Đói là Viết
Người viết đọc lại những gì đã viết,
về một quãng đời trong
có bóng dáng một họa sĩ (xin xem bài Tưởng niệm Ngọc Dũng, mục Tạp Ghi)
vừa ra
đi, và nhận ra một điều: cái đói ám ảnh ngay từ dòng chữ mở đầu…
Hay nói một cách khác: đây là những kỷ
niệm về cái đói.
Nào là cái ruột tượng đựng gạo, nỗi sợ
mỗi lần nhìn thấy…
cháo, cơn đói lả mà cứ tưởng là bịnh…
Nhưng "cái no" cũng có những kỷ niệm
để đời, đối
với một thằng nhỏ Bắc Kỳ!
Ông cụ tôi mất sớm. Bà cụ một nách bốn
con, cứ phải tha đi
nhà này nhà nọ, để ăn chực. Ăn chực chán quê nội, qua tới quê ngoại.
Hai làng
cách nhau cũng chừng gần chục kí lô mét. Lần đó, thằng bé tới nhà bà
trẻ, được
ăn no cành hông, đi không nổi, rồi đau bụng quá, vì quá nặng bụng! Thấy
thằng
nhỏ nhăn nhó, mọi người lại tưởng bịnh, riêng bà trẻ hiểu ngay nguồn
cơn, ra
lệnh: ra sân chạy! Ì ạch một hồi, mới đỡ đau. Lúc đó mới nhớ lại cái
cảnh
"tầu phù" nằm chết như rạ, khi sang tước khí giới quân đội Nhật, tại
một ga xe lửa miền bắc. Do ăn no quá, bể bụng, (‘phù’ ở đây chắc là
biến thể
của ‘phình’).
Tác giả một bài viết trên tờ Gió Đông,
xuất bản ở Đức, (đã
đình bản), sau khi đọc lại một số tiểu phẩm, đã đưa ra một nhận xét:
nhà văn
Việt Nam
hay nói về miếng ăn. Và hình như đây là một nỗi ám ảnh, một "định mệnh
văn
chương".
Nhân đó, ông nói về tác phẩm Marie
Sến, của Phạm Thị Hoài:
cũng vẫn những chiếc phong bì. Cũng vẫn miếng ăn, miếng nhục.
Trần Đăng Khoa, trong cuốn Chân Dung
và Đối Thoại, cũng đã
chê: Nguyễn Tuân tuy mê ‘ăn’, nhưng chưa đưa nó lên thành nghệ thuật.
Ông tự
hỏi, hết chuyện viết rồi hay sao, chẳng lẽ văn chương chỉ là chuyện về
miếng
ăn… tồi tàn?
Theo tôi, cần phải phân biệt giữa cái
đói, ám ảnh của nó,
với miếng ăn, như một cái cần, và sau đó, như một cái đẹp.
****
Trả lời phỏng vấn, về chuyện phải từ
bỏ đất nước, và quan
trọng hơn, phải từ bỏ tiếng mẹ đẻ, nhà văn Romania, Cioran cho biết:
phải viết
văn bằng tiếng "ngoại" là một tai nạn lớn lao đối với một nhà văn.
Ông kể hai kinh nghiệm, tưởng như chẳng liên hệ, về chữ viết "ngoại",
và về miếng ăn "ngoại".
Cho tới năm 1947, ông vẫn viết văn
bằng tiếng Romania.
Tới
bữa đó, ông tính dịch Mallarmé sang tiếng Romania. Bất thình lình,
ông tự hỏi
chính mình: "Thậm vô lý! Ích chi đâu, khi dịch Mallarmé sang một thứ
tiếng
mà chẳng ai biết?" Thế là, tôi từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Tôi bắt đầu viết văn
bằng tiếng Tây. Thật trần ai khoai củ. Viết văn bằng một ngôn ngữ khác
là một
kinh nghiệm đáng sợ. Người ta phải mầy mò với từng chữ. Khi viết bằng
tiếng mẹ
đẻ, tôi cứ thế mà viết, giản dị như vậy đó. Chữ viết không "có quyền
độc
lập", đối với tôi (Les mots n’étaient pas ‘indépendants’ de moi). Khi
viết
văn bằng tiếng Tây, mấy con chữ như thách đố tôi: chúng như ở trong
những xà
lim (cellules), và tôi phải nhặt ra từng con: nào tên này, nào tên kia,
ra đây
biểu!
Kinh nghiệm đó, theo ông, y hệt kinh
nghiệm về miếng ăn,
cũng ngày đầu tới Paris. Lần đó, ông trọ tại một khách sạn nhỏ, khu
‘người em
xóm học’ (khu Latinh). Bữa đó, ông xuống nhà gọi điện thoại, và thấy
nhân viên
coi khách sạn, bà vợ, và ông con trai: cả ba đang sửa soạn bữa ăn, họ
như đang
sửa soạn kế hoạch cho một trận đánh! (Người viết nhấn mạnh!). Tôi sững
người: ở
Romania, tôi luôn luôn được nuôi ăn như một con vật, chẳng thèm để ý
tới
"ăn nghĩa là gì". Ở Paris, tôi mới nhận ra ăn là một nghi lễ, một
hành động văn minh, gần như xác định một thái độ chính trị.
Vũ Bằng phân biệt hai miền qua món ăn:
món ngon miền bắc
‘đấu’ với món lạ miền nam. Ôi chao, những cái lỉnh kỉnh, nhiêu khê, cầu
kỳ,
nhưng thật cần thiết, không có không được của một tô bún thang, cái
mỏng dính
của một lá bánh cuốn Thanh Trì, cái thú ngồi canh bánh trưng ngày tết…
chỉ tới
khi vào Nam, hết sợ đói, thằng bé Bắc Kỳ mới mới thấy "thấm thía" cái
tuyệt vời của một miếng ăn.
Cái tuyệt vời của
những kỷ niệm khi còn là một đứa bé chuyên
môn đi ăn chực, tại một miền đất.
Nguyễn Quốc Trụ