*

Tribute


























Simone Weil (1909-1943)

 Martin Steffens

Suy nghĩ về cuộc đời của mình và sống với suy nghĩ này. Đây sẽ là lý tưởng của một triết gia: rằng, không những suy nghĩ, nhưng cuộc đời của mình phản ảnh suy nghĩ của mình. Simone Weil còn đi xa hơn thế: bà đã sống trọn vẹn, sâu đậm, nguy hiểm và tư tưởng của bà là dấu vết cuộc phiêu lưu này. Không một quyển sách nào được in khi còn sống, không một hệ thống triết lý nào: chỉ toàn các hành động, các cú bốc đồng, các cuộc đối đầu bướng bỉnh, các cuộc gặp gỡ, tất cả mọi sự mà Simone Weil suy nghĩ, bà có một địa chấn kế ghi lại các rung động.

 

Điều đó không có ý nói Simone Weil không phải là một triết gia lớn: Suy Nghĩ Về Các Nguyên Do Của Tự Do Và Áp Bức Xã Hội [Réflexions sur les causes de la liberté et de l’oppression sociale] hay Bám Rễ [L’Enracinement] là những quyển sách sáng chói của một khái niệm vững chắc. Từ những trải nghiệm đó, chỉ có một việc phải làm đến cùng: luôn luôn sát cánh với những người nghèo nhất, làm việc dây chuyền, tham dự vào chiến tranh ở Tây Ban Nha, lao động như người nông dân, nếm mùi bệnh tật và cuối cùng, bên cạnh các việc này là cuộc gặp gỡ âm thầm với Chúa Giêsu-Kitô của một người Do Thái vô thần, Simone Weil.

 

Trước khi đi vào chi tiết các biến cố này, một câu hỏi cần được đặt ra: làm sao một cuộc đời đầy hoạt động như vậy lại thai nghén một suy nghĩ sâu xa như vậy? Bởi vì người ta có thể sống một ngàn chuyện nhưng không giữ lại một chuyện nào. Hay sống bao nhiêu là chuyện nhưng không cách nào suy nghĩ, không có thì giờ cũng không có năng lực. Nếu Simone Weil đã biết nhận ra sự thật phổ quát qua các kinh nghiệm riêng đặc biệt của mình, là bởi bà có một khả năng phi thường, khả năng chú ý.

 

Biến cố đánh dấu đầu tiên đến trong đời đã cho bà khả năng này. Simone Weil sinh ra trong một gia đình trưởng giả, Do Thái, phóng khoáng ở Paris. André, người anh lớn hơn bà ba tuổi, khi còn nhỏ đã là thiên tài toán học. Một thiên tài được so sánh với Blaise Pascal. Về phần Simone Weil, khi 14 tuổi, bà đã buồn không tả được, đã nghĩ đến cái chết. Không phải vì ghen với anh: “Tôi không tiếc vì không có các thành công bên ngoài, nhưng tôi không có một hy vọng nào thấm nhập được vào thế giới siêu việt mà duy chỉ các ông có tầm mức cao mới đi vào được, vào nơi ở của sự thật. Tôi thà chết chứ không thể sống mà không có sự thật này.”

 

Ước muốn biết được sự thật dày xéo cô bé Simone. Quá tuyệt vọng, bà nghĩ sự thật chỉ dành cho thiên tài, nếu suốt đời sống mà không có sự thật thì đúng là sống ảo tưởng và dối trá. Và rồi ánh sáng đến, gần như một ân sủng: “Sau nhiều tháng sống trong bóng tối nội tâm, bỗng tôi có niềm xác tín, và tôi xác tín mãi mãi, rằng bất cứ một người nào dù cho khả năng tự nhiên của họ gần như không có gì, cũng có thể thấm nhập vào thế giới của sự thật dành cho thiên tài, nếu họ chỉ ước muốn có một điều duy nhất là sự thật và cố gắng chú tâm liên tục thì họ sẽ được.”

 

Chú tâm: đó là phương pháp bà đi tìm và không ngừng áp dụng. Đó là sợi chỉ hướng dẫn cuộc đời bà. Bởi vì khi đã thành công tất cả – đậu tú tài, được nhận vào trường Cao Đẳng -, sự chú tâm của bà hướng về những người mà không ai chú ý đến, bởi vì nỗi bất hạnh của họ làm mọi người lánh họ. Từ 18 tuổi, bà đã tổ chức để những người thất nghiệp có được tiền trợ cấp, cùng với anh, bà dạy lớp tối cho thợ thuyền. Bà đến nơi đâu có nỗi lo của người đang lo, không bao giờ ở phía người đang vui: bà tổ chức cuộc gây quỹ cho những người thất nghiệp, ông hiệu trưởng trường Cao Đẳng đóng góp và yêu cầu để ẩn danh (ông không muốn bị cho là cộng sản), Simone Weil viết trên một bích chương treo trong sân trường: “Xin các bạn bắt chước ông hiệu trưởng: ủng hộ quỹ thất nghiệp một cách ẩn danh.”

 

Khí chất phi chính phủ như vậy, nên khi đậu xong thạc sĩ triết, bà phải về dạy ở trường trung học thành phố Puy. Không bị bực mình vì phải xa thủ đô, ngay lập tức bà liên lạc với thợ thuyền và công đoàn địa phương. Năm 1934, bà nghỉ một năm không lương để vào làm công việc tay chân theo hệ thống dây chuyền ở Alsthom, rồi ở nhà máy xe hơi Renault. Bà phản đối nghiệp đoàn chỉ biết lý thuyết mác-xít mà không hiểu thành phần thợ thuyền mà chính chủ nghĩa mác-xít muốn giải phóng họ. Thế là bà ở bên cạnh những người nghèo nhất, để suy nghĩ không phải cho họ hay ở địa vị họvới họ và bắt đầu từ những gì họ sống.

 

Tầm kinh nghiệm này mang một tích cách khác hơn là tính cách chính trị. Bởi vì những gì Simone Weil còn giữ lại trong lòng sau những ngày tháng sống với máy móc là máy móc đã áp đặt lên thể xác và tinh thần một nhịp điệu vô nhân, có nghĩa là bất hạnh. Bất hạnh, là cảm giác mình không có giá trị gì, một cảm giác chết người, bị nghiền nát bởi một cơ chế máy móc mù quáng, không đoái nhìn một chút gì về nhân bản của từng người. Vậy, theo bà, cơ chế máy móc này hạ thấp con người xuống thành sự vật một cách dễ dàng, một cơ chế mà thỉnh thoảng bà gọi là “sự trị vì của sức mạnh”, nó xảy ra khắp nơi, cả ở bên ngoài thế giới của xưởng thợ: chính nó làm cho mọi người, dù đôi khi được ngụy trang, khoái cai trị, muốn mình là tâm điểm, bành trướng quyền lực đến bất cứ đâu quyền lực có thể bành trướng được.

 

Bà chứng nghiệm điều này một cách hãi hùng khi năm 1936, bà quyết định tham dự cùng với những người vô chính phủ để chống lại chế độ độc tài phăng-kít ở Tây Ban Nha: nếu sự chung sống là nét đầu tiên hết ở những người đồng lòng đấu tranh cho một thế giới công chính hơn, mục đích cuộc đấu tranh, đấu tranh cho người nghèo, bị mất một cách nhanh chóng: “một hố thẳm phân cách những người vũ trang với dân chúng không vũ trang, một hố thẳm phân cách giống như hố thẳm giữa người giàu và người nghèo”, bà viết như thế trong một bức thư gởi cho văn sĩ Georges Bernanos. Bởi vì, theo bà nhận xét, một khi nắm trong tay quyền lực thì con người không thể nào không lợi dụng nó: “Những con người nhìn bên ngoài có vẻ can đảm, trong một bữa ăn với bạn bè, đã cười đùa và kể chuyện họ giết rất nhiều linh mục hay người “phát-xít” – chữ dùng có nghĩa rất rộng ở đây.” Và bà viết thêm: “Tôi có cảm nhận khi các nhà cầm quyền thế tục hay thiêng liêng đã đặt một hạng người nào đó không đáng để sống, thì chẳng có gì tự nhiên hơn là giết. Khi biết có thể giết mà không bị lên án, bị phạt, thì họ giết.”

 

Khuynh hướng thống trị khi thống trị được, và vì lý do lôi cuốn một cách phổ quát của nó, Simone Weil gọi đó là trọng lực. Không cách nào tránh khỏi: giống như khí hơi, một khi thoát khỏi bình chứa là nó chiếm ngay lập tức khoảng không gian trước mặt nó, lan rộng chừng nào theo sức của nó, cũng như “mấy con gà mái chạy đến mổ ngay con gà mái khác đang bị thương.” Mọi sức mạnh, nhân bản hay tự nhiên, cá nhân hay tập thể đều có hệ quả tối hậu phát sinh từ đó ra từng giây phút. Để có thể rút ra khỏi từ trường này, không thống trị người khác khi mình có quyền thống trị: kềm lại cái khát thống trị.

 

Nhưng, vì luật của trọng lực là luật phổ quát, một kềm giữ như vậy là cả một phép lạ. Trong lãnh vực này, Simone Weil rất sáng suốt, bà biết đọc các hiệu quả của trọng lực trong chính cách ứng xử của bà: khi các cơn nhức đầu càng ngày càng nhiều và càng mạnh, bà cảm thấy mình có một nhu cầu muốn làm cho người khác đau khổ. Bà phân tích như sau: cái đau đớn tạo ra một khoảng trống nơi người bị đau; đương sự không còn cảm thấy mình là mình nữa; làm cho người khác khổ, là “lấp đầy cái trống không của mình bằng cách tạo cái trống không nơi người khác”; đó là trải rộng ra cái quyền của mình trên người khác để xoa dịu cái bất lực của mình. Như vậy, đối với bà, ân sủng giúp mình chịu đựng được cái trống không do đau đớn gây ra và vì thế không được dùng đến sức mạnh. Nhưng, bà tự hỏi: “Làm sao thoát được cái ách nặng như cái ách trọng lực này?”

 

Bà chỉ trả lời được một phần câu hỏi này khi bà bị một cơn nhức đầu dữ dội vào năm 1938. Với lo lắng là không được đem cái đau đớn của mình ra khỏi con người mình, không được để lời rên la thóa mạ của mình vấy bẩn người chung quanh, bà đọc bài thơ Yêu của George Herbert, một bài thơ người bạn vừa đưa cho bà. “mọi chú ý (…) là để hết tâm hồn vào sự trìu mến nằm trọn trong đó.” Vì bà từ bỏ sức mạnh, nên bà bằng lòng với cái trống không, lúc đó bà khám phá ra việc đọc thơ có “đức tính của lời cầu nguyện”: “Chính trong khi đọc các lời thơ này (…) mà Chúa Giêu Su Kitô đã đến với tôi và chiếm trọn tâm hồn tôi.”

           

            Biến cố này bà không nói với ai, ngoại trừ, cho đến cùng, bà mới nói cho cha Jean-Marie Perrin và ông Joe Bousquet, trong một bức thư bà gởi cho họ trước khi đi New York, trong ý nghĩ là sẽ không gặp lại họ nữa. Simone Weil đã cảm nhận, trong đức tin, cần phải cực kỳ kín đáo. Không có gì làm cho bà sợ khi rêu rao ồn ào cho tập thể, dù đó là đảng hay Giáo Hội. Bà do dự khi quyết định có nên rửa tội hay không, bà chỉ ở ngưỡng cửa Giáo Hội vì muốn giữ quan hệ này một cách tự do, tự do và mật thiết nối kết bà với Chúa. Đức tin của bà âm thầm và năng động, như men trong bột.

 

            Cuộc gặp gỡ của bà với Chúa Giêu Su Kitô đã chia cuộc đời của bà ra làm hai: bà biết từ nay có một khả năng có thể loại được trọng lực mà bà gọi là ân sủng. Nhưng đó là một trường hợp đặc biệt, tình hình chính trị lúc đó khẳng định sự thống trị tàn nhẫn của sức mạnh: sau Hiệp Ước Versailles, một hiệp ước nhục nhã và vô ích, từ nay Đức Quốc Xã trả thù và xâm chiếm nước Pháp. Vì nguồn gốc Do Thái của mình, Simone Weil buộc phải đi về phía Nam. Ở đó, bà xin làm việc như một nông dân ở nhà ông Gustave Thibon, một nông dân-nhà văn. Ở Marseille, bà viết cho báo Cahiers du Sud của Jean Ballard và tiếp xúc với René Daumal, Lanza del Vasto, bà ham mê học hỏi ấn giáo. Bà học tiếng phạn để đọc Bhagavad-Gita nguyên bản, bà dấn thân vào thời cuộc: từ tháng tư 1941, bà lén lút phân phát tạp chí Chứng Nhân Kitô dù bà biết việc phân phát này có thể nguy hiểm đến tính mạng vì đây là tạp chí  chống lại sự hợp tác với Đức Quốc Xã.

 

            Năm 1942, cha mẹ bà thuyết phục bà rời nước Pháp. Bà qua New York, rồi hối hận vì đã bỏ nước Pháp đi trong lúc bị chiếm đóng, bà trở về Anh, trong hy vọng được các thành viên France Libre gởi ra mặt trận do tướng de Gaulle lãnh đạo. Vì sức khỏe quá kém, bà được phân công soạn thảo Hiến Pháp Nước Pháp để chuẩn bị khi nước Pháp được giải phóng. Công việc này, bà dùng hết sức lực cuối cùng để làm, bà bị ho lao và từ chối ăn uống khi nghĩ đến giờ này người dân Pháp đang bị mất tự do, thời gian này bà thai nghén tác phẩm: Bám Rễ. Tựa đề phụ của quyển sách chưa viết xong này nói lên chủ đích của nó: Bài mở đầu cho bản tuyên ngôn các bổn phận đối với con người.

 

            Bởi vì, theo Simone Weil, nguyên thủy, con người không phải chỉ có quyền mà còn có bổn phận: nhận biết nghĩa vụ nguyên thủy của mình là phải gắn bó với người anh em, đó là thực chất của con người. Bà đã tìm sự sống nơi có sự sống, trong hành trình làm người và chú tâm đến người khác. Simone Weil chết vì kiệt sức ở Anh, ngày 24-08-1943. Bà 34 tuổi.