|
Trong
khi chờ Gogol
Was Hitler a bookworm?
He owned some 16,000 books,
but did Hitler bother to read any of them?
Ritchie Robertson
Hitler, con mọt sách?
Thua NTV [18.200 cuốn, chỉ riêng con số tặng thư viện nhà nước!]
*
Author claims political pressure behind
cancellation of Stalin book
Historian Orlando
Figes: claims publisher of
book about life in Russia
under Stalin has bowed to 'political pressure'
Russian
revelations
Sách viết về Nga dưới thời Stalin, bản dịch qua tiếng Nga bị nhà xb huỷ
giao kèo
*
Stalin no better than Hitler?
Well, at least Stalin wasn't as bad as Hitler." How many times have we
all heard that said – or said it ourselves? For a variety of
complicated reasons I still half-believe it. "At least he didn't
butcher the Jews." Hey, no, Joe butchered or enslaved everyone, Jews
included. Read The Whisperers, now that Russians can't.
Remember, it's nationalism, not nationalization, that we have to worry
about in the economic crisis.
*
Một thứ
ăn mày ăn xin, quần
áo rách rưới, trải qua thời giờ bằng cách
xây dựng màng lưới cớm chìm, và, đọc sách.
Hình chính thức của Nhà nước
Bóng Ma Stalin
Le «NY Times» n'aime pas
Littell
Les Bienveillantes
Trò chuyện với
dòng sông
Thanh Thảo viết về
Tế Hanh
*
Những
ngày nghỉ học
Tế Hanh
(Tặng
Nguyễn Văn Bổng)
Những
ngày nghỉ học tôi hay
tới
Đón
chuyến tầu đi đến những
ga…
Tôi
đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng
buồn đau xót nỗi chia
xa.
Tôi
thấy lòng thương những
chiếc tàu (1)
Ngàn
đời không đủ sức đi mau
Có chi
vương víu trong hơi
máy,
Mấy
chiếc toa đầy nặng khổ
đau.
Bánh
nghiến lăn lăn quá nặng
nề!
Khói
phì như nghẹn nỗi đau
tê;
Lâu lâu
còi rúc nghe rền rĩ;
Lòng
của người đi réo kẻ về.
Kẻ về
không nói bước vương
vương
Thương
nhớ lan xa mấy dặm
trường.
Lẽo đẽo
tôi về theo bước họ
Tâm hồn
ngơ ngẩn nhớ muôn
phương.
Nguồn
net
(1) Tôi thấy tôi thương... ?
Tôi
đứng bơ vơ xem tiễn biệt.
Tuyệt
cú. Thần cú!
Ui
chao, Gấu lại nhớ đến cảnh
Gấu đứng bơ vơ, xem Gấu tiễn biệt: Tiễn biệt cô bạn đi lấy chồng!
Cái gì
gì:
"Em đi
áo mỏng mềm lưng phố,
Có động
lòng thương kẻ cuối
đường”!
Ui
chao, lại nhớ lần tỏ tình
với một nữ thi sĩ, "cũng mới đây thôi", anh nhớ em đến vãi lệ.
Em
mắng, già rồi vãi lệ hoài,
con nít nó cười cho!
*
Cô bạn
của Gấu, là tác giả
câu thơ thần sầu:
Hồn
Đông phương thất lạc,
buồn Tây phương. (1)
Ui
chao, chỉ cần một câu thơ,
đủ là thi sĩ, đủ chứng minh câu của Borges:
Thơ, là
để trao cho thi sĩ.
Cái đám
thi sĩ dởm, hay cả
một trường phái thơ dởm Tân Hình Thức, liệu có nổi, chỉ một câu thơ?
(1) Ai cho phép mi là thi sĩ ?
*
Lại nói
chuyện thơ được trao
cho thi sĩ, thi sĩ dởm chớ làm thơ!
Lần Gấu
qua Cali,
mới đây, gặp một thi sĩ, cũng đã từng
văn kỳ thanh, lần này nhất kiến kỳ hình. Ông nói, tôi thích mấy bài ông
viết về
thơ, có in từ net ra, treo ở bàn làm việc, lâu lâu bí thơ, đọc đỡ nhớ.
Ui
chao, Gấu cả đời không dám
liều mạng làm thơ, bèn lèm bèm viết về thơ, theo kiểu ăn đồ chay thay
đồ mặn,
vậy mà được bạn thơ khen, sướng nào bằng!
Quê hương
tưởng tượng
Văn chương không
phải là thứ công chuyện sao chép một số đề tài nào đó, cho một vài nhóm
nào đó.
Về phẩn rủi ro: những rủi ro thực sự mà bất cứ một nghệ sĩ gặp phải
trong tác
phẩm mình, là khi người đó đẩy tác phẩm của mình tới những giới hạn của
sự khả
thể, trong toan tính có được tối đa, điều gợi suy nghĩ. Những cuốn sách
trở nên
tốt, khi chúng cheo leo ở mỏm, đỉnh, mép, bờ, và chỉ cần xém một tí, là
tiêu
táng thòng, và kẻ đẻ ra nó, tẩu hoả nhập ma, do cái điều anh ta dám,
hay không
dám, trên bình diện ‘nghệ thuật’.
Bởi vậy, nếu tôi
phải nói thay cho những nhà văn Ấn độ, tại Anh, thí dụ, tôi sẽ nói điều
này, lấy
ra từ H. Harter, của G.V. Desani: Những
cuộc di dân thập niên 1950 và 1960 đã xẩy ra. ‘Chúng tôi hiện hữu.
Chúng tôi hiện
hữu, tại đây’. Và chúng tôi không muốn bị tống ra khỏi bất cứ một phần
nào gia tài của chúng tôi; thứ gia tài bao gồm cả hai thứ quyền lợi,
thứ nhất, quyền
lợi của một đứa bé Ấn độ sinh ra tại Bradfort, được đối xử như là một
thành viên
đầy đủ, hoàn toàn, của xã hội Anh, và quyền lợi, như của bất cứ một
thành viên
nào trong cộng đồng hậu lưu vong, post-diaspora community, khư khư ôm
chặt
lấy những cội nguồn nghệ thuật của nó, y hệt như mọi cộng đồng trên
toàn thế giới,
của những nhà văn mất mẹ nó quê hương, những nhà văn dời đổi, bán xới.
(Tôi đang nghĩ tới, thí dụ, về một Danzig-trở thành-Gdansk của Grass,
về một Dublin bỏ chạy của Joyce, Isaac Bashevis Singer, Maxime Hong
Kingston, và
Milan Kundera và nhiều người khác nữa. Một danh sách dài).
Cho phép tôi lập tức
vượt quá
cái giọng nỉ non, chống đỡ, bảo vệ, bào chữa… mà đọc mấy nhận xét mới
rồi có thể
độc giả nhận ra. Những nhà văn Ấn độ, khi phải ngoái nhìn lại xứ sở Ấn
độ, đều
cảm thấy hình như mình có tội. (Lẽ dĩ nhiên, ở đây là, suy bụng ta ra
bụng người,
tôi nói theo cái bụng của riêng tôi). Tôi đang nói về những nhà văn
trong số chúng
tôi phải di cư, phải dời đổi… và tôi nghi rằng, đôi khi, tất cả lũ
chúng tôi cảm
thấy, hình như có gì lầm lạc khi dời đổi như thế, khi chúng tôi cảm
nhận có vẻ
như chúng tôi là những thứ đàn ông đàn bà đã trải qua kinh
nghiệm té
ngã, thất bại. Chúng tôi là những tên Ấn giáo đã vượt qua vùng nước
đen; chúng
tôi là những tên Hồi giáo đã ăn thịt heo, thịt lợn. Và như là một hậu
quả - như
tôi vừa sử dụng hình ảnh về sự Sa Ngã của tín hữu Ky Tô – chúng tôi cảm
thấy có
tí cứt Tây phương ở trong cả đống cứt Đông phương mà chúng tôi ị ra! [Hồn Đông
phương thất lạc buồn Tây phương, là cũng ý này!] Cái căn cước
của chúng tôi liền lập tức vừa có tính số nhiều, vừa có tính số ít, số
lẻ.
Kỷ
niệm đẹp trong đời viết văn
Khi tới được trại tị
nạn Thái
Lan, vào năm 1989, nhìn tờ báo của nhóm kháng chiến thấy tên nữ văn sĩ
TD trên
măng sét, Gấu vội vàng viết ngay lá thư cầu cứu. Khi đó, bà đang được
một cái
học bổng nghiên cứu về Trung Hoa lục địa, và trong thư trả lời, bà cho
biết cái
thư của Gấu đã phải đi hơn một nửa vòng trái đất mới tới bà. Bà than
giùm Gấu,
sao đi muộn thế? Hết mùa vượt biển từ đời nảo đời nào rồi.
May mà bà không rủa, sao
không ở lại với VC luôn cho được việc?
Nhưng rủa thì rủa, bà cũng
viết thư cho ông chủ PEN Mít hải ngoại, và sau đó, Gấu nhận được cái
thư của
ông Trùm PEN Mít hải ngoại, thư gửi cho bà TD, đại ý, bà yêu cầu tôi
can thiệp
cho một nhà văn nào đó [chữ này của ông Trùm PEN, Gấu còn nhớ rõ],
nhưng lại
không cho biết địa chỉ, làm sao tôi can thiệp. Thế là Gấu theo địa chỉ,
gửi thư
cho ông Trùm. Ông trả lời sau đó ít lâu, kèm cuốn sách của ông, viết
bằng tiếng
Anh, và kèm lá thư can thiệp của ông, với Cao Uỷ và nhà nước Thái Lan.
Chẳng ai gửi cho một đồng
nào.
Giá có tí tiền còm kèm tin
vui thì thật là tuyệt, Gấu nghĩ thầm!
Người gửi tiền đầu tiên cho
Gấu, là Nguyễn Đông Ngạc. Gấu đoán là, nhờ NDN mà ông Trùm đã sốt sắng
giúp
Gấu. NDN gọi phôn đi tứ lung tung, nào DN, nào VL, nào…. Tất cả những
bè bạn
được gọi đó bèn phôn tiếp cho ông Trùm PEN, nhờ can thiệp cho Gấu.
Cái sự Gấu có được địa chỉ
của NDN thì thật là tuyệt vời. Nếu không, chắc thua nặng.
"Je
serai ta
femme". LH [sinh nhật Gấu 16.8.1967]
... sự
sống sót của chàng là
một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã
chẳng
tới được nhà thương đêm đó. Thời
gian
Hình
Gấu, chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan
Đình Phùng Sài Gòn. Bàn
giấy ông trưởng đài, có
cái bảng tên của ông: TBT.
*
Cuộc
Tình Bỏ Đi kết thúc không đến nỗi bi thảm
như Một Chủ
Nhật Khác.
Cô
Thùy, tức Nicole của
Scott, sau tái giá.
Nàng
nói với ông chồng sau:
-Tôi
yêu Kiệt và chẳng bao
giờ quên anh ấy.
Ông
chồng sau trả lời:
-Lẽ dĩ
nhiên là như vậy. Làm
sao em quên anh ấy? Mà tại làm sao mà em phải quên anh ấy?
Đà lạt
*
Không
ai kèn cựa với người đã
chết.
Mà em
muốn nhắc để cám ơn
anh.
Đã rèn
luyện em trong cay
đắng của đời.
Và đã
thương yêu em như một
Bà Trời.
Văn
Tế
"C'est
l'âge où tout le
monde avait vingt-six ans," ["Đó là thời mà đứa nào cũng 26
tuổi"], Gertrude Stein diễn tả những năm tháng tuyệt vời băng đảng Mẽo
của
bà, những Fitzgerald, Hemingway, Pound... ở Paris.
Gấu
cũng thể nói như vậy, về
thưở mới lớn của mình, thập niên 1960, và của băng đảng 'tiểu thuyết
mới' ở Sài
Gòn.
Thời
của Stein là 'thế hệ bỏ
đi', bị cuộc chiến chê, còn của Gấu, sắp bị cuộc chiến làm thịt.
Thế hệ
bỏ đi, cuộc tình bỏ
đi.
Thế hệ
bỏ đi, như Hemingway
kể lại, trong Paris
là một ngày hội, gốc gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein
thường sửa
xe. Một lần, "em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm
trong vụ phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay
này mắng thằng nhóc.
Stein
sử dụng đúng từ này để
đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là một thế hệ vứt đi,
vì đã
được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi
mày cứt quá, nên cuộc
chiến đếch thèm giết.
-Tụi
mày tuy sống sót cuộc
chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị thương tổn, không còn hoạt động
được
nữa.
Ui
chao, xém một tí, là súng
của Gấu cũng bay vào hư vô, trong vụ ăn hai trái mìn claymore ở bờ sông
Sài
Gòn!
*
Hình
như là Fitzgerald, nói
về mình và về Hemingway: Ông nổi tiếng vì thành công, còn tôi, vì thất
bại.
Hề
Charlot cũng đã từng nói
tương tự, về ông và Einstein: Ông nổi tiếng vì chẳng ai hiểu ông, còn
tôi, ai
cũng hiểu.
*
Happy
Birthday. Chúc đại ca
viết càng ngày càng bảnh. NLV
Tks.
Tiện đây, xin thông báo:
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, đều
chỉ để
sử dụng với tính cách cá nhân, [for personal use] và đều "free", xài
vô tư, thoải mái.
Vì Gấu
cũng trên bẩy bó rồi,
nếu tính tuổi ta, thành thử cứ coi đây như là, "cho chắc ăn", sau
những cú báo động hoảng như vừa rồi. NQT
Gấu
dùng chữ
"những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi.
Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra
đi. Một
ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali,
thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn đi một đường ai
tín, khiến
Gấu Cái càng thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay
sau khi
Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi
nhà
thương cấp cứu!
Anh bạn
hoảng quá, và cũng ân
hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh khác nữa,
rất
rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này
gật gù, chắc đúng như
thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính
em LH cũng xác nhận
chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả lời, tại
vì anh thương em nhiều quá, thành thử... tội nghiệp!]
Để tăng
thêm trọng lượng cho
lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm
thư cho
BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu dặn, vô, trao thư xong
xuôi,
rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta
vô, trao thư xong, gặp
ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên
ngoài, khủng
khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta,
lúc nhớ ra, thì đã
ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể
lại, tao ra ngoài
đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê
lương
không thể nào tưởng tượng được.
Nghe
anh kể, Gấu nhớ ra liền.
Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn
đi
xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...
chiều.
Bữa đó,
không chỉ mình Gấu
lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó không thèm cất
đi, mà
lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà, từ Phan Đình
Phùng
lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ
ông via
của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày coi tao như
thằng hầu.
Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao
không trao cái bực đó cho
tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao
thèm được như mày! Anh
kết luận.
Thèm
cái cảnh, râu tóc rựng
ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng
chưa!
Gấu
nhà văn
Vị trí cực điểm của Kafka
trong văn chương, cùng với cuộc đời ngắn ngủi đầy những quằn quại, làm
nổi bật
thế giá và tính trung tâm những thành tựu của ông. Không thể có một
tiếng nói
chứng nhân nào thật hơn, về sự tối đen của thời đại chúng ta. Kafka
nhận xét,
vào năm 1914: "Tôi nhận thấy mẫu tự (letter) K tởm lợm, hầu như phát
mửa;
tuy nhiên tôi viết nó ra, nó phải có một đặc trưng của tôi." Trong bảng
mẫu tự cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc
về, chỉ
một người.
Steiner: K.
Đỉnh
cao chói lọi
Đại úy [VC] Phạm
Xuân Thệ tay vẫn lăm lăm súng ngắn, áp giải Dương Văn Minh, Vũ
Văn Mẫu ra xe đi
đến đài phát thanh.
DVM
chắc không bao giờ nghĩ VC
đối xử với ông như thế này?
Ảnh
chụp trong phòng thu âm,
đài phát thanh Sài Gòn 30-4-1975, chuẩn bị phát băng tuyên bố đầu hàng
của
Dương Văn Minh. Tác giả bức ảnh này là nhà báo Kỳ Nhân - một nhà báo
đối lập
trước năm 1975, lúc đó đang cộng tác cho Hãng tin AP (Mỹ). Người đứng
ngoài
cùng bên phải là Đại úy [VC] Phạm Xuân Thệ. Nguồn: Tuổi trẻ
Cái ảnh
mà Tín đưa ra để cho
rằng mình là người tiếp nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh là cái ảnh
này.
*
Ngay câu nói nổi
tiếng:
"Các anh không còn gì để bàn giao, phải đầu hàng" là chủ trương chung
trong chiến dịch Hồ Chí Minh, không phải câu nói của riêng ai.
…Giây phút mà Dương
Văn Minh
sau đó còn phải nói với Chính ủy Bùi Văn Tùng là Minh sợ bị bắn khi ra
đài phát
thanh.
*
V/v Câu nói nổi tiếng của BT.
Coi là chủ trương chung của chiến dịch
HCM chưa chính xác bằng coi đây là dã tâm ăn cướp của Miền Bắc.
DVM khi
nói bàn giao, "có thể" ông nghĩ, Mẽo cút rồi, tao đại diện Mìền Nam,
bàn
giao Miền
Nam cho nước Việt Nam, đếch còn Miền Bắc VC, Miền Nam VNCH nữa. Cái
chính thể sau đó, là do cả nước quyết định. Cuộc chiến Quốc Cộng đã
chấm dứt cùng với tao rồi.
"Từ khi" có Đàng Trong, là "từ khi" có dã tâm ăn cướp Đàng Trong của
Đàng
Ngoài.
Đỉnh cao của nó là cuộc chiến Trịnh Nguyễn. Và sau đó, cuộc chiến Bắc
VC và Nam VNCH, mà đỉnh cao của nó là chiến dịch HCM.
V/v DVM sợ bị bắn.
DVM có thể nghĩ tới vụ ông đã từng sai đệ tử làm thịt Diệm, trong xe
tăng, trên đường từ nhà thờ Cha Tâm Chợ Lớn ra Sài Gòn ?
Nhưng đây chỉ là nghi án lịch
sử, cũng như DVM đã từng bị nghi là sai
người bắn sau lưng TMT trong chiến dịch Rừng Sát.
*
Cái sự bành trướng về
phía Nam
là số phần
của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai
hiểm
họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông
Hồng nhỏ
quá, người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng
co lại vì
bờ nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê Sông Hồng
chặn hết
mọi phù sa mầu mỡ, ngày càng đục ngầu, kể từ khi có Đàng
Trong, là
toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra
giải phóng
Miền Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc
Kít.
Nhưng không ai có thể
ngờ
được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái Độc, Cái Ác của một miền
đất.
Chỉ đến khi lấy được
Miền Nam
thì Cái Ác
mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không
có bàn
giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Thảm thế!
Dọn
NVT vs Gấu Nhà Văn
Những tác phẩm của
Sartre lão hoá một cách khủng khiếp. Llosa viết về Sartre.
Chúng ta cũng có thể nói như vậy, về những tác phẩm của NVT, một thứ
phó sản,
từ Sartre mà ra.
*
They have aged terribly; today we can see that there was little
originality in
these works. Incommunication, the absurd, had been expressed in Kafka
in a more
tremulous and disturbing way; the technique of fragmentation came from
John Dos
Passos, and Malraux had written about political topics with a vitality
that one
never feels, even in the best story of that sort that Sartre wrote:
'The
Childhood of a leader".
Mario Vargas Llosa: The Mandarin
Chúng có tuổi một cách khủng khiếp; ngày này, chúng ta có thể nhìn
thấy, chẳng
có mấy tí uyên nguyên, đồ zin, đồ xịn nào ở trong những tác phẩm đó. Sự
không
thể cảm thông, sự phi lý, đã được Kafka diễn tả bảnh hơn nhiều, nhức
nhối hơn
nhiểu, kỹ thuật viết từng mảnh vụn, thuổng Dos Passos, và Malraux viết
về những
đề tài chính trị sống động, như thể trước ông chưa từng có người nào
viết được
như thế, thứ số một của Sartre, thí dụ như truyện ngắn Thời thơ ấu
của tay
trùm, cũng chỉ đáng xách dép.
Những tác phẩm như thế đem đến cho tuổi mới lớn Mỹ Châu La Tinh cái gì?
Chúng kéo nó ra khỏi mùi vị tỉnh lẻ, cái vẻ mục nát, gỉ sét, khiến nó
bất bình
với cái mầu mè địa phương...
Gấu nghĩ, NVT, như là một thứ phó sản của Sartre, đã đem đến cho tuổi
trẻ Miền Nam
cùng một
thứ như vậy.
Gấu đọc ông, khi đã đi làm, vì Gấu ra trường sớm, và nhận ngay ra,
những tác
phẩm của ông, nhất là những bài viết Nhận Định, đều từ Sartre mà ra.
Ông giản
dị hóa Sartre, theo cái kiểu phóng tác Sartre ra tiếng Việt, để cho đám
học
sinh, sinh viên không biết tiếng Pháp đọc. Và ông thật sự nổi tiếng
trong đám
họ.Với một người có thể đọc thẳng nguyên tác, họ sẽ không đọc ông. Gấu
không
đọc những bài viết có tính chính trị, hay tôn giáo của NVT nên miễn bàn
về
khoản này. Riêng về mặt văn chương, phê bình văn học, và luôn cả triết
học hiện
sinh, NVT chỉ lập lại Sartre. Một cách đơn giản hơn, dễ hiểu hơn, gạt
bỏ tất cả
những gì khó hiểu ở Sartre.
Thành thử, bây giờ, sau bao nhiêu năm, sau một cuộc chiến tàn khốc như
thế, mà
vẫn nhắc tới những vinh quang dởm hão như vậy, thì thật khó hiểu. Ngay
cả những
chuyện đụng độ giữa NVT và PCT, cũng chẳng nên nhắc lại. VC đã làm được
một
việc tốt, là chặn đứng những chuyện đó, bằng cú phần thư, bằng cách đưa
đi cải
tạo, đi tù... tại sao khi có dịp ra hải ngoại, lại lôi ra? Uổng cả công
lao
cách mạng!
*
Tôi đọc ông [Sartre] lần đầu, vào mùa hè năm 1952, khi làm phụ biên
tập, a copy
editor, cho một tờ nhật báo, Đó là thời gian độc nhất, tôi đóng vai nhà
văn nhà
báo, theo cái kiểu mà nhiều người vẫn còn nghĩ về họ: một cuộc đời lãng
du. Khi
công việc tòa báo xong xuôi, thường là muộn, trời đã khuya, tay ký giả
là tôi
bèn chạy vội đến những quán, những ba, ánh đèn mờ, hay những ổ nhện,
những xóm
đêm, và, với một đứa trẻ 15 tuổi, thì đúng là một cuộc phiêu lưu lớn.
Và tôi đã gặp cuộc phiêu lưu thực sự, vào một buổi sáng, khi anh bạn,
Carlos
Ney Barrionuevo, giúi vào tay tôi cuốn Bức Tường. Những truyện
ngắn ở trong
đó, cùng với Buồn Nôn, và những vở kịch - Những con ruồi,
Huis Clos,
Một bướm đáng kính trọng, Những bàn tay bẩn - những tập đầu của bộ
Những
Con đường của sự tự do, và những tiểu luận của Satre đã làm cho rất
nhiều
người trong đám chúng tôi khám phá ra văn chương hiện đại của đầu thập
niên
1950.
Chúng già đi, lão hoá, một cách thật là khủng khiếp. Ngày nay,
chúng ta
tìm thấy, chỉ một tí ti, cái gọi là hàng nguyên, hàng xịn, the
originality, ở
trong những tác phẩm đó. Sự không thể bắt nối, incommunication, sự phi
lý, the
absurd, được diễn tả bởi Kafka, bằng một đường hướng dữ dằn hơn, nhức
nhối hơn,
kỹ thuật viết từng mảng, the technique of fragmentation, thuổng của
John Dos
Passos, và Malraux viết những đề tài chính trị sống động như chưa bao
giờ sống
động đến như thế. Ngay cả thứ bảnh nhất của Sartre, là Tuổi thơ của
một ông
Sếp, cũng không bén gót.
Llosa: The Mandarin
*
Như vậy, Llosa biết Sartre qua truyện ngắn Bức
Tường. Gấu nhớ là,
tay giáo sư triết gia khoa bảng, ĐPQ, bạn của giáo sư khoa bảng ĐTĐ, có
một
truyện ngắn mang hơi hướng Bức Tường. (1)
Câu chuyện một tay làm cách mạng, bây giờ, có thể gọi, một tay khủng
bố, bị
bắt, bị tra tấn tới chỉ, bắt phun ra đồng bọn. Anh lắc đầu, tới một
bữa, bực
quá, phụt đại một địa chỉ.
Đúng cái địa chỉ cả đám đang ẩn náu!
Gấu
nhà văn
(1)
Truyện ngắn này, đã từng đăng trên báo Văn Học, và một văn hữu của báo,
Gấu
không tiện nêu tên, báo động NMG, "không đăng được", vì quá giống
truyện Bức Tường của Sartre. Gấu mới đây hỏi lại, ông bạn nhà
văn còn
quả quyết, đúng như trên. NQT
NOTES
GERMANY & ON THE WAR
A Pedagogy of Hatred
Displays
of hatred are even
more obscene and denigrating than exhibitionism. I defy pornographers
to show
me a picture more vile than any of the twenty-two illustrations that
comprise
the children's book Trau keinem Fuchs auf gruener Heid und keinem Jud
bei
seinem Bid [Don't Trust Any Fox from a Heath or Any Jew on his Oath]
whose
fourth edition now infests Bavaria. It was first published a year ago,
in 1936,
and has already sold 51,000 copies. Its goal is to instill in the
children of
the Third Reich a distrust and animosity toward Jews. Verse (we know
the
mnemonic virtues of rhyme) and color engravings (we know how effective
images
are) collaborate in this veritable textbook of hatred.
Take any page: for example,
page 5. Here I find, not without justifiable bewilderment, this
didactic
poem-"The German is a proud man who knows how to work and struggle.
Jews detest
him because he is so handsome and enterprising" -followed by an equally
informative and explicit quatrain: "Here's the Jew, recognizable to
all,
the biggest scoundrel in the whole kingdom. He thinks he's wonderful,
and he's
horrible." The engravings are more astute: the German is a
Scandinavian,
eighteen-year-old athlete, plainly portrayed as a worker; the Jew is a
dark
Turk, obese and middle-aged. Another sophistic feature is that the
German is
clean-shaven and the Jew, while bald, is very hairy. (It is well known
that
German Jews are Ashkenazim, copper-haired Slavs. In this book they are
presented as dark half-breeds so that they'll appear to be the exact
opposite
of the blond beasts. Their attributes also include the permanent use of
a fez,
a rolled cigar, and ruby rings.)
Another engraving shows a
lecherous dwarf trying to seduce a young German lady with a necklace.
In
another, the father reprimands his daughter for
accepting the gifts and
promises of Solly Rosenfeld, who certainly will not make her his wife.
Another
depicts the foul body odor and shoddy negligence of Jewish butchers.
(How could
this be, with all the precautions they take to make meat kosher?)
Another, the
disadvantages of being swindled by a lawyer, who solicits from his
clients a
constant flow of flour, fresh eggs, and veal cutlets. After a year of
this, the
clients have lost their case but the Jewish lawyer "weighs two hundred
and
forty pounds." Yet another depicts the opportune expulsion of Jewish
professors as a relief for the children: "We want a German
teacher;' shout the enthusiastic pupils, "a joyful teacher who knows
how
to play with us and maintain order and discipline. We want a German
teacher who
will teach us common sense." It is difficult not to share such
aspirations.
What can one say about such a
book? Personally I am outraged, less for Israel's
sake than for Germany's,
less for the offended community than for the offensive nation. I don't know if
the world can do without German civilization, but I do know that its
corruption
by the teachings of hatred is a crime.
[1937]
Jorge
Luis Borges: Selected
Non-Fictions, Penguin Books
Người dịch: Suzanne Jill
Levine
*
Note: Tình cờ vớ được bài trên, Sư
Phạm của Hận Thù, đọc, Gấu bỗng nhớ
đến bài viết Còn Lại Gì? của PTH, thí dụ, những
đoạn dậy toán bằng đếm xác Mỹ Ngụy...
I don't know if
the world can do without German civilization, but I do know that its
corruption
by the teachings of hatred is a crime.
Cái việc dậy
con nít hận thù là một tội ác. Cái sự thắng trận và băng hoại sau đó,
chính là cái tội ác vì dậy con nít thù hận.
-
Người ghi chú cô đơn:
The
Solitary Notetaker.
Sebald by David
Levine, NYRB,
số đề ngày 11 Tháng Tám, 2005
Charles
Simic, trên NYRB điểm hai cuốn mới nhất của ông, Campo
Santo, một thứ tiểu
luận, và
Unrecounted, gồm 33
bài thơ nho nhỏ, của ông, và 33 bức họa, của Jan Peter Tripp.
Họa:
Mỗi bức là một đôi mắt, với sự chính xác, của hình chụp: Proust,
Rembrandt, Beckett, Borges... Chủ đề của họa: Miệng thì tốt, để nói
dối, trong khi mắt, khó nói dối. Bất cứ mắt đang mơ mộng, hay suy tư,
chúng đều vọng một tí ti sự thực, nào đó. Dưới mỗi đôi mắt, là một bài
thơ mini. Thí dụ, dưới cặp mắt của Maurice, chú chó của Sebald, là:
Please
send me
the
brown overcoat
from
the Rhine valley
in
which at one time
I
used to ramble the night.
[Hãy gửi cho tôi
cái áo choàng mầu nâu
từ thung lũng sông Rhine
mà có lần tôi mặc dạo đêm].
Thơ
của ông thực sự cũng khó mà gọi là thơ. Như nhà phê bình Andrea Kohler
chỉ ra, đó không phải là ngụ ngôn, mà cũng chẳng phải thơ. Chỉ là những
cú xổng chuồng, thoáng chốc, của tư tưởng, của hồi nhớ, những khoảnh
khắc loé sáng, ở mép bờ của cảm nhận.
Và đây là
một bài thơ mini thật thú vị:
Người
ta nói,
Nã
Phá Luân mù mầu [color-blind]
Máu
đối với ông ta,
thì
xanh như lá cây.
Tưởng niệm Sebald
Miệng
thì tốt, để nói dối, trong khi mắt, khó nói dối. Bất cứ mắt đang mơ
mộng, hay suy tư, chúng đều vọng một tí ti sự thực, nào đó. Dưới mỗi
đôi mắt, là một bài thơ mini. Thí dụ:
Khi Gấu quen, cô bé mới mười một tuổi, chưa có núm
cau. Chưa có gì, chỉ có một nỗi buồn Hà Nội, ở trong đôi mắt thăm thẳm.
Như lạnh lùng tra hỏi: anh yêu tôi hay là anh yêu Hà Nội?
Vừa ra ý ỡm ờ: anh yêu tôi, vì tôi độc?
Và đẹp?
Hà Nội Của Gấu
-
The
destruction of someone's native land is as one with that person's
destruction. Séparation becomes déchirure [a rendingl, and there can be
no new homeland. "Home is the land of one's childhood and youth.
Whoever has lost it remains lost himself, even if he has learned not to
stumble about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du
pays’ to which Améry confesses, although he wants no more to do with
that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim, "In
a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini"
("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as
Cioran commented, one of the most persistent symptoms of our yearning
for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du
présent. Même sous la forme du regret, elle prend un caractère
dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester
contre l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of
course in line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry: Chống Bất
Phản Hồi: Against The Irreversible.
[Sự
huỷ diệt quê nhà của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia
lìa là tan hoang, là rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới.
'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai
mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... '
Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ
sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người
ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' -
thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của
chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng
cha công an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết,
'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến
tiếc, nó vẫn có cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật
mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự
bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà của Améry, hiển nhiên,
cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử].
L'homme
a des endroits de son pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la
douleur entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến
khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.
W.G.
Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về
Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the
Heart: On Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis, trong "Lịch sử
tự nhiên về huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb
Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.
-Ai di truoc, nguoi con lai se phai lo trang TV.
How?
-Gau chet la Tin Van chet. Amen.
|