Viết là Khiếp
Tôi trở nên khiếp đảm...
Đêm 23 tháng
Chạp, năm 1985, cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt
biển sắp
sửa chìm gần ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu
thanh
niên đứng kế bên lầm là người yêu của anh. Quá khiếp đảm trước cái chết
có thể
xẩy tới bất cứ lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người
yêu, tức
ông già, lảm nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện
khác,
ông già vẫn nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu
thanh niên,
mặn, nóng hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ
mãi. Con
thuyền chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên
cao, chót
ngọn sóng. Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Bẩy, tám tuổi,
thấy bạn cùng lớp nhào xuống ao, bơi lội ào ào, ông nghĩ, ai cũng làm
được. Và
cứ thế lao xuống. May có người đứng ngay kế bên, nhìn thấy thằng bé sắp
sửa
chìm nghỉm, bèn nhảy vội xuống, kéo lên.
Khi đã hoàn
hồn, đứng ngơ ngác trên bờ, cậu bé như cảm thấy, cậu biết trước tai
nạn. Như thể,
cậu đã trải qua một lần rồi, và lần này, chỉ là lập lại lần trước. Nó
đã từng xẩy
ra, trong một giấc mơ, có thể.
Cậu có cảm
tưởng, anh bạn lớn tuổi đã "chờ", một sự kiện như vậy, sẽ xẩy ra, và
anh ta sẽ can thiệp, đúng lúc.
Rõ rệt nhất
là lần chơi bắn bi một mình. Nhà có một chiếc hòm [cái rương] lớn,
chiếm cả một
góc gian nhà chính, trên là bàn thờ ông bà, trong đựng lúa, đặt trên
hai tấm mễ
gỗ, hay ngựa gỗ, thấp. Người dân miền Bắc, từ xa xưa vẫn bị ám ảnh bởi
những
cơn lũ lụt, và những năm hạn hán, lúc nào cũng lo mất mùa, nên nhà nào
cũng lo
trữ lúa.
Hòn bi lăn
tít vào gầm hòm. Cậu bò vào. Loay hoay cọ quậy, cả hai tấm ngựa gỗ, quá
mục,
cùng sập xuống.
Như sống lại
giấc mơ, cậu xoài người ra. Chiếc hòm đè cậu bẹp dí, may nhờ hai chiếc
mễ chia
giùm sức nặng. Lần đó, ba hồn bẩy vía đi luôn, mấy người lớn bắt ăn mấy
vắt cơm
để thu hồi lại.
Lớn lên, cậu
mất dần khả năng kỳ cục, và mơ hồ cảm nhận - không tính lần suýt bị bẹp
dí - có
một điều gì liên can đến "nước", trong những lần như vậy.
Như thể gia
đình ông bị trù yểm, bởi nước.
*
Ông già của
ông già bị đảng phái thủ tiêu, bằng cách cột đá vào người bỏ xuống sông.
Đứa em trai,
tử trận tại một khúc sông, do một viên đạn từ bên kia bờ bắn xuống nước
dội
lên.
Bản thân ông
đã từng bị thương nặng tại bờ sông Sài-gòn.
Lần đó, đúng
ra là đi luôn, nếu không có kẻ thế mạng: một chuyên viên Phi Luật Tân
mới chân
ướt chân ráo tới Sài-gòn.
*
Nhưng được bỏ
qua, không có nghĩa là được tha thứ. Ông già thấy nhẫn nhục, cam chịu.
Đó là một
chuyến đi được tổ chức rất chu đáo. Và có lúc ông già nghĩ rằng sẽ
thành
công...
*
"Tôi trở nên
khiếp đảm bởi nghệ thuật".
D. M. Dylan
Thomas mở đầu “Hồi tưởng & Hoang tưởng”.
Với ông, khả
năng thấu thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó xẩy ra, ở một cậu bé,
chính là
"phép lạ" của nghệ thuật, (ở chúng ta). Và ông trở nên khiếp đảm, bởi
nó. "Nghệ thuật là những ngã ba ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi
mộng
mị, tình yêu, và cái chết gặp gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm
một điều,
rằng nghệ thuật luôn luôn là suy tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự
sống.
Điều ngược lại
cũng hoàn toàn đúng. Cách đây vài năm, tôi [D.M. THomas] đi thăm Lydia,
người
chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria, ọp ẹp, tối
thui. Chủ
nhà, một người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng, mang đôi giầy cụt
lủn, lủng
lẳng bị chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà phê. Một cái hũ cà
phê, loại
uống liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi không làm
sao liên
hệ bà với Boris, người sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà hỏi
tôi có muốn
đi xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách biết ơn, tôi nói vâng.
Tôi đi
theo đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa căn phòng.
Một luồng mầu
sắc và ánh sáng làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng tranh
tuyệt vời.
Tôi nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những khung,
giá vẽ.
"Tôi
đang sửa soạn một cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng
ma, tôi đi theo, suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid
Pasternak.
Có đến vài phút đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung một
người
đàn bà đẹp, dáng mơ mộng, đang chải tóc.
Tôi yêu liền
ngay nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi
đó mà".
Chẳng thèm để
ý đến nỗi mất mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.
Chẳng có gì
đáng kể, ngoại trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi có cảm giác
những bức họa
đã hút sạch bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà của cô
con gái.
"Tôi
nghĩ chắc là bà đã có bảo hiểm những bức họa?" "Không, nếu bị đánh cắp,
cái gì có thể thay thế?"
Trở lại bếp,
bà cho tôi coi những bức hình gia đình, hầu hết là của Boris và con
cháu của
ông.
Một trong những
đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong những tình huống thật là kỳ bí,
đáng sợ;
bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì đứng
tim, ngay
trên đường phố Moscow, đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không
thể không nghĩ đến một điều, cái chết của nhân vật giả tưởng, Zhivago,
đã
"ứng" vào người cháu trai.
Thiên tài
Pasternak đã biến đứa cháu thành một cái bóng, y hệt như cô con gái
Lydia đã trở
thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Liền đó, ông
kể lại một kinh nghiệm của riêng ông, trong một lần đi trị bịnh. Bà bác
sĩ tâm
thần làm ông nhớ đến mẹ, và một lần không vâng lời bà.
(Ở đây có một
cái gì liên can đến mặc cảm Oedipe).
"Thay
vì đi nhà thờ, cậu đã tới một sex shop".
"Đúng
như vậy". "
Rồi trí tưởng
của tôi đầy rẫy những hình ảnh chết chóc, của mẹ tôi, của bạn bè...
Bữa sau, bà
bác sĩ gọi điện thoại:
"Tôi
không thể gặp anh bữa nay. Tôi phải đi đám ma.
"Oh, I am
sorry, tôi mong không phải là một người thân của bà.
"Thảm
thay, đúng như vậy, ông già của tôi."
Và Thomas kết
luận, đâu có gì là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ
thuật ?
"Không phải cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ
những
trang sách vang lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".
Chỉ là lộng
giả thành chân. Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người thế mạng để đi đầu
thai.
Đó cũng là cảm
giác ghê rợn, khủng khiếp khi ông già gặp lại cô bạn ở xứ lạnh. Như thể
cuộc chiến
lập lại, khi giả tưởng "xuất hiện".
Chuyến đi
"liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người
CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin,
những
tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học
tập, tình cảnh
vợ con ở nhà, và ... MIA.
Ông già quen
anh bạn, những ngày cả hai cùng làm việc cho một hãng tin nước ngoài.
Anh là
nhiếp ảnh viên. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít, có lần,
trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào về mấy quí tướng của mình.
Ng. quả thực
rất khôn ngoan. Nếu có gì đó, làm anh thất vọng về chính mình, có lẽ
là, anh đã
không theo đuổi nghề "phóng viên chiến tranh" cho tới cùng. Anh giải
thích, làm cho hãng tin Mỹ một thời gian, anh chuyển qua một hãng tin
Nhật. Ông
già không gặp anh từ dạo đó. Rồi bỏ nghề, về nhà đuổi gà cho vợ.
"Mày có
nhớ được bao nhiêu thằng tụi mình quen, đã tử mạng ? Ở chiến trường,
cái máy chụp
hình trông xa giống như khẩu súng. Còn chữ Press ở trên ngực, gặp VC
tụi nó
cũng chẳng tha. Sau Mậu Thân, bà vợ tao hoảng quá, không cho tao làm
phó nháy nữa".
Cũng có thể
còn một lý do. Tuy nhỏ con, nhưng anh có một sức hấp dẫn đặc biệt, với
phụ nữ.
Anh vẫn mơ
tưởng, ngoài người vợ anh đã ly dị, có với nhau một đứa con trai; ngoài
bà vợ
sau anh đang chung sống, có được một đứa bé gái - vì mê bả, anh giải
thích, anh
đã không bỏ đi, những ngày tháng Tư năm đó - còn một việc gì, chiến
cuộc dành
riêng cho anh, những kẻ bỏ cuộc hơi sớm. Như thể nó cho anh "hoãn
dịch",
để thực hiện sứ mạng này.
"Tôi để
dành tôi cho tương lai", Phan Văn Hùm, (hay Tạ Thu Thâu ?), đã nói vậy,
khi từ chối làm việc với những người CS. Một người quen của ông già
cũng đã nói
một câu tương tự, khi từ chối lệnh nhập ngũ.
Anh bạn
phóng viên mơ tưởng "làm một việc, để trả ơn nhân dân Mỹ," khi đem đến
cho họ tin tức, về những "con mực", mật ngữ của anh. Anh giấu kín những
"tài liệu vô giá" đó, chỉ thêm vào, một bức thư, bằng tiếng Anh, do
ông già viết. Một thứ "bạch thư", đại khái vậy. Thì cũng nhờ mớ tiếng
Anh còn sót lại, ông già đã được "tổ chức", qua anh bạn phóng viên,
chấp nhận.
Sau này, bữa
theo vị linh mục người Pháp, tới văn phòng ODP, tại Bangkok, nằm trong
building
khổng lồ City Bank, ông thấy lại tất cả những đơn từ, thư viết tay,
hình ảnh,
hôn thú, giấy khai sinh..., tất cả những gì ông gửi từ Việt Nam, những
ngày cực
khổ, việc gửi thư là một xa xỉ... Không thấy bức "bạch thư". Như vậy,
ông già nghĩ thầm, nó thuộc về một hồ sơ khác, nằm ở Bộ Quốc Phòng, như
Steel,
nhân viên tại Toà Lãnh Sự Mỹ, tại Vientiane, nói. "Steel, như cái này
này," anh giơ chân đập vào tủ sắt kế bên. Trong bữa gặp gỡ, anh có nhắc
tới
Alan Dawson, một ký giả Mỹ làm cho UPI. "Ông ta là bạn tôi, hiện đang
làm
việc tại Bangkok. Các anh có thể tới đó gặp ông ta. Nhưng tôi không thể
giúp đỡ
gì, trong việc này. Tôi sẽ chuyển bức thư đi, vậy thôi." Trước khi nói
chuyện anh đã cẩn thận đóng cửa văn phòng, không cho nhân viên người
Lào tại sứ
quán biết, về cuộc gặp mặt giữa những điệp viên CIA, hoặc MIA, "dởm".
Sau khi đọc qua hồ sơ ODP, nhìn hình hai người lớn, và mấy đứa nhỏ, vị
linh mục
người Pháp nói, "Bây giờ ta có thể giúp con được rồi. Ta sẽ đưa con tới
sở
cảnh sát Bangkok. Họ sẽ bỏ tù vợ chồng con mấy tháng. Sau đó, Cao Uỷ sẽ
đưa các
con tới trại tị nạn."
Cũng lại một
chuyến vượt biên, nhưng bằng đường bộ. Ông già vốn không tin con đường
Đức
Thánh Trần chỉ bảo. Gia đình ông, bị thần nước trù yểm, kể từ thời Sơn
Tinh,
Thuỷ Tinh, cũng nên. Quê ông vốn vùng núi Tản, sông Hồng.
Trên ghe, đa
số là người theo đạo. Khi đã tuyệt vọng, họ hy vọng vào Chúa. Tiếng cầu
kinh nổi
lên, lúc đầu còn rời rạc, nhưng dần dần át tiếng mưa bão. Phép lạ, phép
lạ, ông
già loáng thoáng nghe có người suýt soa. Vài phút trước đó, ông đã được
anh thợ
máy, sau khi thất bại không thể làm cho máy chạy, từ dưới hầm tầu bò
lên, nhìn
trời, ngó đồng hồ... Sau đó, anh giải thích, bão ven biển vốn vậy. Tới
gần sáng
là ngưng. Vả lại ghe chưa ra xa bờ. Nếu sửa cho máy nổ, chắc là tiêu
rồi, anh vừa
nhìn vào bờ vừa thẫn thờ nói. Trên bờ loáng thoáng những ruộng muối...
Anh bạn đi
cùng đã thả xuống biển những chứng tích cuối cùng, của chuyến đi...
NQT