
|

Dịch thuật,
như là 'Phận Người'.
Steiner lên
trang bìa báo
Văn Học Pháp, số Tháng Sáu 2006, đặc biệt
dành cho ông.
Văn Hóa
chống lại Man Rợ.
Phải có cái
sự can đảm của
những lầm lẫn lớn.
Phải
lật ngược
những huyền thoại lớn.
Chúng nói
ngược cái điều đúng ra phải nói.
*
Liệu câu sau đây, của Steiner,
có thể áp dụng vào trường hợp của PD ?
Và đó là lý do
nhạc của ông ta đã cứu sống Gấu, những ngày tù VC ?
Theo cái kiểu
vũ trụ có ngưng thì âm nhạc vẫn còn?
L'univers
cesserait-il, dit Schopenhauer, la musique persisterait.
[Steiner:
"Memoranda", báo L'Herne, số
80, Steiner, p.405]
NQT
La musique se
déploie, indifférement semble-t-il, dans la sphère du
divin comme dans celle de l'infernal.
[Có vẻ như âm
nhạc nở rộ lên, ở bất cứ địa ngục, hay thiên đàng]
Với
tôi, Phạm Duy
hay nhất vẫn là những bản nhạc tình. Giống những cửa
sổ, đối với K. trong Vụ Án.
Lần đó, ở trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh
hát. Một buổi tối, cả hai không ngủ được. Nói chuyện lăng nhăng một
hồi, và đột nhiên anh thủ thỉ một mình. Những gì ..."đưa nhau tới bên
cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"...
Sau này, mỗi lần
nghe nhạc Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến
còn nguyên đó, đối với riêng tôi, những ngày ở Trung Tâm Ba Quang
Trung, lần đầu tiên xa Sài-gòn, xa cô bạn. Nhưng, nếu không có nhạc
Phạm Duy, không hiểu những ngày ở trong trại cải tạo còn thê thảm tới
bực nào, đối với hai bạn tù...
Mùa
thu,
những di dân
Đọc
Steiner
nhân
Magazine Littéraire
ra số
đặc biệt về ông
- Ngựa
chạy
tiếp sức: Với một đầu óc hiểu biết mênh mông như thế, ông nghĩ như
Neruda: Nếu
mình không thể là nhà sáng tạo lớn lao thì thôi làm ông đưa thư cũng
được, làm
con ngựa chạy chuyển sức để đưa thư – postier – đường quá dài – chưa có
máy bay
Boeing, chưa có internet – phải cần rất nhiều con ngựa chạy tiếp sức!
Một con
sẽ quỵ sức!
- Thân
phận
con người: Cái xấu nó đã ở sẵn trong con người? Có nên – như ông đề
nghị – nêu
lại giả thuyết tội tổ tông không? Đây là câu hỏi sống chết. Kinh nghiệm
sống của
tôi là mình muốn một chuyện, trời sắp một chuyện khác. Những gì mình
mong muốn
được tốt nhất thì nó đi ngược lại. Ẩn dụ tội tổ tông làm tôi nhớ đến
câu của
Theognis: “Điều tốt cho con người là đừng sinh ra, kế đó là chết trẻ,
còn tệ
nhất là sống già.” Chúng ta là những người khách được mời đến cuộc đời,
nói như
Heidegger là chúng ta bị vứt vào cuộc đời mà cuộc đời thì chẳng săn sóc
gì đến
chúng ta, chúng ta là những kẻ không mời mà đến, cứ len mà vào cuộc
đời. Chúng
ta làm hại thiên nhiên, biến quả đất này thành thùng rác, và đó là
chúng ta đã
trả lại cho cuộc đời những gì cuộc đời đã cho chúng ta!
- Văn
hóa chỉ
dành cho một thiểu số: Ông thích nhắc lại câu của Goethe: “Văn hóa chỉ
dành cho
một thiểu số.” Đứng trước một nhà toán học, mình không dám nói tôi
không hiểu
những gì ông làm. Mình chấp nhận ông thuộc về một nhóm chuyên gia ưu
việt.
Nhưng mình có quyền nào để nói rằng bất cứ ai cũng có thể hiểu được
Hegel,
Kant, Descartes? Không, tôi xin lỗi! Thượng đế quá bất công, ngài đã có
thể
phân phát cho mọi người tài năng giống nhau, nhưng ngài đã không làm.
Nadia
Boulanger nói: “Đem đến cho tôi một em bé 4 tuổi, tôi sẽ nói nó có một
vận may
hay không!” “Công bằng xã hội, loại công bằng nhỏ tí” : một câu khủng
khiếp,
nhưng khá đúng.
- Không
tin
vào siêu việt, con người quay vòng vòng chung quanh trống không: Đứng
trước một
người vô thần tuyệt đối, tôi ngã mủ chào. Nếu đang đêm người ta dựng
ông dậy để
nói một trong các đứa con của ông chết vì tai nạn xe hơi, ông có can
đảm để
nói: “Thiệt khủng khiếp cho tôi, nhưng chẳng quan trọng gì, tôi trúng
số độc
đắc nhưng độc đắc xui.”
Đứng
trước người có lòng tin, tôi ngả mũ chào. Ngược lại,
đừng nói với tôi làm tôi bực mình là có người cho mình là người đứng
đắn nghiêm
túc mà không hề đặt câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng Đế. Nếu câu hỏi
không đặt
ra, thì câu trả lời ở đây sẽ là không có Thượng Đế, vậy thì ââm nhạc,
văn
chương, hội họa không ở trong tầm tay của chúng ta. Giả thuyết của tôi
– chỉ là
giả thuyết thôi – nền kiến trúc to lớn của nghệ thuật phương Tây có
tính cách
tôn giáo, theo nghĩa rộng của nó. Samuel Beckett là hình ảnh mấu chốt
của việc
chuyển tải, ông mời chúng ta suy nghĩ: “Và nếu Godot không bao giờ trở
lại?”...
Nhưng, câu hỏi có thể đặt lại: Godot có thể trở lại... . Cũng có thể có
một
nghệ thuật không dựa vào tôn giáo, lúc đó con người sẽ có thể đi vào
trong một
vũ trụ hoàn toàn bất ngờ, không dự kiến được.
- Tị
nạn: Vì
sao ông không ở Mỹ? Nếu tôi ở Mỹ - chính phủ Mỹ đề nghị – thì tôi đi
ngược với
con người thật của tôi, một con người được trời thiên phú nói-hiểu-viết
nhiều
thứ tiếng và nhất là tôi đi ngươc lại lời giáo huấn của cha tôi, trước
khi
chết, ông còn nói với tôi: “Nếu con ở Mỹ, thì sự nghiệp của con tốt hơn
nhưng
như vậy thì Hitler thắng.” Hitler đã hống hách tuyên bố sẽ không còn
George
Steiner ở Âu châu, như vậy trên phương diện cá nhân, tôi không được để
Hitler
thắng. Tôi ở lại Âu châu vì tôi không được để quá khứ bị chôn vùi, quá
khứ của
một nền văn hóa Do Thái Trung Âu, tôi mang nợ nền văn hóa này rất nhiều.
- Kitô
giáo
và chủ nghĩa Mác-xít: Đó là hai chuyện lạc đạo lớn nhất của Do thái
giáo, nói
theo Freud, đó là con quay lại giết cha. Chủ nghĩa Mác-xít gần như biến
mất,
tôi nói “gần như” vì chúng ta sẽ có thể ngạc nhiên với nó trong tương
lai. Còn
về Kitô giáo, đạo này đang qua một cơn khủng hoảng ở Âu châu. Riêng ở
nước Anh,
sẽ có cả ngàn nhà thờ được dùng vào việc khác vì không còn tín hữu và
ơn gọi. Không
phải là tôi không biết thế nào là trại tập trung Goulag nhưng tôi ngửi
không
nổi những người bây giờ từ chối cái quá khứ đi theo Stalin của họ, hồi
đó Cộng
sản là niềm hy vọng vô biên. Trong chủ thuyết Mác-xít có tầm đánh giá
con người
rất cao, rất ngông mà đó cũng là một tính chất rất Do thái. Nó làm cho
chúng ta
tin chúng ta là những con người có khả năng đem đến công bằng cho xã
hội. Một
sai lầm khủng khiếp đã giết hại mười mấy triệu người, nhưng đó là một
tư tưởng
rất quảng đại và một lời khen ngợi rất lớn cho con người. Kitô giáo thì
bị lấm
vết nhơ hận thù do thái quá sớm, huyền nhiệm của Kitô giáo quá thô sơ
nhưng nền
nghệ thuật phương Tây của chúng ta không thể có được mà không có Kitô
giáo.
Không
phải ai cũng mê
Steiner. Trong số báo đặc biệt về ông, có một ông, Charles
Dantzig, không chia sẻ cái nhìn bi quan về một cái chết của bi
kịch, và của văn chương. Steiner nói về tri thức,
nhưng người ta lại nghi ông muốn làm một tay ngự sử văn đàn.
Ông này
bực nhất câu của Steiner: "Làm gì có nữa, một Dante, một Shakespeare,
một Proust".
Câu nói của
Steiner thảm ở
chỗ, ông ta ngầm ý rằng thì là
chẳng còn nhà văn lớn. Này, nói nhỏ với ông, Steiner: Có chúng tôi đây.
Văn chương hả, thì cũng đơn giản thôi, nó là một phép lạ. Năm phút
trước Proust, đâu có một ông Steiner nào tin rằng có Proust? Ngay
vào lúc này, trong cái sự hoàn toàn ngu ngơ ngốc nghếch vô tri của
chúng ta,
một thiên tài đang lừng lững khốc liệt đi tới.
Ai không hiểu
điều trên, người đó có lẽ [chỉ] yêu mến sự sáng tạo, với
điều kiện: nó, sáng tạo, phải chết
rồi!
Có một bài
phạng Steiner
rất nặng. Của Salman Rushdie:
Tiểu
Thuyết Chưa Chết
Mà có lẽ,
không phải như
vậy. Bởi vì
văn chương, nhất là thứ
bảnh, thứ hảo hạng, không phải là món hàng ai ai cũng quan tâm, ai ai
cũng vồ
vập. Quan trọng văn hóa của nó không phải ở chuyện đánh đấm xếp hạng,
mà là, nó
bảo cho chúng ta biết, về chính chúng ta, và chúng ta không thể kiếm
thấy những
lời chỉ bảo đó, ở những môn nghệ thuật khác. Và thiểu số - thiểu số
những con
người được sửa soạn và sẵn sàng bỏ tiền ra mua sách tốt để đọc - thiểu
số này
lạ lùng sao, chưa từng nhiều như vậy, so với trước đây. Vấn đề phải
quan tâm,
là vấn đề này. Đừng lo lắng đến cái chết của độc giả, mà hãy để ý đến
sự hoang
mang, sững sờ của họ.
Tại
Mẽo, trong năm 1999, hơn năm ngàn
tiểu thuyết mới đã
được xuất bản. Năm ngàn! Chỉ cần năm trăm cuốn tiểu thuyết có thể xuất
bản
được, và được viết ra trong một năm, như vậy đã là một phép lạ! Phép lạ
biến
thành "phép lạ của phép lạ", nếu trong số năm trăm cuốn có thể xuất
bản được đó, có năm chục cuốn thuộc loại tốt. Và cả nhân loại chúng ta
sẽ mừng
rú lên, nếu trong số năm chục cuốn tốt đó, có một cuốn, một và chỉ một
mà thôi,
là "một" đại tác phẩm!
Đám
xuất bản, nhà nào nhà nấy, in sách
ào ào, là bởi vì
những biên tập viên tốt bị cho về vườn và không cần người thay thế, và
ám ảnh
về con số doanh thu khiến không còn phân biệt nổi tác phẩm xấu và tốt.
Hãy để cho
thị trường sách vở quyết định, hình như đa số các nhà xuất bản đều nghĩ
như
vậy. Cứ tống hàng ra, thế nào cũng có
cuốn dính! Thế là năm ngàn cuốn bầy ê hề trên quầy, và sau đó, từ trên
quầy rớt
xuống "lò thiêu", bao thứ lửa quảng cáo cũng chẳng làm sao cứu nổi.
Đúng là một cuộc hành trình tự huỷ. Như Orwell đã nói từ năm 1936 - Bạn
thấy
đấy, làm có gì mới ở dưới ánh mặt trời - 'quảng cáo giết tiểu thuyết'
[nguyên
văn: the novel is being shouted out of existence: Tiểu thuyết đang được
la lối
đến nỗi ngỏm củ tỏi]. Độc giả, thất lạc giữa khu rừng nhiệt đới, gồm
toàn là
những tiểu thuyết rác rưởi, và thấy mình trở thành thô bỉ, vì thứ ngôn
ngữ
quảng cáo ngoa dụ chẳng còn có chút giá trị mà cuốn nào cuốn nấy tự
khoác cho
nó, bèn giơ cả hai tay lên trời than, tớ
chịu thua, tớ bỏ cuộc! Mỗi năm, tớ mua chừng vài cuốn được giải này
giải nọ, có
thể, một hai cuốn của những tác giả mà tớ biết tên, và sau đó, tớ bỏ
chạy! In
ào ào, và ngoa dụ quảng cáo khiến người đọc đếch thèm đọc sách nữa! Vấn
đề
không phải là, quá nhiều những cuốn tiểu thuyết câu
một số quá ít độc giả, mà là, quá nhiều cuốn
tiểu thuyết xua đuổi
một số quá ít đọc giả chạy vãi linh hồn [1] ra quần!
Chú thích: Chữ "vãi linh hồn" này,
mượn của nữ văn
sĩ Phạm Hải Anh.
Tin
Văn sẽ giới thiệu thêm, bài của Mario Vargas Llosa: Cassandra's
Prophecies [Những tiên tri của
Cassandra]
Llosa rất mê Steiner, kể từ cuốn Ngôn
Ngữ và Câm Lặng, nhưng ông
biểu, Steiner vướng vào cái tật, của mấy tay đọc nhiều: Tuy biết tỏng
tòng tong rằng mình sai, vẫn cứ gân cổ ra mà cãi, bằng đủ các thứ đã
từng đọc được, theo cái kiểu cả vú lấp miệng em.
Thiêng thật! Vừa nói đến tiểu thuyết chưa chết, là có ngay nhiều giọng
chống.
TLS số đề
ngày 30 Tháng
Sáu 2006
Trong số báo
này, bài quan
trọng nhất, theo Gấu, là bài điểm cuốn viết về "An nam" ta cái gì
cũng... ăn (1): Có một phía tối của cái khả năng cái gì cũng nhét vô
miệng được của cái giống người. ["There is a dark side to this ability
of human beings to eat any thing".
(1) David E.
Cooper điểm cuốn The
Omnivore's Dilemma,
của Michael Pollan, nhà xb Bloomsbury.
|