Thi sĩ Vũ
Hoàng Chương: Sài Gòn rong chơi ký
10:09,
26/01/2012
Đoàn Thạch Hãn
Trên phương
diện học thuật, không ai có thể phủ nhận Vũ Hoàng Chương là một trong
những cây
đại thụ của thi ca Việt Nam cận đại. Theo nhận định của nhiều nhà phê
bình văn
học thuộc nhiều thế hệ, so với các nhà thơ đồng thời, thơ Vũ Hoàng
Chương có những
nét riêng trau chuốt từng câu, từng chữ,
giàu nhạc điệu, nhẹ nhàng, sâu lắng, lãng mạn và
sang trọng.
Ông sinh
ngày 5/5/1916 tại làng Phù Ửng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng , Nam
Định
(nay thuộc về Hưng Yên). Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài Pháp năm 1937. Sau
đó, theo
học Trường Luật rồi cử nhân toán tại Hà Nội, nhưng tất cả cũng chỉ được
một vài
năm rồi bỏ, để theo nghề dạy học và làm thơ cho đến cuối đời. Năm 1954,
ông di
cư vào Nam , tiếp tục dạy văn ở một số trường trung học, và Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Vũ Hoàng
Chương mất ngày 6/9/1976, khi vừa tròn tuổi 60.
Tôi là một
người may mắn, khi có một thời gian được tiếp xúc và gặp gỡ thi sĩ Vũ
Hoàng
Chương dường như mỗi ngày. Đó là vào khoảng cuối năm 1973, đầu năm
1974, khi vợ
chồng ông đang tá túc tại nhà nữ sĩ Mộng Tuyết, trong một căn phòng
được ông gọi
là “gác mây”, nằm cuối đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng
Tuyển, quận
Phú Nhuận).
Lúc bấy giờ,
tôi đang giữ trang thơ của nhật báo Sóng Thần. Một buổi sáng, vừa bước
vào tòa
soạn ở số 133 Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi), đã thấy nhà văn Chu Tử (chủ
bút)
đang ngồi uống trà với Ngọc Thứ Lang (người dịch cuốn Bố Già) và nhà
thơ Hoàng
Trúc Ly. Bỗng dưng có ai đó nhắc đến thi sĩ Vũ Hoàng Chương và nói ông
đang bệnh
nặng. Thế là Ngọc Thứ Lang buột miệng: “Tội nghiệp, Vũ Hoàng Chương
nghèo kiết
xác, nên thiếu “thóc” (thuốc phiện) là ngã bệnh, nếu được hút đủ đô là
khỏe
ngay”.
Điều này có
lẽ không sai, bởi hơn ai hết, Ngọc Thứ Lang cũng là một con nghiện rất
nặng và
thỉnh thoảng vẫn ghé lại “gác mây” thù tạc với Vũ Hoàng Chương. Không
hỏi thêm
một câu nào, ông Chu Tử quay sang ra lệnh cho tôi, xuống ban Trị sự,
lấy tiền
mua vài lạng thuốc phiện đem biếu cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Nghe thế,
tôi rất
vui khi biết mình sắp được gặp gỡ nhà thơ lớn mà mình ái mộ từ lâu,
nhưng chỉ
nghe danh chứ chưa được diện kiến lần nào. Có tiền, tôi nhờ anh Ngọc
Thứ Lang
đưa qua con hẻm đối diện tòa soạn, nơi có hai động hút dường như bán
công khai,
mua hai lạng thuốc phiện loại hảo hạng rồi đi ngay. Dọc đường, tôi cứ
phân vân
không biết phải xưng hô với thi sĩ Vũ Hoàng Chương như thế nào cho phải
phép.
Cuối cùng, tôi quyết định sẽ gọi ông bằng thầy và xưng em là ổn nhất.
Không có gì
khó khăn để tôi tìm ra nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Gọi là “gác mây”, cái tên
nghe rất
thơ mộng, nhưng thật ra, đó là một căn phòng nhỏ, chỉ hơn 20 thước
vuông, không
có lấy một thứ đồ đạc nào đáng giá. Trên một chiếc đi văng bằng gỗ,
được trải mấy
tấm chiếu hoa, Vũ Hoàng Chương ngồi tựa lưng vào vách, gầy gò và mệt
mỏi. Trên
khuôn mặt xanh xao là một cặp kiếng trắng dày cộm. Trước mặt ông là một
tờ báo
và một chiếc kính lúp, mỗi khi đọc, ông phải soi từng dòng. Ngồi trên
chiếc ghế
kê sát cửa ra vào là bà Thục Oanh, vợ của ông, một người đàn bà với vẻ
bên
ngoài rất bình thường, nhưng lại có đời sống rất phi thường.
Bởi lẽ, bà
còn là chị ruột của thi sĩ Đinh Hùng. Suốt đời người đàn bà này là chỗ
dựa của
hai nhà thơ lớn mà ngoài tánh khí thất thường ra, cả hai còn là những
con nghiện
á phiện rất nặng từ khi còn rất trẻ, nhưng chẳng bao giờ làm ra được
nhiều tiền.
Vì thế, mà bà Thục Oanh âm thầm chịu đựng cảnh túng thiếu, cắn răng lo
cho hai
nhà thơ lớn của Việt Nam mà chẳng hề ta thán. Thấy tôi xuất hiện, bà
Thục Oanh
đứng dậy chào khách và hỏi tôi muốn tìm ai? Tôi nói ngay: “Ông Chu Tử
nhờ em
đem biếu cho thầy ít quà”. Tôi trở nên hụt hẫng khi nghe Vũ Hoàng
Chương nói,
cho dù giọng ông chậm rãi và nhỏ nhẹ: “Chu Tử là ai? Hình như tôi không
quen
người này, nhưng tại sao lại biếu quà
cho tôi, mà quà gì thế?”. Khi nghe tôi nói tới thuốc phiện, nét mặt ông
rạng rỡ
hẳn lên.
Tôi ngồi xuống
mép đi văng, đặt hai lạng thuốc phiện lên tờ báo cũ mà ông đang đọc dở.
Như bị
ma lực của nó thu hút, ông cầm lên, mở ra, vẻ thích thú của một tay
sành điệu:
“Thuốc Thượng Lào, sản phẩm hảo hạng đây”. Thế là câu chuyện giữa tôi
và thi sĩ
Vũ Hoàng Chương trở nên thân mật hơn. Ông nói, mỗi ngày ông vẫn có thú
vui đọc
báo, nhưng chỉ đọc được một tờ, bởi không có đủ báo. Tôi hứa, mỗi ngày
sẽ mang
đến cho ông đủ các loại nhật báo phát hành trong ngày. Để cho ông yên
lòng, tôi
nói, mỗi ngày tôi thường đi ngang qua đây, nên rất thuận đường. Nói thế
là vì
tôi mong được kết thân với ông, chứ chẳng có viếc gì phải cần đến khu
vực này cả.
Ông nhận lời một cách vui vẻ, và từ đó, chiều nào tôi cũng mang báo đến
cho
ông, rồi ngồi chuyện trò với nhau đủ mọi thứ chuyện trên đời, rồi thành
thân
thiết.
Vài tuần
sau, một lần Vũ Hoàng Chương bất chợt nhắc đến sức khỏe nhà văn Chu Tử.
Nhân
đó, tôi hỏi, dường như ông và Chu Tử cũng quen nhau, nhưng giữa hai
người có điều
gì đó lấn cấn? Ông thú thật là có quen biết. Nhưng do mâu thuẫn gì đó
với Chu Tử,
nên thôi. Còn như Chu Tử có xúc phạm Vũ Hoàng Chương hay không, cũng
chẳng ai
biết hư thực ra sao, bởi đó cũng chỉ là thị phi của người đời.
Có những buổi
chiều khi tôi đến thì bà Thục Oanh vắng nhà. Tôi tự pha trà và ngồi đối
ẩm với
thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Tôi hỏi ông về chuyện tình yêu và những bài thơ
đau
tình bất hủ của ông. Nét mặt ông trở nên buồn vời vợi, nói như nói với
chính
mình: “Năm tôi 25 tuổi thì Tố Uyển đi lấy chồng, tôi đã như điên, như
cuồng.
Người ta biết nhiều đến chuyện tình ly cách và những bài thơ tôi làm
cho Tố Uyển
giai đoạn này, đặc biệt là hai câu mà nhiều người thuộc:
Tình ta, ta
tiếc cùng ta khóc -
Tố của
Hoàng, nay Tố của ai…
Ông nói tiếp:
Thật ra còn có một người phụ nữ nữa, cũng
làm cho tim tôi và thơ tôi rỉ máu, nhưng ít được
người ta nhắc tới hơn:
Kiều Thu hề!
Tố em ơi
Ta đang lữa
đốt tơi bời mái tây…
Tôi hỏi: “Thế
còn cô Thục Oanh?”. Ông nói: “Đó là một người bạn đời, người chia ngọt
sẻ bùi,
tuy không phải là người tình nhưng còn hơn cả người tình”.
Thi sĩ Vũ
Hoàng Chương thường nói với tôi là ông không có bạn. Nhưng theo tôi
nhìn thấy
thì ông sống rất tình nghĩa. Có lần ông hỏi tôi có thường gặp Ngọc Thứ
Lang
không? Tôi nói rất thường gặp. Sáng nào cũng thấy anh ngồi ở quá cà phê
trước
tòa soạn báo Sóng Thần. Dạo này trông anh rất yếu và hay đau ốm. Thế là
chẳng
nói, chẳng rằng, ông lấy trên đầu nằm ra một cục thuốc phiện, cắt làm
đôi, gói
cẩn thận bằng một mảnh giấy kiếng màu cam, rồi trao cho tôi, dặn dò: “Đưa cho Ngọc Thứ Lang và đừng nói gì cả”.
Bút tích của
thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Một buổi chiều
khác, tôi gặp Lê Cung Bắc (nay là đạo diễn - NSƯT Lê Cung Bắc) tại tòa
soạn, và
rủ anh ghé Vũ Hoàng Chương chơi. Lê Cung Bắc nhận lời ngay, bởi anh
cũng là người
yêu thơ và rất ái mộ thơ Vũ Hoàng Chương. Đó là một buổi gặp gỡ hết sức
thú vị.
Trước khi
theo tây học, Vũ Hoàng Chương từng học chữ Nho nhiều năm, thuộc loại
uyên bác.
Còn Lê Cung Bắc lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng, mấy đời ông
cha
liên tục đỗ đầu các đại khoa dưới triều Nguyễn. Do đó, anh cũng rất
tinh thông
Tứ Thư, Ngũ Kinh,… từ hồi còn rất trẻ. Đặc biệt, Lê Cung Bắc thuộc làu
rất nhiều
bài Đường thi, và cả những bài từ, bài phú. Thế là một già, một trẻ,
hết đọc rồi
bình thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, đến Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu… say sưa cho đến
sẩm tối.
Vũ Hoàng Chương nói, ông tuy đã già nhưng tâm hồn còn rất trẻ, nên rất
thích
chuyện trò với những người bạn trẻ có được kiến thức như Bắc.
Ông dặn tôi,
thỉnh thoảng nhớ rủ Lê Cung Bắc đến thăm ông, để chuyện trò cho đỡ
buồn. Khi
chia tay, ông rời đi văng bước ra cửa tiễn chúng tôi bằng những bước đi
không vững,
để bày tỏ lòng mến khách. Ông nói: “Lâu lắm không bước ra đường, chẳng
biết phố
xá dạo này ra sao?”. Lê Cung Bắc trả lời: “Phố xá thì vẫn thế. Có điều,
càng
ngày các cuộc xuống đường của những lực lựơng tranh đấu càng nhiều hơn.
Ngựa sắt,
hàng rào kẽm gai và khẩu hiệu, biểu ngữ xuất hiện khắp nơi”. Ông lại
hỏi: “Người
ta viết gì trên đó?”. Tôi đáp: “Thì đại loại chế độ của Tổng thống
Thiệu muôn
năm, hoan hô cái này, đả đảo cái kia”. Lập tức thi sĩ Vũ Hoàng Chương
ứng khẩu,
đọc liền hai câu:
Thế mà cứ
chúc muôn năm mãi
Nó sống lâu
thì nước chết non.
Ra đầu đường,
Lê Cung Bắc nói với tôi, quả thật, nếu cứ nhìn vào cái thân xác gầy
còm, yếu ớt
đó, không ai ngờ tiềm ẩn trong tim là ngữ khí ngất trời.
Điều làm tôi
cảm động nhất, là vào một buổi chiều cuối năm 1974, khi tôi đến với ông
như thường
lệ đã thấy trước mặt ông là một tập sách mỏng. Ông cầm lên đưa cho tôi
và nói:
“Đây là quà của tôi biếu anh, một trong những người rất hiếm hoi mà tôi
quý mến”.
Tôi lật ra, cứ tưởng như mơ. Đó là một tập thơ của Vũ Hoàng Chương, do
chính
ông viết bằng đầu tăm, chấm mực tàu viết lên giấy bổi. Tập thơ có cái
tựa là
Song Kiều, ngoài bìa Vũ Hoàng Chương viết tặng đích danh tôi, có chữ ký
và triện
son hẳn hoi, nhưng chỉ dày hơn 20 trang, mỗi trang có 4 câu lục bát, vì
nét chữ
rất to. Dĩ nhiên là tôi vô cùng sung sướng. Cái công mỗi ngày tôi vẫn
mang báo
đến tặng ông rõ ràng không bỏ.
Đầu năm
1975, khi chuyển nhà đi nơi khác, vì không ổn định chỗ ở, tôi đã mang
tập thơ
quý giá, với chỉ một ấn bản duy nhất đó, cùng một ít tư liệu riêng, gởi
gắm cho
nhà thơ Huy Tưởng trên đường Huỳnh Tịnh Của. Về sau tôi hỏi, thì Huy
Tưởng nói
đã nhiều lần cố lục tìm trong đống sách vở và đồ đạc lỉnh kỉnh trong
nhà anh,
nhưng chẳng biết thất lạc ở đâu. Thế là mất!
Một thời
gian sau, thi sĩ Vũ Hoàng Chương rời khỏi “gác mây”, dọn về Vĩnh Hội.
Từ đó,
cho đến lúc ông qua đời vào năm 1976, vì bộn bề công việc, tôi không
đến với
ông được nữa. Ngay cả khi ông nhắm mắt,
tôi lại ở thật xa thành phố, nên cũng
không thể đến thắp cho ông một nén nhang như lòng tôi mong ước.
Tôi nghĩ,
cho dù quá nhiều thăng trầm ở đời này, hạnh phúc thì ít, khổ đau thì
nhiều,
nhưng có lẽ thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đã mỉm cười ra đi bởi ông đã
thấm đẫm
tinh thần Phật giáo như lời thơ ông:
Biển khổ
mênh mông sóng ngập trời
Khách trần
chèo một mái thuyền chơi
Thuyền ai
ngược sóng, ai xuôi sóng
Cũng chỉ
trong cùng biển khổ thôi.
Bình Trưng
Đông, tháng Chạp - năm Tân Mão
Nguồn CAND