lại cuốn sách, bản tiếng Việt, khi tờ Lire (?), viết
về
Malaparte, khi cuốn La Peau được
tái bản tại Pháp].
Đọc, như nhìn lại được cả
hai lần Miền Nam
ăn đòn Yankee, một mũi lõ, một mũi tẹt!
Con nít
Miền Nam cũng chịu
cảnh nhục nhã này, ở thủ đô Pnom Penh, Cam
pu chia.
Hot
Trên
net, đang có mấy cú nóng
hổi, chắc không phải do gần tới 30 Tháng Tư.
PD vinh
qui bái tổ.
TCS bị
một ông bạn thân lôi ra tố,
có tham vọng chính trị.
V/v PD. Tình cờ đọc một đoạn
trong Tổng Quan văn học, Lời Nói Đầu, cũng đã tiên đoán chuyện PD sẽ
trở về, nhưng hoàn toàn khác hẳn:
Hãy
tưởng tượng trường
hợp chúng
ta đưa nhạc sĩ Phạm Duy ra thả dù ở một vùng biên giới Hoa Việt nào đó,
đổi tên
ông là Trần Doai… rồi trốn nấp trong khoảng núi rừng Bắc Việt, cứ cất
lên đều đều
tiếng nói của nhân dân cách mạng, nhân dân giải phóng miền Bắc được
chăng?
Võ Phiến
*
Kỷ niệm những lần
nghe nhạc
PD ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà của Gấu thật tuyệt vời, và sau này, mỗi
lần nhớ
lại, là Gấu lại càng hiểu ra câu thơ của Lý Thương Ẩn, nói về cái duyên
hạnh ngộ
ở trên đời, và đem áp dụng vào mấy trường hợp trên mới thật là tuyệt cú
mèo:
Gặp nhau đã khó, xa nhau
lại
càng khó.
Trước hết, hãy nói về cái
chuyện gặp nhau đã khó. Ứng
dụng vô trường hợp của Gấu: Không dễ gì mà được nghe nhạc Phạm Duy ở
trong tù.
Cái sự sửa soạn để được nghe,
là có "ý trời" ở trong đó!
Lần nghe bản Thuyền Viễn Xứ,
do một tay trại viên độc tấu Tây Ban Cầm, nó nhiêu khê lắm. Không có
ông Trời sắp xếp là trớt qướt!
Lúc đó là thời gian Gấu đã
mua được cái chức Y Tế Đội, không còn ăn ngủ tại lán trại viên, mà là
được đưa lên… Đội.
Chỉ ở trên Bộ Chỉ Huy của Đội, thì mới có cây Tây Ban Cầm dành cho
những buổi
sinh hoạt Đội. Gấu tuy không biết đàn TBC, nhưng có thể sử dụng nó như
là một cây
măng đô lin, bấm nốt tỉ tì ti, thì dư sức.
Thế là, buổi tối hôm đó, khi đi
từng lán ghi tên trại viên khai bịnh, ngày mai cho nghỉ lao động đưa
qua bệnh xá,
xin vài viên Xuyên Tâm Liên, bèn xách cây đàn đi theo. Tới một lán, gặp
tiệc trà,
dựng cây đàn kế bên, nhập cuộc. Trong đám ngồi dự tiệc trà, có một tay,
trong lúc
hứng quá, bèn cầm cây đàn lên.
*
Nói Thuyền Viễn Xứ
được sáng tác cho những
thính giả mãi sau đó, cho khúc ruột ngàn dặm, thực sự chỉ mới đạt được
một nửa
lời tiên tri. Nó còn nhắm tới khúc ruột ngàn dặm, ở ngay trong nước,
tức những
kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải tạo, tinh thần thế giới của Tin Văn"
chiếu cố, thôi thì cứ nói đại, cho dù chính tác giả của nó cũng chẳng
thể ngờ,
vì có khi nào PD đi tù VC đâu, thính giả đích thực của bản nhạc
Thuyền Viễn Xứ, là
đám tù cải tạo.
Nói,
"nó còn nhắm tới", có lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại càng
không nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây
là quyền năng huyền bí của âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích
dẫn Lévi-Strauss,
sự phát minh ra giai điệu là một "bí mật tối thượng".
Gấu,
tên tù cải tạo, vào lúc không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên
'quê hương'
xuất hiện, không phải như là một 'kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm
về khổ
đau", mà như một món quà tặng thật là tuyệt vời.
Nhạc PD Tù VC
*
Nói
về nhạc phản chiến , cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?
Đặng
Tiến: Trịnh Công Sơn
Cái
nhận định, hình học là nghệ thuật lý luận đúng, trên một hình vẽ sai,
Gấu thực
sự không hiểu Đặng Tiến moi ở đâu mà ra, hay là đây chính là điều thầy
Nguyễn
Văn Phú gọi là đường may mắn. Ai đã từng học toán, môn hình học, đều
biết, có
những bài toán hình học, không thể nào giải được, nếu không tự dưng
"phịa
ra" một đường, thế là bài toán được giải!
Vả
chăng, Gấu này không nghĩ như Đặng Tiến, khi ông cho rằng: Tình Nhớ thì
liên
can gì tới phản chiến?
Và đây không phải là một trường hợp có thể qui về phạm trù văn học có
tên là 'liên
văn bản'.
Tình Nhớ chính là nhạc phản chiến,
hiểu theo cái nghĩa cao quí nhất
của từ này.
Của nhạc này.
Nếu có một phần liên văn bản
của nhạc TCS, thì cái phần này phải được hiểu theo
nghĩa của Gide, khi ông phán về tác phẩm nghệ thuật, nhân đọc
Dostoevsky: Tác
phẩm lớn có sự tham dự của Quỉ.
Nhạc Trịnh
Công Sơn có sự tham dự của con quỉ chiến tranh.
Nói rộng ra,
có vẻ như, tất cả các tác phẩm văn học nghệ thuật của Miền Nam
trước đây,
đều được viết theo cách nhìn đó: Viết, sáng tác, trong nỗi lo sợ, hoặc
nghệ
thhuật, hoặc tác giả, bị trù ẻo, nguyền rủa, huỷ diệt....
Thanh Tâm
Tuyền coi đây chỉ là bước đi [nhịp điệu] của thời gian.
Brodsky nói
khác một tí: Thời gian được tái sắp xếp lại.
Cái nhịp của
nhạc TCS chính là đại bác ru đêm.
Đó là phần
liên văn bản của nó!
Tưởng
niệm TCS
Trong
tù VC, có lần Gấu đã
được nghe Hạ Trắng, tấu bằng một cây khẩu cầm, harmonica, giữa trưa
nắng gắt,
đói, một thằng cha tù nào đó, bất thình lình, như quá nhớ nhà, nhớ Sài
Gòn, lôi
cây kèn ra mà gào mà rống, đếch thèm để ý đến lệnh cấm nhạc vàng của
quản giáo.
Gấu vừa
nghe vài đường kèn,
là run rẩy như "con thằn lằn đứt đuôi", trưa nắng gắt, đói như thế,
mà cảm thấy "nhẹ tênh". Sau này, nhiều lần nghe ông nhạc sĩ Trần Mạnh
Tuấn, nổi tiếng chơi saxo, tấu bài này, vậy mà cũng chẳng thể nào cảm
thấy
"phê" như lần ở trong trại cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè.
Hạnh
phúc nhất, và cũng đau
thương nhất, là lần nghe Tình Nhớ, tại Trung Tâm Ba, Quang Trung.
Hạnh
phúc này, Gấu đã từng
khoe, nhiều lần rồi, nhưng cứ muốn khoe tiếp. Vả chăng, còn rất nhiều
chi tiết,
vừa hạnh phúc vừa bi thương, chưa từng kể.
Lần
này, chơi xả láng!
Cũng là
một cách tưởng nhớ
ông nhạc sĩ tài ba. NQT
*
Từ lúc
đưa em về, là biết xa
nghìn trùng.
Bất hạnh độc thân
"Không tổ tiên, hôn nhân, con cái, cho dù mong đến phát khùng.
Tất cả giơ tay ra, nhưng quá xa, làm sao tôi với tới?"
Nhật ký [Kafaka],
21 Tháng Giêng 1921
*
Viết về TCS, một lần, Gấu này
đã viện tới Elias Canetti, nhà văn Đức, Nobel văn chương, khi ông mừng
sinh
nhật lần thứ năm mươi nhà văn Herman Broch:
Đừng sợ nữa. Bạn sợ như vậy
là đã quá đủ cho đám tụi mình rồi. Tất cả chúng mình đều phải chết.
Nhưng bạn
chưa chắc đã phải chết. Có lẽ những bản rất tình ca của bạn, là cái
phải đại
diện cho cả lũ chúng mình với hậu thế. Bạn đã phục vụ chúng tớ bằng
tình bạn
trung thành và chân thực. Thời của lũ chúng ta chắc là chưa buông tha
cho bạn
đâu.
[Nguyên văn tiếng Đức, bản
dịch tiếng Anh của Joachim Neugroschel, trong Lương Tâm Của Chữ, The
Conscience
of Words : Don' t be afraid, you have been afraid enough for us. We
have all to
die; but it is still not certain whether you too have to die. Perhaps
your very
words are what must represent us to posterity. You have served us with
loyalty
and honesty. The age will not release you].
TCS
vs LS
Chiều qua [4.4.09], xuống
phố, vô
tiệm sách cũ, vớ được một cuốn viết về Camus, của Germaine Brée,
[Habinger Book, Harcourt, Brace & World]. Theo
bà Brée này, Camus
gọi thế kỷ của chúng ta là ‘thế kỷ của sự sợ hãi’, (1) nhưng rất
nhiều trong chúng
ta, do sợ nó, nên vờ nó, giấm giúi nó, đẩy nó vào trình trạng
ngủ đông [dormant]. Camus coi đây, sự sợ hãi, là một xì căng đan
không thể bỏ chạy được, và sức mạnh của ông, như là một nghệ sĩ, là, từ
chối
những tác phẩm vờ đi những âu lo, sợ hãi của thế hệ của mình.
Âu lo, angoisse là một
trong những phạm trù bảnh nhất của chủ nghĩa hiện sinh là vậy.
“Tôi lớn lên cùng với những
người cùng tuổi, cùng với tiếng trống trận của Đệ nhất thế chiến, và
lịch sử từ
đó, không ngừng chỉ là sát nhân, bất công, và bạo lực”
“Nỗi đau của con người là
một
đề tài lớn lao quá, đến nỗi đếch có ai dám sờ vô nó.” Camus phán.
Thời của lũ chúng ta chắc là
chưa buông tha
cho bạn
đâu!
Tuyệt!
Đúng là bói mu rùa, vớ được
con rùa già TC!
NQT
(1)
FOREWORD
[by David Carroll]
Albert Camus-Political
Journalist: Democracy in an Age of Terror
Our twentieth century is the
century of fear .... We live in terror.
-ALBERT CAMUS,
"The Century of
Fear" (Combat, November 19,1946)
I have always believed that
if people who placed their hopes in the human condition were mad, those
who
despaired of events were cowards. Henceforth there will be only one
honorable
choice: to wager everything on the belief that in the end words will
prove
stronger than bullets.
-ALBERT CAMUS,
"Toward Dialogue"
(Combat, November 30, 1946)
Camus @ Combat. Writing
1944-1947 [Princeton
University
Press 2006]
"Không
gian chính trị
có giới hạn của Việt Nam đang ngày càng thu hẹp. Chính quyền
đã
trấn áp cộng đồng mạng, đóng cửa các website và cầm tù
những người
thông qua mạng internet để thách thức đảng Cộng sản".
BBC
Nhận
định trên đây, cũng còn là nội
dung bài diễn thuyết, Viết trong Bóng tối, Writing in the Dark, của David
Grossman, The Arthur Miller Freedom to Write Lecture, New York, April
24, 2007
[Hình như có cả Dương Thu Hương tham dự, như là thành viên, và đại gia
Trịnh Lữ, quan sát viên..?].
Grossman
nhớ tới những lời của
chú chuột, ở trong một ngụ ngôn nhỏ, ‘A Little Fable’, của Kafka. Khi
cái bẫy ngày càng thắt lại, con mèo gầm rú
ở bên ngoài, chú chuột nói, “Than ôi, thế giới ngày càng thu hẹp lại”.
[Alas,
the world is growing smaller everyday].
Sau bao nhiêu năm sống trong cực điểm của
chế độ bạo tàn về chính trị, quân sự, tranh chấp tôn giáo, tôi
[Grossman] thật buồn mà báo
cáo với quí vị là con chuột của Kafka có lý: thế giới ngày càng nhỏ
lại. Tôi
có thể nói với quí vị về khoảng trống, the void, ngày càng mở ra, giữa
cá nhân
và nhà nước bạo tàn, và cái khoảng trống này thì không trống rỗng,
empty. Nó ngày một đầy ứ lên, bởi sự lãnh đạm, thói đểu giả, cynicism,
và
trên tất cả, sự chán chường, thất vọng. Sự chán chường thất vọng khiến
con người
chẳng còn muốn cựa quậy nhằm thay đổi hoàn cảnh, và 'khủng' hơn nữa,
nỗi tuyệt vọng
về con người, về chuyện tại sao con người lại thoái hoá, băng hoại tới
mức như thế,
trong cách cư xử giữa con người.
Grossman
nói thêm, con chuột
của Kafka có lý, khi kẻ ăn thịt chờn vờn trước mặt bạn, thế giới của
bạn càng
thêm nhỏ hẹp lại.
Và, cũng vậy, là ngôn ngữ mô tả thế giới, nó cũng thu hẹp lại.
100 năm
ngày sinh
của Simone Weil
Co ai
"noi nang"
chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?
Phúc đáp: Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31,
2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the
nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay,
gia roi
*
Gia roi phai hien ma chet!
Đa tạ. Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét!
Phỏng
Vấn Steiner
Sao
bac ghet talawas...?
Note: Bài viết đuợc
talawas
post lại.
Bài viết chưa hoàn tất, và hiện
đang có mấy ý tưởng cũng thú vị, đại khái như sau:
Tại sao 1954 lại có cú Nhân Văn
Giai Phẩm, mà 1975, chẳng có gì?
Tại sao diễn đàn talawas đợt đầu,
Gấu coi là thất bại, trong khi BBT lại coi là thành công?
…
Vì lý do đó, giả như talawas
có ý kiến gì về bài viết, Gấu sẽ vờ, tiếp tục mạch viết.
V/v độc giả talawas có ý kiến,
xin miễn xía vô, vì không phải độc giả Tin Văn.
Trân trọng. NQT
Kỷ
niệm đẹp trong đời viết văn
Đọc
loáng thoáng cuốn Vera, của
tay Stacy Schiff, Gấu mua xon, từ đời nào, viết về bà xã của Nabokov,
vớ được
một ‘giai thoại’ thật thần sầu. Vera, một lần, khi một nhà xb xin chân
dung ông
chồng, đã gửi đi một tấm, khi Nabokov còn là một đứa con nít, kèm ghi
chú:
"Bạn cứ nhìn vào mắt thằng bé con này, là thấy ra tất cả những tác phẩm
của ông
chồng tôi".
[If U look carefully into the baby’s eyes, U can see all of my
husband’s books].
Kể cho
Gấu Cái nghe, bả bĩu môi,
sao hay bằng câu của ta. Mà mi đâu có nhớ?
Gấu,
nhớ.
Lần đó,
tờ Sóng Văn của tay Sao
Mai, Gấu cộng tác, qua sự giới thiệu của nhà thơ LH, có làm một cuộc
phỏng vấn,
không phải nhà văn, mà vợ nhà văn. Gấu Cái trả lời, có hai câu thật
bảnh.
Kỷ niệm
nhớ đời, trong cuộc đời làm vợ nhà
văn nhớn, Gấu
Nhà Văn.
Đó là
lần rước dâu, từ Cai Lậy
về Sài Gòn. Năm đó, lụt lớn [1966, hay 67, Gấu không nhớ rõ].(1)
Có những
đoạn đường
phải dùng đò. Trên đò, có đủ khổ đau, đủ dùng, không chỉ đời này, mà
còn cho
đời sau, không chỉ cho “hai”, mà “ba” người ngồi trên đò.
Gấu nhà
văn chỉ có vài truyện ngắn, vậy mà có
đến vài hình
dáng đàn bà…?
Ôi dào,
toàn là bản nháp không
à. Bản thực sự, viết về tui, ông ta không đủ tài viết ra.
*
Câu của Gấu Cái quả là bảnh hơn nhiều, nếu phải so với câu của Vera.
Bạn có nhớ con thuyền Noé?
Và cuộc di tản ra biển sau 1975?
*
Câu của Vera, còn thua cả câu của Sáu Dân, ngay sau khi giải phóng Sài
Gòn.
Nhìn vào vầng trán cháu ngoan Bác Hồ thành phố, thấy cả tương lai Mít.
(1) Gấu Cái đọc, đoạn trên, bực quá, chửi, lấy nhau năm nào, mà mi cũng
quên ư?
Simenon
trả lời tờ The Paris Review
Nếu chỉ nhìn từ
phiá bên ngoài, từ phía độc giả của ông, làm sao họ nhìn ra sự khác
biệt, giữa thương mại và phi
thương mại?
Có khác
biệt lớn: nhượng bộ.
Khi viết vì bất cứ mục đích thương mại nào, là luôn luôn có nhượng bộ.
Nhượng bộ, chiều theo ý nghĩ,
đời mà, đời thì có trật tự, có người này người khác, có sự ngọt ngào,
thí dụ vậy?
Và, còn
quan điểm về đạo đức
nữa. Có lẽ đó mới là điều thật quan trọng. Bạn không thể viết bất cứ
một tác phẩm
thương mại nào mà không phải chấp nhận một mẫu mã, một qui luật nào đó.
Luôn luôn
có mẫu mã, code – như mẫu mã ở Holywood, và ở truyền hình, phát thanh.
Thí dụ,
hiện đang có một chương trình TV rất tốt, và có thể nói, số 1 về kịch.
Hai màn đầu
khỏi chê, vì luôn là bảnh nhất trong những thứ bảnh nhất. Bạn có cảm
tưởng có một điều gì thật mới, thật mạnh, và đến đoạn chót, thì sự
nhượng bộ xẩy ra.
Luôn luôn không phải là một cái kết thúc hạnh phúc, cái hậu đẹp, nhưng
mà là một
điều gì đó xẩy ra, để hòa giải, giao lưu mọi điều mọi chuyện, từ quan
điểm của
một thứ đạo đức, một thứ triết học – như bạn biết đấy. Tất cả những
nhân vật, đóng
thật tuyệt vai trò của họ, cho tới phút đó, bỗng xìu xuống, vào đúng 10
phút chót!
Trong tác
phẩm phi thương mại, ông cảm thấy
không cần
phải nhân nhượng, bất cứ thứ gì?
Tôi không bao
giờ làm điều đó. Không bao giờ, không
bao giờ, không bao giờ. Nếu không thế, viết làm cái chó gì! Đau lắm,
nếu không
làm được như thế, đến tận cùng.
Ui
chao, cái đoạn song đấu giữa
Gide và Simenon, dưới đây, làm Gấu nhớ tới thầy Steiner, cũng mê
Simenon như điên. Và Gấu hiểu ra, cả hai
Steiner, và Gide, đều không có, điều mà Simenon dư dả: sự sáng tạo!
Có lần ông nói
Gide đã từng gợi ý cho một trong những cuốn tiểu thuyết của ông, và cú
đó thật đắc
dụng. Ông ta có ảnh hưởng đến tác phẩm của ông, theo một kiểu đại trà
nào đó.
Chắc không có
chuyện đó đâu. Nhưng chuyện xẩy ra với Gide tức cuời lắm. Vào năm 1935,
nhà xb
của tôi
cho biết ông ta có tổ chức một bữa tiệc cốc tay, và tôi có thể tới lèm
bèm với ông
ta, bởi vì ông ta nói, ông ta đọc tôi khá nhiều, và muốn gặp. Tới, Gide
quần tôi
trên hai tiếng đồng hồ. Sau đó, trở thành bạn quí của nhau. Tháng nào
cũng thư
gửi bạn ta. Quần bạn ta tới khi ông ta chết. Tới nhà ông, tôi thấy
những cuốn sách
của tôi, được bạn quí ghi chú tùm lum, khiến tôi nghĩ, chúng là của
Gide hơn là
của Simenon. Tôi chẳng bao giờ hỏi Gide về chuyện này. Thì cũng thẹn
chứ! Làm
sao không!
Ông ta có những câu hỏi nào ‘quái’ không?
Hỏi
đủ thứ trên đời. Nhưng đặc biệt là về ‘cơ chế’,
của cái gọi là ý hướng - cho phép tôi dùng từ - sự sáng tạo, của tôi.
Và tôi
nghĩ, tôi hiểu ra tại sao ông quan tâm đến tôi. Tôi nghĩ, cả đời Gide
mơ trở
thành một tay sáng tác, thay vì là nhà đạo đức, triết gia. Tôi đúng là
thứ đối
nghịch hẳn với ông ta. Chính vì thế mà ông quan tâm tới tôi.
Hai năm sau tôi gặp
một trường
hợp y chang, với một tay bá tước. Ông ta viết cho tôi y chang Gide
viết. Mời tới lâu
đài thăm. Tới ,bá tước quần “Simenon nhà văn” ba ngày ba đêm lử cò bự.
Ông
tới Paris
thăm
tôi, quần tiếp, và biếu tôi sách của tôi, kèm 'còm' của ông. Cùng một
lý do.
Ông gọi
tôi là thằng ngu thiên
tài!
*
INTERVIEWER
You once told me Gide made a
helpful practical suggestion about one of your novels. Did he influence
your
work in any more general way?
SIMENON
I don't think so. But with
Gide it was funny. In 1935 my publisher said he wanted to give a
cocktail party
so we could meet, for Gide had said he had read my novels and would
like to
meet me. So I went, and Gide asked me questions for more than two
hours. After
that I saw him many times, and he wrote me almost every month and
sometimes
oftener until he died-always to ask questions. When I went to visit him
I
always saw my books with so many notes in the margins that they were
almost
more Gide than Simenon. I never asked him about them; I was very shy
about it.
So now I will never know.
INTERVIEWER
Did he ask you any special
kinds of questions?
SIMENON
Everything, but especially
about the mechanism of my-may I use the word? it seems
pretentious-creation.
And I think I know why he was interested. I think Gide all his life had
the
dream of being the creator instead of the moralist, the philosopher. I
was
exactly his opposite, and I think that is why he was interested.
I had the same experience two
years later with Count Keyserling.
He wrote me exactly the same
way Gide did. He asked me to visit him at Darmstadt.
I went there and he asked me questions for three days and three nights.
He came
to see me in Paris
and asked me more questions and gave me a commentary on each of my
books. For
the same reason.
Keyserling
called me an
imbecile de genie.
INTERVIEWER
I remember you once told me
that in your commercial novels you would sometimes insert a
noncommercial
passage or chapter.
SIMENON
Yes, to train myself.
INTERVIEWER
How did that part differ from
the rest of the novel?
SIMENON
Instead of writing just the
story, in this chapter I tried to give a third dimension, not
necessarily to
the whole chapter, perhaps to a room, to a chair, to some object. It
would be
easier to explain it in the terms of painting.
INTERVIEWER
How?
*
Thằng
ngu thiên tài! An imbecile de
genie!
Tuyệt!
Niềm
bí ẩn đáng sợ.
Nhà
văn Pháp, André Gide, kể lại, một lần một
người thân nằm nhà thương; ông ghé thăm, và nhận thấy, người bệnh,
người thăm
bệnh, kể luôn ông, người nào cũng cầm trong tay một cuốn truyện của
Georges Simenon!
Simenon,
người Bỉ, viết văn bằng tiếng Pháp,
sinh tại Liège năm 1903. Ngay từ trẻ, ông đã quyết định: sẽ viết văn.
Mười sáu
tuổi, làm ký giả cho tờ La Gazette de Liège. Thoạt đầu, lo tin vặt, sau
tới
chuyện trong nhà ngoài ngõ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay, ký tên Georges
Sim, ra
đời năm 1921: “Trên cầu Arches, một câu chuyện nhỏ về Liège”. Dời đi
Paris vào
năm 1922 cùng với bà vợ đầu là một nữ họa sĩ, ông bắt đầu thực sự vào
nghề bằng
cách viết chuyện kể (contes), tiểu thuyết đăng nhiều kỳ
(romans-feuilletons),
đủ thể loại: trinh thám, huê tình (érotique), ướt át… Từ 1923 tới 1933,
ông cho
ra lò gần hai trăm tiểu thuyết, hàng ngàn chuyện kể, và rất nhiều bài
báo.
Trong
một cuộc phỏng vấn, ông cho biết, người “khám
phá” ra ông, là nữ văn sĩ người Pháp, Colette. Bà khi đó làm cho một tờ
báo,
nơi Simenon dụt dè thử thời vận của mình.
“Ham
làm văn quá” (nhiều tham vọng văn chương, ambitions
littéraires), Colette phán. Chỉ một câu đó, Simenon ngộ ra liền. Từ đó,
ông xây
dựng thế giới của mình, bằng những nhân vật bình thường, những ngôn từ
bình
thường. Những câu chuyện của ông, cũng bình thường, và có thể xẩy tới,
cho bất
kỳ một con người bình thường nào trên đời.
Độc
giả người Việt chúng ta có thể mượn truyện ngắn
Sợi Tóc của Thạch Lam, để làm một nhịp cầu đi vào thế giới văn chương
của Simenon.
Đây là câu chuyện một anh chàng nghèo ơi là nghèo, được bạn bè đãi một
chầu,
khi ra về, vô tình mặc lộn áo khoác, trong có bóp tiền dầy cộm.
Khoảnh
khắc
‘sợi tóc’ bắt đầu: nên hay là không nên ‘cứ thế tà tà ra về, chơi luôn
cái bóp’?
Những nhân vật của Simenon đa số đều là những con người bình thường,
một ngày
đẹp trời nào đó, bỗng đụng chuyện bất thường; thí dụ như trong “Người
nhìn xe
lửa chạy qua” (L’homme qui regardait passer le train, 1938), một nhân
viên suốt
đời làm lụng cực khổ, với hy vọng về hưu có tí tiền còm, đùng một cái,
tay chủ
tuyên bố vỡ nợ, quơ hết tiền bạc, trốn lên Paris với bồ. Đúng lúc trốn
đi, chủ
tớ đụng độ, anh đầy tớ quá thất vọng vì giấc mộng an hưởng tuổi già tan
tành,
đã quá tay đẩy ông chủ xuống sông, chỉ kịp cứu được (chỉ kịp níu lại
được)
chiếc cạc táp. Trong là tiền. Vô số là tiền. Thêm địa chỉ cô bồ.
Anh
lần tới, lạc vào một thế giới khác. Thiên Thai,
hay Thiên Đàng là như thế này ư? Được cung phụng hết mình, đêm nào cũng
Nhất Dạ
Đế Vương, nhưng làm sao quên được trần gian cực khổ?
Trần
gian khổ cực, có điều gì không thể quên?
Hóa ra là, anh có thói quen không thể bỏ: cứ 5 giờ sáng thức giấc, mò
ra đầu
ngõ, nhìn đoàn xe lửa phóng qua.
Câu
chuyện chấm dứt khi cảnh sát mò tới, anh
nhân viên bỏ Thiên Đường/Địa Ngục, cứ hướng Địa Ngục/Thiên Đường mà
chạy. Cảnh
sát chỉ kịp chứng kiến cảnh tượng anh gối đầu lên đường ray, trong khi
chuyến
xe tốc hành buổi sáng đang lao tới…
George
Steiner, trong một bài phỏng vấn trên tờ Điểm
sách Paris,
đã
coi Simenon là tiểu thuyết gia dị thường nhất của thời đại chúng ta.
Ông phân
biệt: “Có những cuốn tiểu thuyết mà người ta gọi là lớn, chúng sống do
nội dung
mang tính ý thức hệ, mang tính trí thức. Khá nhiều tiểu thuyết của
Thomas Mann
là theo kiểu này. Cuốn Người Không Phẩm Chất (Man Without Qualities),
của
Musil, được hằng hà những triết gia cũng như là những nhà phê bình văn
học bàn
về nó. Nhưng cái này hiếm. Đừng đòi một chuyện như thế, ở nhà tạo giả
tưởng dị
thường nhất của thời đại chúng ta - đừng cười tôi chứ, bạn! - người đó
là
Georges Simenon. Tôi có thể lấy trên giá sách của tôi, chừng 10 hay 12
cuốn về
Maigret, và nếu phải so với 5 hay 10 trang của Balzac, hay 20 trang của
Dickens
(ông này nhẩn nha thuộc bậc thầy, Balzac cũng vậy): Simenon chỉ cần hai
hoặc ba
đoạn. Có một cuốn Maigret mở ra với một tiếng ồn lớn. Ba giờ sáng tại
khu Pigalle,
khu phố cổ đèn đỏ Paris,
tay chủ quán rượu kéo tấm sắt đóng cửa tiệm. Rầm một tiếng. Dội ra từ
đó, là
tiếng xe giao sữa, tiếng chân kẻ ăn sương trở về nhà kiếm giấc ngủ,
tiếng người
đi vô Khu Cầu Muối (Les Halles) kiếm đồ ăn sẵn, cho một ngày đang ló
dạng. Simenon
không chỉ đem đến cho bạn một thành phố, không chỉ một điều không một
sử gia
nào có thể vượt được, về nước Pháp, nhưng còn điều này: rằng hai hoặc
ba con
người liên quan tới câu chuyện, đã sẵn sàng trước mắt bạn. Bằng một
cách nào
đó, Simenon cho bạn nhận ra rằng những bước chân của người đàn ông vừa
đóng sập
tấm cửa, rồi những tiếng chân rời xa quán, cách chúng lết đi gợi sự tò
mò. Và
thế là bạn nhập vô mấu chốt quan trọng thứ nhất của câu chuyện. Đó là
cái gọi
là mysterium tremendum (điều rất thiêng), về sáng tạo ra một nhân vật
tự chủ.”
Mysterium
tremendum, Jacques Derrida trong bài viết
về Kierkegaard, đã dịch là: bí ẩn đáng sợ, bí mật làm bạn run rẩy (a
frightful
mystery, a secret to make you tremble). Cũng trong bài viết, ông giải
thích
thêm: (God is the cause of) Thượng Đế là nguyên nhân của “the mysterium
tremendum”.
Theo
nghĩa đó, nhà văn là kẻ muốn ngang hàng với
ông Trời.
Nhân
vật “thần kỳ” Maigret, viên thanh tra cảnh sát
với chiếc ống vố, được “người viết giả tưởng dị thường nhất của thế kỷ”
sáng tạo
ra vào năm 1929, trong cuốn “Pietr le Letton”. Được nhà xuất bản Fayard
tung ra
vào năm 1931, ông cò Maigret lập tức trở thành nổi tiếng, và càng nổi
tiếng hơn
nữa, khi được đưa lên màn ảnh qua tài tử Jean Gabin.
Như
trên đã nói, Simenon sử dụng một thứ tiếng
Pháp phổ thông, không dùng những chữ cầu kỳ, không “cố tình viết văn”,
nhờ vậy
mà mà Jennifer tôi được hân hạnh làm quen với ông rất sớm, từ những
ngày mới
chập chững đọc văn ngoại: như một cách học tiếng Tây!
Mai
Thảo cũng là một người rất mê Simenon. Một
lần ngồi quán Cái Chùa, La Pagode, tại đường Tự Do, Sài Gòn (trước
1975), ông
kể một giai thoại về Simenon, theo đó, tác giả đã từng tự giam mình vào
trong
một nhà kiếng, chung quanh thiên hạ qua lại, nhòm ngó, và cứ thế tỉnh
bơ ngồi
viết. Khi ra khỏi “chuồng giam”, là đã có, không phải một, mà hai cuốn
tiểu
thuyết! Theo Mai Thảo, đây là do ông nhận lời thách đố của một tờ báo.
Cuốn
Maigret sau cùng, Maigret et Monsieur Charles,
xuất hiện năm 1972, sau đó Simenon nghỉ viết. Với chiếc máy ghi âm, ông
đọc hai
chục bài “Dictées”, và sau khi cô con gái Mari-Jo tự tử, ông ghi lại mớ
hồi ký
khổng lồ về đời mình, Mémoires intimes (1981).
Simenon
mất tại Lausanne
vào năm 1989. Cả đời, ông cố gắng hiểu,
thông cảm nỗi đau của nhân sinh, của cõi người, và cố gắng làm cho nó
đỡ đau.
Nhưng ông không làm sao hiểu nổi nỗi đau của cô con gái: cô đã lầm tình
yêu của
người cha, với tình yêu của một người bạn trai.
Niềm
bí ẩn đáng sợ!
Gấu
nhà văn
|