Tribute
|
Hoạ sĩ Ngọc
Dũng, vì sao rơi vào bất tận
Note:
Bài
viết này, ĐC viết từ còn còn Diễm Xưa, khi họa sĩ mới mất, trong có chi
tiết tuyệt
cú mèo của Gấu, lấy từ bài viết của Gấu.
Mới đây, Blog NXH @ VOA bổn cũ soạn lại, trong khi bạn ra lệnh cho Gấu
phải viết
bài mới, chờ VOA đăng rồi mới được đăng lại!
Bây giờ, bài viết chạy về trong nước, nhưng than ôi, bị thiến mất cái
ruột tượng,
khi qua Hải Quan!
Chán thế.
Nhân đây, post lại cả 3 bài liên hệ, tiện nói thêm.
Bức ‘Mọi’, “Nu Campuchia” Ngọc Dũng tặng bà cụ thân sinh TTT. Sau 1975,
Trần Lê Nguyễn
đói quá, biết tranh ND đang có giá, đến năn nỉ Cụ; Cụ thương tình đưa
cho, lấy
giá tượng trưng, TLN bán được đâu cũng bộn tiền. Lần bạn C. về thăm Cụ,
lần Cụ
đau nặng, thấy tình hình không ổn, bèn dinh mấy bức còn lại qua San
Jose, Gấu
ghé được nhìn thấy, bèn đi mấy pô hình...
Tưởng
niệm Ngọc Dũng
Mai
Thảo
Họa sĩ Ngọc
Dũng, vì sao rơi vào bất tận
VOA
Anh
là bạn
mày, tao với Mai Thảo là vậy, và theo Nguyễn Quốc Trụ, bạn thân của
Chất, em
trai anh Tâm (Thanh Tâm Tuyền) thì: trong nhóm Sáng Tạo, anh T. thân
nhất với Ngọc
Dũng. Đó là tôi nghe qua cụ Chất. Tôi là người thường được cụ tâm
sự…Ngọc Dũng
khi đó còn sống độc thân, nghèo. Và thường tới cụ Chất để xin tiếp tế
gạo. Anh
có chiếc ruột tượng, mỗi lần tới, cụ Chất đổ gạo vô, rồi anh đeo quanh
người,
phủ chiếc áo lên, ra về…” (NQT, Tưởng niệm Họa Sĩ Ngọc Dũng).
Cái
ruột tượng,
qua hải quan, bị thiến mất!
Chi tiết thần sầu này, vô Guiness được đấy!
Miếng cơm,
manh chữ
Người viết đọc
lại những gì đã viết, về một quãng đời trong có bóng dáng một họa sĩ
(Ngọc
Dũng) vừa ra đi, và nhận ra một điều: cái đói ám ảnh ngay từ dòng chữ
mở đầu...
Hay nói một cách khác: đây là những kỷ niệm về cái đói.
Nào là cái
ruột tượng đựng gạo, nỗi sợ mỗi lần nhìn thấy... cháo, cơn đói lả mà cứ
tưởng
là bịnh...
Nhưng “cái
no” cũng có những kỷ niệm để đời, đối với một thằng nhỏ Bắc Kỳ!
Ông cụ tôi mất
sớm. Bà cụ một nách bốn con, cứ phải tha đi nhà này nhà nọ, để ăn chực.
Ăn chực
chán quê nội, qua tới quê ngoại. Hai làng cách nhau cũng chừng gần chục
kí lô
mét. Lần đó, thằng bé tới nhà bà trẻ, được ăn no cành hông, đi không
nổi, rồi
đau bụng quá, vì quá nặng bụng! Thấy thằng nhỏ nhăn nhó, mọi người lại
tưởng bịnh,
riêng bà trẻ hiểu ngay nguồn cơn, ra lệnh: ra sân chạy! Ì ạch một hồi,
mới đỡ
đau. Lúc đó mới nhớ lại cái cảnh “tầu phù” nằm chết như rạ, khi sang
tước khí
giới quân đội Nhật, tại một ga xe lửa miền bắc. Do ăn no quá, bể bụng,
(‘phù’ ở
đây chắc là biến thể của ‘phình’).
Tác giả một
bài viết trên tờ Gió Ðông, xuất bản ở Ðức, (đã đình bản), sau khi đọc
lại một số
tiểu phẩm, đã đưa ra một nhận xét: nhà văn Việt Nam hay nói về miếng
ăn. Và
hình như đây là một nỗi ám ảnh, một “định mệnh văn chương”. Nhân đó,
ông nói về
tác phẩm Marie Sến, của Phạm Thị Hoài: cũng vẫn những chiếc phong bì.
Cũng vẫn
miếng ăn, miếng nhục.
Trần Ðăng
Khoa, trong cuốn Chân Dung và Ðối Thoại, chê Nguyễn Tuân, tuy mê ‘ăn’,
nhưng
chưa đưa nó lên thành nghệ thuật. Ông tự hỏi, hết chuyện viết rồi hay
sao, chẳng
lẽ văn chương chỉ là chuyện về miếng ăn... tồi tàn?
Theo tôi, cần
phải phân biệt giữa cái đói, ám ảnh của nó, với miếng ăn, như một cái
cần, và
sau đó, như một cái đẹp.
Trả lời phỏng
vấn, về chuyện phải từ bỏ đất nước, và quan trọng hơn, phải từ bỏ tiếng
mẹ đẻ, nhà
văn Romania, Cioran cho biết: phải viết văn bằng tiếng “ngoại” là một
tai nạn lớn
lao đối với một nhà văn. Ông kể hai kinh nghiệm, tưởng như chẳng liên
hệ, về chữ
viết “ngoại”, và về miếng ăn “ngoại”.
Cho tới năm
1947, ông vẫn viết văn bằng tiếng Romania. Tới bữa đó, ông tính dịch
Mallarmé
sang tiếng Romania. Bất thình lình, ông tự hỏi chính mình: “Thậm vô lý!
Ích chi
đâu, khi dịch Mallarmé sang một thứ tiếng mà chẳng ai biết?” Thế là,
tôi từ bỏ
tiếng mẹ đẻ. Tôi bắt đầu viết văn bằng tiếng Tây. Thật trần ai khoai
củ. Viết
văn bằng một ngôn ngữ khác là một kinh nghiệm đáng sợ. Người ta phải
mầy mò với
từng chữ. Khi viết bằng tiếng mẹ đẻ, tôi cứ thế mà viết, giản dị như
vậy đó. Chữ
viết không có quyền độc lập, đối với tôi (Les mots n’étaient pas
‘indépendants’
de moi). Khi viết văn bằng tiếng Tây, mấy con chữ như thách đố tôi:
chúng như ở
trong những xà lim (cellules), và tôi phải nhặt ra từng con: nào tên
này, nào
tên kia, ra đây biểu!
Kinh nghiệm
đó, theo ông, y hệt kinh nghiệm về miếng ăn, cũng ngày đầu tới Paris.
Lần đó,
ông trọ tại một khách sạn nhỏ, khu ‘người em xóm học’ (khu Latinh). Bữa
đó, ông
xuống nhà gọi điện thoại, và thấy nhân viên coi khách sạn, bà vợ, và
ông con
trai: cả ba đang sửa soạn bữa ăn, họ như đang sửa soạn kế hoạch cho một
trận
đánh! Tôi sững người: ở Romania, tôi luôn luôn được nuôi ăn như một con
vật, chẳng
thèm để ý tới “ăn nghĩa là gì”. Ở Paris, tôi mới nhận ra ăn là một nghi
lễ, một
hành động văn minh, gần như xác định một thái độ chính trị.
Vũ Bằng phân
biệt hai miền qua món ăn: món ngon miền bắc ‘đấu’ với món lạ miền nam.
Ôi chao,
những cái lỉnh kỉnh, nhiêu khê, cầu kỳ, nhưng thật cần thiết, không có
không được
của một tô bún thang, cái mỏng dính của một lá bánh cuốn Thanh Trì, cái
thú ngồi
canh bánh trưng ngày tết... chỉ tới khi vào Nam, hết sợ đói, thằng bé
Bắc Kỳ mới
mới thấy “thấm thía” cái tuyệt vời của một miếng ăn.
Cái tuyệt vời
của những kỷ niệm khi còn là một đứa bé chuyên môn đi ăn chực, tại một
miền đất.
Nguyễn Quốc
Trụ
Chú thích: Tựa
đề là của PTH
|
|