Thanh Tâm
Tuyền
Nghệ Thuật
Đen
Gọi nghệ thuật
đen là thứ nghệ thuật bi đát phẫn nộ, thứ nghệ thuật dục tình suồng sã,
thứ nghệ
thuật vô luân trắng trợn. Thứ nghệ thuật bị các nhà đạo đức lên án, bị
con người
văn minh chối nhận, bị những người Mác-xít dè bỉu – những hạng người
rất nghịch
nhau lại gặp nhau ở điểm này.
Gọi nghệ thuật
đen là nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của những tên “mọi”
trong xã
hội. Nhưng này, tất cả những nhà đạo đức, những người văn minh, những
người
Mác-xít, hãy nhận lấy một sự thực: “mọi” cũng là người và nghệ thuật
của “mọi”
cũng là nghệ thuật của người. Và bọn “mọi” ấy cũng muốn được phát biểu
ý kiến
như các ngài vậy.
Tại sao lại
có nghệ thuật đen?
Các nhà đạo
đức: Tình trạng suy đồi của tinh thần con người mất đức tin nơi Thượng
Đế, mất
hết ý niệm Thiện Ác, hoang mang lạc lõng không tìm được ánh sáng chân
lý trong
cơn khủng hoảng tột độ của một xã hội vật chất.
Người văn
minh: Phản ứng ngu muội thoái hoá của bọn người lạc hậu không thích ứng
được với
cuộc tiến triển của xã hội nhân loại, một khuynh hướng phản động luyến
tiếc một
thứ tự do ấu trĩ phát động bởi bản năng (gọi người văn minh là người
tin tưởng
chắc chắn vào lẽ tiến hoá của xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn trong mọi
địa hạt:
những nhà xã hội học, triết gia, khoa học, cách mạng chuyên nghiệp v.v…
và họ
là những người trông thấy tường tận, nắm giữ phần nào cái động lực tiến
hoá của
xã hội).
Những người
Mác-xít: Sản phẩm của xã hội tư sản trụy lạc, dấu hiệu giờ phút lâm
chung của
xã hội ấy, “ngày mai đang ca hát” dưới ngòi bút của những người góp
công với
lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa, còn bọn này – bọn làm nghệ thuật
đen – là bọn
người “đào huyệt” chôn mình và chôn luôn cái xã hội thối nát của chúng.
Tóm lại mọi
người đồng ý nghệ thuật đen là phản động, phản tiến hoá, phản nhân
loại.
Trong sự
phân tích tìm hiểu lý do phát sinh nghệ thuật đen, ba hạng người đại
diện kể
trên chỉ nhìn thấy vấn đề trên bình diện xã hội. Đành rằng nghệ thuật
nào cũng
chỉ là biểu thức của một xã hội, nhưng nó lại được phát biểu bởi những
cá nhân.
Bởi thế trên lộ trình dẫn từ xã hội vào cá nhân, không nói đó là một
con đường
quanh co khúc khuỷu khó dò tìm, thực tế xã hội đã bị chuyển hoá, biến
dạng, hơn
nữa với sự chủ động của cá nhân (lại không nói đến những nội quy của
thế giới
nghệ thuật) phản ảnh của xã hội có thể bị mờ nhạt hoặc biệt tích mở ra
những
chân trời mới trong tác phẩm. Lối giải thích văn chương nghệ thuật bằng
xã hội
chỉ giữ người ta đứng ở bên ngoài mà la lối hò hét với những thiên kiến
và chỉ
nạt nộ được những kẻ yếu bóng vía hay vô thức. Ba quan điểm kể trên
giải thích
và phê phán nghệ thuật đen là ba cấp độ rời xa dần trong sự tìm hiểu
nghệ thuật.
Nếu chịu đặt câu hỏi như thế này: Tại sao trong một tình trạng xã hội
như thế lại
sản sinh ra thứ nghệ thuật ấy? Sẽ thấy được điều trình bày như tất yếu,
như luật
nhân quả rơi vỡ và có một khoảng trống của vực sâu thăm thẳm mà lý luận
của người
ta đã nhảy vọt lấp liếm.
Nghệ thuật bắt
nguồn nơi đời sống biểu diễn của đời sống – hãy mở rộng hai chữ đời
sống theo
nghĩa thông dụng, đời sống cụ thể, hằng ngày, phức tạp, đừng giản lược
vào
trong sự vận động của xã hội, hay nghèo nàn hơn nữa trong sự vận động
của kinh
tế – đồng thời cũng là sự biểu thị của một tự do của một con người giữa
đời sống
trước xã hội. Muốn hiểu được nghệ thuật, khoan dán nhãn hiệu xã hội cho
nó: đó
là việc sau của lịch sử (trường hợp của cộng sản thường làm bởi họ có
quan niệm
lịch sử biện chứng, một quan niệm lịch sử đường thẳng, nên họ dám tin
lịch sử ở
trong tay họ nhào nặn) bởi cái ý nghĩa xã hội của nghệ thuật cũng chính
là ý
nghĩa lịch sử của nó; phải bắt đầu tìm hiểu ý nghĩa phát sinh của nghệ
thuật,
cái ý nghĩa trong tự thân nó, rồi nếu vẫn còn muốn hiểu cái ý nghĩa xã
hội của
nó thì từ đó suy ra mới may tránh được những sai lầm tai hại vì thiên
kiến vu
vơ không liên lạc chút nào tới nghệ thuật.
° ° °
Nghệ thuật
trước hết là một lối nhận thức đời sống. Nhận thức nào cũng bắt đầu
bằng sự
chia lìa cần thiết giữa một ý thức và đối tượng của nó. Cấp độ của sự
nhận thức
cao thấp là tùy theo sự chia lìa ấy sâu xa hay hời hợt. Hằng ngày người
ta sinh
sống trong một thế giới nhân loại được xếp đặt quy định trong một trật
tự được
tự nhiên hoá không nghi ngờ không dò hỏi, người ta sống yên ổn thoải
mái với những
thói quen, tiếp nhận hạnh phúc cũng như sự phiền muộn như những trái
cây ngon
ngọt hay đắng chát của Tạo Hoá ban cho, nhưng rồi một cơ hội nào đó
trật tự kia
bị xô lệch bởi những người khác, người ta có thể ngạc nhiên rồi quên đi
khi trật
tự vãn hồi, người ta có thể hoảng kinh vì không quên được trước cái
trật tự giả
tạo. Người ta cảm thấy từ đấy sự chia lìa giữa mình với đời sống xung
quanh, giữa
mình với mình, người ta tự hỏi, người ta cố gắng tìm cách trả lời,
người ta
hoài nghi. Như một cơn địa chấn – nói theo Nietzsche – con người lúc
bấy giờ thấy
mặt đất điên đảo dưới chân mình, một mình mình gánh nặng cả đời sống
trên hai
vai, nỗi hoảng kinh thất thần của chàng Roquentin trong tác phẩm của
Sartre lan
tràn ra bên ngoài như thế đó, chàng nhìn lọ mực để trên bàn, nhìn bàn
tay của
mình, cái mặt cái miệng của kẻ khác, cái rễ cây nơi công viên, những
sinh vật hết
sức tự nhiên đối với mọi người trở nên hãi hùng đối với chàng.
Nghệ thuật
đen bắt đầu bằng một ý thức chia lìa ghê gớm đó. Chia lìa ghê gớm thế
nghĩa là
gì? Đó là một bệnh trạng của trí thức thời nay chăng? Không. Đó là khởi
nguyên
của ý thức là mầm mống của thay đổi, của sáng tạo. Sự chia lìa ghê gớm
kia là
điều kiện cho một nhận thức sâu xa hơn về đời sống, rũ bỏ những huyễn
ảnh của kẻ
bấy lâu ngồi trong hốc đá chỉ nhìn những bóng chiếu in trên vách mà
tưởng là sự
thật. Triết lý luôn luôn là một sự khởi đầu, kẻ tới sau muốn lật đổ áp
lực người
thuở trước. Nghệ thuật đối với các tác giả lớn cũng là một sự khởi đầu.
Nghệ
thuật gần gũi với triết lý ở điểm này. Bởi thế không lấy làm lạ thứ
nghệ thuật
tầm thường là thứ nghệ thuật không có một nhận thức về đời sống, hay
nhận thức
đời sống theo những giản đồ được quy định từ trước. Khi Dostoievsky nói
người
ta chỉ sáng tạo được trong đau khổ, hãy hiểu nỗi đau khổ ấy là sự chia
xé tan
hoang của một ý thức tận trong phần sâu hút của nó bơ vơ trơ trọi ngoài
đời sống
muốn trở về gia nhập nhưng không thỏa mãn với trật tự hiện hữu và chưa
nhìn thấy
cái trật tự tìm kiếm.
Sự khác biệt
giữa lối nhận thức nghệ thuật và lối nhận thức triết lý là: lối nhận
thức thứ
nhất thiên về cụ tượng, cố gắng thâu tóm lấy sự toàn thể của thực tế
lúc xuất
hiện trong một ý thức khởi nguyên thông suốt – một thứ trực giác, theo
ngôn ngữ
thông thường -; lối nhận thức thứ hai thiên về quan niệm, cố gắng vượt
từ những
kinh nghiệm riêng tư đạt tới những ý tưởng chân xác phổ biến nhờ sự can
thiệp của
lý tính trong ý thức bằng sự sử dụng luận lý. Lối nhận thức của nghệ
thuật, so
với lối nhận thức triết lý, tất nhiên là mơ hồ hẹp hòi, nhưng lại giữ
được tính
cách cụ thể mạnh mẽ xúc động, tránh xa sự trừu tượng, cuộc phiêu lưu
tách rời
khỏi thực tế của một ý thức mãi đuổi theo sự tuyệt đối mà ra khỏi thế
giới nhân
loại lúc nào không biết. Nhận thức triết lý về đời sống ở một triết gia
bao giờ
cũng đến sau một nhận thức theo lối nghệ thuật đen ở nơi người ấy,
nghĩa là một
sự đột khởi xé toang ý thức dìm nó vào một cơn khủng hoảng đảo điên
trong một
thời khắc đặc biệt nào mà một kinh nghiệm rất nhỏ bé đơn giản hiện lên
tóm thâu
cả ý nghĩa của một đời một cách chập chờn kỳ lạ, trong bóng tối đến đặc
của
giao động đã rực rỡ ánh sáng; nhận thức triết lý sau này tới để phân
giải để
khơi sáng cái nhận thức khởi đầu ấy. Như thế sẽ không ngạc nhiên khi
thấy ảnh
hưởng mạnh mẽ của Lão Trang trong nguồn cảm hứng của thi ca xưa – bởi
lối nhận
thức của hai triết gia này rất gần với lối nhận thức của Sartre là
người có
“khiếu thực tế” (sens du réel) bởi bên cạnh những tác phẩm triết học
công trình
xây dựng thuần trí thức, ông thường quay về với lối nhận thức khởi đầu
bằng những
tác phẩm văn chương.
Vậy nghệ thuật
là một lối nhận thức đời sống riêng, có nguồn giống triết lý, những
nghệ thuật
lớn từ ngàn xưa vẫn phảng phất cái không khí siêu hình là thế. Nhưng từ
đây có
thể nhìn rõ sự phân ly giữa nghệ thuật đen và nghệ thuật xưa.
Bởi nghệ thuật
gần gũi với triết lý, chỉ cần một bước cố gắng của ý thức là có hy vọng
tới
(nhưng là một bước tự sát của nghệ thuật) nên nghệ thuật xưa có khuynh
hướng muốn
đồng hoá với triết lý. Phải đặt sang bên hội họa và âm nhạc, những nghệ
thuật
mà sự đồng hoá với triết lý là điều không thể quan niệm nổi, những
người trong
hai ngành này có thể có ý thức siêu hình nhưng sự thể hiện qua những
chất liệu
đặc thù là màu sắc cùng âm thanh đã giới hạn rõ ràng phạm vi của họ;
chỉ còn
văn chương vì cùng sử dụng ngôn ngữ nên sự tràn lấn giữa hai phạm vi
thật dễ
dàng. Nhưng ngay trong lĩnh vực văn chương, cái tham vọng của nhà văn
muốn đồng
hoá văn chương với triết lý bao giờ cũng dẫn tới sự thất bại trên bình
diện nghệ
thuật – không kể đến thứ vach đồng hoá với luân lý hay với chính trị là
thứ phản-văn-chương,
bởi nó chẳng mang tới một nhận thức nào về đời sống, nó chỉ minh họa
cho một nhận
thức đã được quy định giản lược từ trước. Người ta đã chẳng thường
trách tư tưởng
triết lý của Nguyễn Gia Thiều, của Nguyễn Du là thứ chắp nhặt vá víu
gượng ép
đó hay sao? Nếu có tìm được ý nghĩa gì về đời sống này qua tác phẩm của
những
tác giả ấy là ở chỗ khác ngoài ý muốn của tác giả – đây là điểm quan hệ
của văn
chương của nghệ thuật –: chính là ở chỗ biểu diễn đời sống bằng nghệ
thuật, một
nhận thức nghệ thuật về đời sống. Giải thích được sự thất bại này là
xác định
được phạm vi của nghệ thuật, vai trò của người làm nghệ thuật trong đời
sống.
Chẳng nên để tâm tới sự phê bình vội vã thô tục, bắt nguồn từ một mặc
cảm tự
tôn nơi các triết gia, là triết lý vốn là phần trí thức cao cả mà bọn
nghệ sĩ tầm
thường chưa bao giờ đạt tới được, nếu có cố gắng vươn lên may thành mô
đất bên
những đỉnh non chót vót. Mỗi ngành hoạt động tinh thần của con người
đều dựa
trên một năng khiếu riêng, phải biết tự đặt mình vào trong phạm vi
chuyên môn để
nhận định rõ vai trò, trách nhiệm của ngành hoạt động mình trong xã hội
loài
người. Nếu một người có thể hoạt động cùng một lúc trong nhiều ngành
khác nhau,
người ấy khi làm phải vạch những biên giới cho từng địa hạt để khỏi xâm
lấn
sang nhau. Văn chương gần gũi với triết lý, liên hệ với triết lý nhưng
chẳng thể
đồng hoá với triết lý.
Trước hết
người viết văn là người ràng buộc mật thiết với đời sống, một đời sống
cụ thể hằng
ngày đụng chạm quanh người hắn ngay khi hắn nhìn vào sự vật để tìm lấy
cái bản
thể hay đạt tới sự vĩnh viễn, cái khuynh hướng của hắn vẫn là phải chụp
lấy
trong những tình thế nhất định bằng những kinh nghiệm độc nhất; không
giống như
các triết gia, đối tượng chỉ là khởi điểm không quan trọng, họ tước bỏ
tất cả
những tính cách vô thường (nghĩa là cụ thể) để đạt cho được yếu tính
của sự vật,
nghĩa là đặt đời sống vào trong ngoặc, để dễ dàng theo đuổi những ý
niệm tuyệt
đối vượt ngoài thời gian và không gian. Cái ý nghĩa vĩnh cửu của đời
sống trong
văn chương, nếu đạt tới, vẫn bị giữ rịt giữa một hiện tại rõ ràng hiển
hiện, gọi
nó là một hiện tại bất diệt vậy, không bao giờ nó là một thứ tuyệt đối
khách
quan như cái ý niệm của Platon, của Hegel, hay – Thượng Đế (hoặc sự
Siêu hoá) của
các nhà hiện sinh Công giáo như Kierkegaard, Jaspers, hay Tự Do (viết
hoa) của
Sartre.
Sau đó, vì sự
tự vẫn trong triết lý – danh từ của Camus – mà nghệ thuật chẳng thể
đồng hoá với
triết lý. Sự như thế nào hãi hùng đầu tiên nói ở trên, nguồn gốc sáng
tạo của
nghệ thuật cũng như triết lý, đối với triết gia bao giờ cũng phải chấm
dứt, phải
tìm sự thăng bằng sáng suốt cho ý thức dẫn họ tới sự giải thích tất cả
bằng một
hệ thống hay một câu trả lời (những triết gia phi hệ thống). Khi một hệ
thống
hoàn thành, một câu trả lời được thốt ra là triết gia bị giam luôn
trong ấy, hắn
chẳng những chỉ đóng cửa với quá khứ mà còn luôn cả với tương lai nữa,
cùng với
hệ thống hắn bay ra ngoài đời sống ngự ở trên các thư viện đại học uy
nghi. Một
là hắn tin tưởng một cách hồn nhiên ngây thơ như Hegel là lịch sử đời
sống nhân
loại sẽ tuần tự thực hiện theo cái quá trình biện chứng của ý niệm
tuyệt đối đã
tìm thấy chẳng còn điều gì đáng để nói thêm nữa, một là hắn phải nhận
như Marx
là triết gia cần phải biến cải thế giới nghĩa là dựng xong hệ thống hắn
sẽ xuống
đường dùng võ lực bạo động cưỡng ép mọi người sống theo hệ thống của
hắn. Cả
hai thái độ ấy chẳng phải là thái độ của nghệ thuật. Mỗi tác phẩm nghệ
thuật là
một sự khởi đầu, một ý thức siêu hình (chữ siêu hình hiểu theo nghĩa
thời nay không
phải thuộc những địa hạt cao xa tách lìa với đời sống như trong triết
học cổ điển,
tính cách siêu hình có thể tìm thấy trong mọi hình thái sinh hoạt của
con người
hằng ngày) trong một khoảnh khắc nhất định, là sự dò hỏi của một tự do
đối đầu
với cảnh ngộ, chẳng bao giờ ý thức ấy muốn trói mình vào một hệ thống
hay một
câu trả lời dứt khoát. Người làm nghệ thuật chấp nhận cái thế chông
chênh hãi
hùng của ý thức sáng tạo không rút mình vào trong sự tự vẫn triết lý,
bởi khi
tiến tới một hệ thống hay một câu trả lời dứt khoát người ta đã nhắm
mắt nhảy vọt
qua cái vực mâu thuẫn hun hút trước mặt, quay lưng lại với những câu
hỏi thúc
bách lúc đầu vẫn còn theo đuổi, chặt đứt liên lạc với thực tế để đặt
chân tới mảnh
đất của tuyệt đối. Mà tuyệt đối là một ý niệm rỗng tuếch một ảo ảnh lừa
dối, nó
cho phép người ta giải thích được tất cả và vẫn chẳng giải thích được
điều gì
ráo.
Nghệ thuật
đen chính là cái ý thức siêu hình trước những cảnh ngộ trong đời sống
hôm nay,
là biểu thị sự tự do của những con người bằng xương thịt trong những
tình thế
có thực của kiếp người, là lời kêu gọi cất lên cùng mọi người trong
cuộc hành
trình lịch sử phải sống.
Bởi đó nó bi
đát phẫn nộ, nó suồng sã dục tình, nó vô luân trắng trợn. Tại sao vậy?
Đã có một thời
nghệ thuật chỉ là ý thức thưởng ngoạn trước đời sống. Người làm nghệ
thuật tách
mình ra khỏi đời sống để nhìn ngắm nó một cách khách quan tìm lấy cái
lý tuyệt
đối vượt ngoài tính cách vô thường của vạn vật. Nghệ thuật này thường
tìm về gần
với tạo vật thiên nhiên vì ở đấy người ta tìm được một trật tự tự
nhiên, dẹp được
nỗi bàng hoàng của ý thức, thả cho ý thức được thảnh thơi ghi nhận lấy
những vẽ
Đẹp kín đáo vẫn có sẵn ở quanh mình. Nếu trước thiên nhiên tạo vật nỗi
kinh
hoàng của ý thức vẫn trỗi dậy, bước thêm bước nữa nghệ thuật này tìm
tới tôn
giáo, ở đấy những lý lẽ tuyệt đối tạo trong một trật tự đời đời không
còn phải
hoài nghi nữa. Tóm lại, nghệ thuật thoát từ đời sống cụ thể ra ngoài tự
nhiên rồi
bay bổng lên trời. Từ cái ngôi cao vút nhìn xuống đời sống – bởi nghệ
thuật này
vẫn không quên nổi đời sống – nghệ thuật làm hiển hiện cái lý tuyệt
đối, tinh
lý của đời sống chỉ là phản ảnh của cái thế giới tuyệt đối trên kia mà
thôi.
Người làm nghệ thuật bấy giờ đứng ở quan điểm Tạo Hoá, từ nhận thức cho
đến
cách thể hiện. Người ta đặt những quy luật chặt chẽ cho nghệ thuật, tìm
ra những
ước lệ – những yếu tố lý tưởng vĩnh viễn – mà ở nơi ấy đời sống bị tước
bỏ
nghèo nàn chỉ còn là một mớ ý niệm ký hiệu xếp đặt theo một khuôn mẫu
bất biến.
Ở nghệ thuật này, đời sống thường nhật, những sự vật nhỏ nhặt cụ thể,
những cá
nhân hèn mọn, những con người có xúc cảm có bản năng chỉ là những sinh
vật mang
theo những ước muốn những khát khao sát trên mặt đất, bị khinh bỉ, bị
gạt bỏ. Nếu
đôi lúc nghệ thuật có nhìn tới nơi này, là với một lòng xót xa của kẻ
bề trên,
nghệ thuật này có diễn tả sự xấu xa ghê tởm của xã hội cũng cố tạo
những rung động
thuần khiết, nhưng rung động có tác dụng đẩy thêm con người xa lìa sự
sống hiện
hữu, một rung động rất Đẹp. Người làm nghệ thuật không còn là một tự do
biểu diễn
đời sống, với một nhận thức thành nề néep hoá ra không còn là nhận thức
nữa, hắn
chỉ còn biết theo đuổi cố gắng đạt tới bằng mọi xảo thuật cái thế giới
lý tưởng,
thế giới Nghệ Thuật (viết hoa), thế giới Đẹp không dính dáng tới cái
kiếp người
hèn mạt của chính hắn và của người quanh hắn. Nếu chẳng may trong thời
kỳ này,
một vài hiện tượng đặc biệt xảy ra: Có những người ngoảnh mặt với cái
thế giới
tuyệt đối kia để nhìn thẳng vào đời sống đang ngọ nguậy xung quanh da
thịt
mình, thì thái độ của những kẻ bảo vệ thứ nghệ thuật viết hoa nói trên
hoặc là
mang con ngáo ộp luân lý ra để nạt nộ hoặc không thể chối cãi được về
giá trị của
công trình sáng tạo, họ chỉ còn cách kéo nó vào cái thế giới Đẹp của họ
và làm
ngơ trước cái sự sống ghê tởm (theo ý họ) chứa đựng trong nó. Chưa thấy
ai phân
tích tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều hay của Nguyễn Du như một nhận thức
mới lạ
trước đời sống, một ý thức siêu hình trong nghệ thuật của tác giả Cung
oán ngâm
khúc và tác giả Đoạn trường tân thanh (không phải là triết lý mà các
tác giả ấy
trình bày một cách minh bạch, cái ý thức siêu hình nằm trong sự nhận
thức đời sống
khi diễn tả vượt ngoài cả ý định của tác giả). Chưa thấy ai đả động đến
cái ý
nghĩa của sự thèm muốn nhục dục ghê gớm, được diễn tả bằng những câu
thơ nặng
những cảm xúc bằng giác quan, sự thái quá của tình ý đưa tới những phẫn
uất những
tuyệt vọng thê lương trong Cung oán ngâm khúc, tạo cho tác phẩm cái
không khí
căng thẳng dồn ép đáng sợ, như một ý thức siêu hình nơi Nguyễn Gia
Thiều; nếu
có nhắc tới một điểm nào ở trên người ta sẽ vội vã giải thích bằng sự
lạc lõng
trong tinh thần, sự sa đọa đáng được khoan dung (!) của cá nhân tác
giả. Với
Nguyễn Du cũng vậy, cái nhận thức sâu sắc, khởi từ một ý thức chia xé
hãi hùng
với kiếp sống, biểu diễn ra một tác phẩm phức tạp như Đoạn trường tân
thanh chỉ
được người ta nhận định đơn giản là một mối tâm sự bất mãn của Tố Như,
một dấu
hiệu của sự trụy lạc của đẳng cấp Tố Như, hay vô lễ hơn nữa là một dâm
thư hay
một công trình Nghệ thuật tinh tuý. Với quan niệm nghệ thuật như thế,
người ta
hủy diệt hết cái nội dung sống thực của tác phẩm để chỉ giữ lại cái vỏ
hình thức
rỗng không mỹ lệ một cách trâng tráo thô bỉ.
Cho nên cũng
chẳng thèm phiền trách những người khư khư với quan niệm nghệ thuật kia
khi họ
lên tiếng phê bình phán đoán nghệ thuật đen, chỉ muốn nói giúp họ nhận
định lại
một hiện tượng của thời đại bằng cặp mắt rộng rãi đứng đắn hơn, tránh
những
thiên lệch thiển cận dẫn họ tới cái thế bảo thủ vô ý thức một cách đáng
ghét.
Cái tính chất
đen đầu tiên của nghệ thuật hiện nay là sự bi đát đến phẫn nộ ít thấy
ngày trước.
Đừng giải thích vội vàng bằng sự bệnh hoạn của cá nhân, cũng không hẳn
hoàn
toàn là một tâm trạng của thời đại. Cũng đừng vội chê trách nghệ thuật
đen là
thứ chỉ đưa ra sự bế tắc, một thứ thuốc độc giết mòn tinh thần của
người đọc.
Khi nghệ thuật đen nhất định trói mình vào trong đời sống thực, nhất
định trung
thành với cái ý thức siêu hình phát động nguồn sáng tạo; không chịu dấn
thân
vào cuộc phiêu lưu thuần lý để đi tới chốn tự sát trong triết lý, nhận
thức trực
tiếp toàn diện một cảnh ngộ cụ thể bằng ý thức khởi đầu ấy, tất nhiên
đối với
những người vẫn quen tìm ở nơi nghệ thuật sự biểu diễn một trật tự sẵn
có hay
tìm thấy, một lời giải đáp minh bạch – nói theo tiếng thông dụng trong
giới văn
nghệ ngày nay: một lối thoát, tính cách xây dựng lành mạnh của nghệ
thuật – thì
nghệ thuật đen là bi quan lạc lõng. Nhưng nếu người ta chịu hiểu sâu xa
hơn một
chút rằng nhận thức nào cũng là một sự khẳng định và trong sự khẳng
định đã
giúp cho con người tìm lấy những phương tiện thích ứng để hoạt động
trong thế
giới sự vật – ngay sự nhận thức một tình thế tuyệt vọng qua tác phẩm
cũng là sự
khẳng định đối đầu với thực tế phũ phàng đòi tìm cách ứng phó, không
trốn chạy
bằng những ngõ ngách quắt quéo của cái thói tự gạt mình vô ích. Sở dĩ
nghệ thuật
đen không đưa lại một lời giải đáp thì chỉ có tính cách cá nhân của tác
giả, là
một trong rất nhiều lời giải đáp khác nhau, không thể tìm tính cách
chung bởi
như thế phản nghệ thuật. Nói rõ: nghệ thuật đen đứng lại là một lời kêu
gọi, ý
thức siêu hình sáng tạo của nó cố gắng đạt đến một nhận thức càng rộng
rãi đầy
đủ bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, phô bày qua tác phẩm những thực kiện
phức tạp
cho thật cụ thể chân xác, nỗ lực trong nhận thức triệt để về một cảnh
ngộ là đã
mở ra những tầm chân trời để tùy sự lựa chọn từng cá nhân đường lối
thích hợp
cho riêng mình giải phóng mình khỏi cảnh ngộ. Đối với xã hội, nghệ
thuật đen giữ
vai trò là một ý thức dò hỏi phát hiện những vấn đề có liên quan đến
kiếp sống
con người, một ý thức siêu hình luôn luôn thức tỉnh hoạt động trong
phạm vi của
nó, không có tham vọng giải quyết. Giải quyết thuộc phần vụ của các
ngành hoạt
động khác trong xã hội nhân loại, nói cho đúng là công trình của cả một
xã hội
trong sự vận dụng hết mọi khả năng của xã hội ấy. Làm sao lại bắt người
làm nghệ
thuật, một cá nhân chỉ có năng khiếu dễ gần gũi gắn liền với thực tế xã
hội
trong một đời sống văn minh phát triển ghê gớm về mọi mặt như ngày nay
phải có
được sự hiểu biết thông thái về mọi ngành để đúc kết tiên đoán về tương
lai, phải
làm một việc vượt ngoài khả năng của hắn? Người làm nghệ thuật hôm nay
rất
khiêm nhượng không muốn khoác cái bộ dạng lố bịch của một người thầy
đời bằng
những câu giải đáp nông cạn lý tưởng vô ích và hào nhoáng chỉ lòe được
đám học
sinh hay bọn trí thức một dúm; hắn biết rõ hắn chỉ là một cá nhân hèn
mọn, cái
kiến thức chuyên môn về các địa hạt tinh thần khác, nếu có, chỉ là một
mớ kiến
thức phổ thông sở đẳng so với những bậc thức giả mỗi ngành, trước mắt
các bậc ấy
những câu giải đáp của hắn chỉ là một trò múa rối của kẻ tự kiêu ngu
ngốc, hắn
tự định rõ vị trí của hắn trong hoạt động tinh thần nhân loại là tận
dụng hết
năng khiếu thực tế của mình để biểu diễn cái đời sống tầm thường hiện
thực hằng
ngày nơi ấy vẫn ẩn nấp trong mỗi thời khắc những vấn đề siêu hình (vẫn
hiểu
theo nghĩa rộng) mà ngày nay ảnh hưởng tới từng khía cạnh vụn vặt nhất
của cuộc
sinh hoạt. Nghệ thuật đen là ý thức siêu hình của xã hội, có thể là thô
sơ,
nhưng chắc chắn là thực tế nhất.
Người làm
nghệ thuật khi muốn vượt cái tính cách đen ấy của nghệ thuật là bước xa
nghệ
thuật, là thất bại trông thấy. Trường hợp của nhà văn quá cố Camus là
một. Những
tác phẩm đầu tiên của nhà văn này là những lời kêu gọi thống thiết một
nhận định
mới về cảnh ngộ sống của con người trước thời đại này là những tác phẩm
giá trị.
Nhưng khi ông biến sự phi lý của một cảnh ngộ có thực là con người
trong xã hội
Âu châu khủng hoảng, nhất là con người trí thức, thành sự phi lý của
kiếp sống
người đời, để rồi ông chọn lấy cái thế thăng bằng rất chông chênh của
một kẻ
Juste, đóng vai trò một nhà văn luân lý, làm nghèo nàn hẳn những tác
phẩm về
sau của ông. Từ La Peste đến La Chute nghệ thuật của Camus giản lược
dần chỉ
còn là kỹ thuật văn chương trau chuốt, đời sống thu hẹp vào trong cái ý
niệm trừu
tượng quen thuộc ở ông – cái kỹ thuật của La Chute cũng tố cáo sự tù
túng của
Camus trong một chuỗi độc thoại mà chủ đề được trình bày sáng sủa đơn
giản mạch
lạc như một tác phẩm luận thuyết – La Chute là sự khai triển cực độ của
nghệ
thuật Camus, thành công nhất nhưng cũng là dấu hiệu của sự tận cùng.
Nhận thức
về sự phi lý cụ thể của xã hội Âu châu trong cơn khủng hoảng đã khởi từ
Malraux
1, nhưng Malraux không hề đẩy đưa nó tới thành triết lý. Sự phi lý của
kiếp người
qua nhận thức của Camus chính là ở những người đòi hỏi sự tuyệt đối mà
vẫn biết
không đạt tới được đành quay trở về đời sống làm công việc vác đá leo
núi của
Sisyphe, “phải tưởng tượng rằng Sisyphe sung sướng” câu kết thúc tác
phẩm luận
thuyết về sự phi lý của ông thật là chua chát. Sự thực cuộc đời tự nó
không phi
lý, chỉ có những cảnh ngộ con người phải chịu đựng trong những thời
điểm nào đó
phi lý mà thôi. Đúng như Camus đã thú nhận sở dĩ có sự phi lý là ở nơi
con người
nhiều hơn ngoại vật, sự phi lý mà Camus mang trùm lên cho kiếp người
vĩnh viễn
chỉ có ở những người như Camus đã mất huyễn ảnh của tuyệt đối nhưng vẫn
không
ngừng luyến tiếc nó, sống giữa đời vẫn bị nó ám ảnh khiến cho thấy mọi
việc làm
ở đời đều vô ích luống công. Không muốn tự sát trong tư tưởng giống như
những
triết gia khác ở Tây phương tìm lối trở về với Tuyệt Đối do chính mình
phóng tưởng,
không phải là Thượng Đế cụ thể của tôn giáo, nhưng cũng không có can
đảm dứt bỏ
tuyệt đối trở về hẳn với đời sống thế tục, Camus đã chọn một bình diện
trung
gian giữa thế tục và Thiên Đường đã mất, đứng làm một kẻ Juste ở lưng
chừng trời
cảm thông vào việc đời biết là chẳng đi đến đâu mà vẫn hành động, hành
động để
nhắc nhở đến một thế giới tuyệt đối mà chính Camus biết rõ là không thể
có, sự
phi lý nằm sỗ sàng trong thái độ của Camus đó vậy. Đứng ở bình diện
trung gian
– làm gạch nối giữa tuyệt đối hư vô và cuộc đời hiện thực – tất nhiên
sẽ nhìn
thấy kiếp người vĩnh viễn chỉ là một chuỗi hành động vô nghĩa; những kẻ
tìm được
cái thế giới tuyệt đối cho họ cũng không nhìn đời phi lý như thế, từ
trên cao ấy
họ có thể trông thấy cái ý nghĩa của kiếp sống qua những phản ảnh của
tuyệt đối
ở nơi ấy. Khi đã chối nhận tuyệt đối, không thèm luyến tiếc bởi đã biết
nó
không có và chẳng bao giờ có, sống trong những cảnh ngộ hiện thực thì ý
nghĩa của
mỗi hành động tương quan với một cảnh ngộ trong sự giải phóng ra ngoài
cảnh ngộ,
giá trị của hành động không quy định bởi cái mù mịt của trống không.
Người ta
chẳng quyết định được tương lai để chứng thực hành động nhưng cũng
chẳng phải
người ta không có tương lai, tương lai sẽ đến bằng hành động của mình
cùng với
mọi kẻ khác và hành động ngoài ý nghĩa quy định bởi cảnh ngộ hiện thời
còn có một
ý nghĩa quy định bởi tương lai đã thành hình, quy định bởi kẻ khác, có
thể là
ngoài ý hướng của mình: ý nghĩa thứ nhất là ý nghĩa xã hội của hành
động; ý
nghĩa thứ hai là ý nghĩa lịch sử vậy. Camus thường thanh minh rằng ông
không phải
là một triết gia, đúng. Ông là một nhà văn luân lý kiểu Tây phương đó
vậy, cho
nên có gọi ông là nhà văn cổ điển ở thế kỷ XX cũng không phải là quá.
Khi ông
viết L’homme révolté, thuật lại cuộc phiêu lưu ý thức của ông cũng là
lúc chấm
dứt cuộc phiêu lưu ấy, những tác phẩm sau không mang thêm nhận thức nào
mới lạ,
chỉ củng cố cho một địa vị đã vững vàng trong các tủ sách của các bậc
trí thức
muốn học đòi theo ông, của các thư viện đại học rất bảo thủ, đưa ông
tới diễn
đàn Hàn lâm viện Thụy Điển nhận lấy vòng hào quang trao tặng đứa con
hoang đàng
trở về ngoan ngoãn dưới mái nhà đã có lần nó vùng vằng bất mãn bỏ đi.
Cái chết
bất ngờ nhốt luôn Camus vào quá khứ.
Bởi nghệ thuật
đen khởi đi từ một ý thức siêu hình bắt nguồn từ kiếp sống hiện hữu và
chỉ là một
nhận thức mở ngỏ kết cấu nên sau quá trình của một ý thức dò hỏi hết
nghĩa một
cảnh ngộ, và chẳng vội chịu tiến tới một kết luận nào nên nó bi đát. Và
phẫn nộ.
Phẫn nộ với chính nó. Nhưng nó không thể tự thỏa thuận, tự làm yên lòng
bằng
cách kết thúc sự dò hỏi bướng bỉnh bằng lời giải đáp dứt khoát, bởi như
thế nó
đã rời xa đời sống, bởi như thế nó đã vượt quá giới hạn của nó, bởi như
thế nó
đã đánh lừa nó đóng một vai trò không phải của mình, bởi như thế nó đã
tự vẫn
nó.
Sự bi đát phẫn
nộ hiển hiện trong cái ý thức siêu hình phiêu lưu không ngừng nghỉ của
nghệ thuật
đen vì quá ràng buộc với sự vận động thường trực của cõi thế phải chăng
là dấu
hiệu của sự suy đồi bạc nhược của tinh thần ở một cá nhân cũng như xã
hội? Cớ
sao không nhận định trái ngược lại, đó là dấu hiệu sự cường tráng đặc
biệt của
tinh thần khiến cho ý thức không biết mệt mỏi chán ngán tìm nơi ẩn trú
ngơi nghỉ
ở cõi tuyệt đối? Đối với xã hội, cái ý thức dò hỏi bướng bỉnh, chối
nhận những
giá trị đã lập thành, cớ sao không thấy đó là sự cố gắng mãnh liệt của
con người
tìm đường thoát thân trong cuộc đảo lộn toàn diện của một thời đại mà
các giá
trị cần được xét định lại, khởi đầu bằng những nhận thức mở ngỏ dũng
cảm một
giai đoạn phát triển hoá kiếp của xã hội. Nghệ thuật đen chỉ đóng vai
trò cất
lên lời kêu gọi, cuộc giải quyết là công trình của xã hội của lịch sử,
thành
hay bại không tính trước được, cho nên cũng có thể nó trở thành một sản
phẩm của
một xã hội mạt kiếp, nhưng cũng có thể nó là sự giác ngộ thúc đẩy trong
công cuộc
lột xác của một xã hội. Đó là một vấn đề thuộc lịch sử mà nghệ thuật
đen tự nó
không giải quyết cho nó được.
Nghệ thuật
đen là một ý thức siêu hình về đời sống thế tục, ý thức ấy có những
nguồn mạch
chằng chịt hút xuống trái đất. Nghệ thuật lý tưởng của một thời – là ý
thức thưởng
ngoạn bay bổng ngoài cõi tục – đã loại trừ ra khỏi nó cái đời sống mà
nó cho là
ô trọc, cụ thể, “vật chất”. Trong nghệ thuật này người ta khinh bỉ sợ
hãi cái
“xác thịt”, những “thực phẩm của địa cầu”, tất cả những gì còn mang
nặng cái chất
của một sự sống hữu hình, e rằng những thứ ấy là những vật nặng cản trở
sự tinh
tuý của ý thức đang muốn bay bổng lên cõi hư không. Bởi thế những quy
luật chặt
chẽ, những ước lệ kiểu mẫu trong phép thể hiện của nghệ thuật lý tưởng
là những
màng lọc cái chất sống tầm thường đến ghê tởm bám ý thức không cho lọt
vào,
tính cách nghiệt ngã của hình thức chỉ bằng lòng cho phép nhập nội cái
phần
tinh tuý của ý thức đã bị tước lược hết hình hài còn lại là những ý
niệm.
Nhận thức,
nhất là nhận thức bằng nghệ thuật, không phải là công trình của một
năng khiếu
thuần lý. Không có ý thức nói trống không bay lượn trong không không,
nói ý thức
là nói ý thức của một người, người bằng xương bằng thịt với những điều
kiện
sinh hoạt trong xã hội trong lịch sử và trong cảnh ngộ. Ý thức phát
động để cấu
thành nhận thức tiếp xúc ngoại vật không độc nhất bằng đường lối tư
duy; bởi ý
thức của một người chính là người ấy với mắt mũi chân tay đầu tóc cho
nên một
người có thể ý thức và nhận thức, một cách mù tối nhưng cụ thể nguyên
vẹn hơn,
bằng da thịt bằng cảm xúc giác quan. Nghệ thuật đen chuộng sự cụ thể,
trong
phép thể hiện của nó thường dùng lối nhận thức thô sơ này bởi ở đấy
ngoại vật
còn giữ được nguyên hình thể, tính chất của nó. Do đó trong nghệ thuật
đen dẫy
đầy những xúc cảm đứng lại ở giác quan còn thô kệch xù xì khó chịu, ý
thức “thuần
tuý” băng hoại bám vào mở rộng ngoài da thịt thành một thứ dục tình 2
suồng sã.
Sở dĩ sự nhận thức về cảnh ngộ tuyệt vọng của người cung nữ trong Cung
oán ngâm
khúc trở nên mãnh liệt ghê gớm khiến nàng phải thốt kêu những tiếng
phản kháng
đớn đau bởi tác giả đã trói buộc nhân vật của mình vào trong cái “xác
thịt” của
nó để cho nó không thoát lên được mà tìm những mối an ủi hứa hẹn lừa
dối của
“tinh thần” của lý trí để rồi phải chết dần mòn trong cảnh ngộ vẫn còn
khư khư
ôm lấy huyễn ảnh được giải phóng, cách thể hiện đầy xúc cảm trần tục
nhầy nhụa
trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều phát hiện hết cái thân phận cung
nữ. Nghệ
thuật Nguyễn Gia Thiều là nghệ thuật đen vậy. Xin nhường công việc phân
tích
tìm hiểu cái nhận thức siêu hình của Nguyễn Gia Thiều về kiếp sống qua
sự thể
hiện bằng thân phận của nhân vật cung nữ, bằng tác phẩm của ông cho các
nhà phê
bình văn học. Cái nhận thức của Nguyễn Gia Thiều tất nhiên là cấu thành
bởi cái
ý thức dò hỏi của ông trong cảnh ngộ sống, là thời Lê Mạt của thế kỷ
XVIII.
Dục tình
trong nghệ thuật đen là một phương cách của nhận thức siêu hình, hiển
nhiên
không phải là phương cách độc nhất. Nếu nghệ thuật đen có thường dùng
đến luôn
chỉ bởi phương cách ấy từ xưa vẫn bị nghiêm cấm khinh rẻ, dục tình
trong nghệ
thuật ở xứ ta là một khu đất hoang chưa được khai thác trong khi thật
sự nơi ấy,
cũng nh ưở những hình thái sinh hoạt nhân loại khác, tiềm ẩn cái ý
nghĩa siêu
hình của kiếp sống mà nhận thức nghệ thuật có thể phơi mở. Không tuyệt
đối tin
theo Freud rằng cuộc sinh hoạt nhân loại bị quy định thầm kín bởi dục
tình bởi
bản năng – sự sai lầm hư hỏng của Freud là muốn biến khoa tâm phân bệnh
học của
ông thành một triết lý toàn diện giải thích tất cả – nhưng cũng không
thể chối
rằng bản năng, dục tình không giữ vai trò gì đáng kể trong cuộc sinh
hoạt nhân
loại. Nghệ thuật đen không ngoảnh mặt với đời sống, đối diện với nó
trong mọi mặt
xuất hiện để theo đuổi dò hỏi ý nghĩa của nó. Hơn nữa, dục tình lại là
điểm
phát khởi của đời sống nhân loại lúc sơ khai và còn dự phần mãi mãi
trong đời sống
ấy, trong nó có chứa đựng cái ý nghĩa siêu hình thiết thực của thế tục.
Không
nhận thức nào cụ thể mạnh mẽ hơn về sự sầu khổ hay hân hoan bằng sự sầu
khổ,
hân hoan hiển hiện trong da thịt của một người, người ta không còn thể
chối cãi
rằng đó chỉ là tưởng tượng. Đáng thương cho những kẻ mà sự nhận thức
mới nằm
trong địa hạt của lý tính trong con người, nó làm cho họ trở thành kẻ
lạ mặt giữa
cuộc sống, kẻ lạ mặt trong chính thân xác họ. Đối với một vài cảnh ngộ,
dục
tình còn có thể và sự yêu mến tất cả. Trong dục tình người ta yêu cái
chết cùng
một lúc với sự sống. Nói như Sartre, “dục tình ném con người vào trong
lòng sôi
sục của tự nhiên và đồng thời nâng nó vượt khỏi tự nhiên do sự khẳng
định cái
quyền hạn của nó không được thỏa mãn” 3.
Chính từ khởi
điểm nghệ thuật đen cố gắng là một nhận thức sâu xa linh động về sự
vật, vượt
ngoài những khuôn sáo tĩnh chết đã bị thực tế chối bỏ, nên nó chấp nhận
dục
tình xưa nay bị nghiêm cấm làm phương tiện trong công cuộc theo đuổi
khám phá ý
nghĩa của sự vật. Và vì thế nó hiện ra trước mắt những người mà nhận
thức được
chết dí ở một nơi là thứ nghệ thuật vô luân trắng trợn. Trong xã hội,
cái đồn
lũy luân lý bao giờ cũng là nơi phòng vệ cuối cùng của khuynh hướng bảo
thủ trốn
tránh sự tấn công của những lực lượng cấp tiến đòi thay đổi, riêng
trong xã hội
cộng sản cái đồn phòng vệ ấy còn kiên cố hơn nữa gồm cả một hệ thống
giáo điều
của chủ nghĩa. Không muốn nhắc lại rằng nhận thức nghệ thuật khởi đi từ
sự cảm
nhận mạnh mẽ một cảnh ngộ có thực, mà những tiêu chuẩn của luân lý có
tính cách
khái quát và lý tưởng chỉ là chướng ngại cho nhận thức nghệ thuật chân
thực. Đối
với luân lý của một xã hội, nghệ thuật đen không phải tất yếu là phải
nhắm vào
đấy để công phá, cái ý hướng ấy cũng đã thu hẹp một phần nào nhận thức,
nó chỉ
gạt sang bên len lỏi không đếm xỉa tới khi nhận thức. Rất có thể đôi
khi nghệ
thuật đen phù hợp với một nền luân lý nào đó thì không phải là nó có
dụng ý
thuyết minh cho nền luân lý ấy mà chính nền luân lý kia đã tìm được ở
nó cái ý
nghĩa, cái lý do tồn tại của mình; và thường khi nó phản nghịch lại
luân lý xã
hội, đó không phải là nó vô luân mà chính bởi luân lý xã hội đã bắt đầu
mất ý
nghĩa, thiếu lý do tồn tại. Bởi một nền luân lý chỉ là một kiến trúc
những quy
ước tinh thần trên một trật tự lý tưởng để bảo vệ cho trật tự ấy. Khi
cái trật
tự lý tưởng con người dựng lên trước mặt để noi theo không còn thích
ứng với những
cảnh ngộ nó sống thì luân lý mất ý nghĩa ban đầu là con đường sáng cho
nó noi
theo chỉ còn là một nhà giam chật hẹp giết mòn đời sống của nó một cách
vô nhân
đạo. Cái ý thức siêu hình phát khởi nghệ thuật đen không kèm theo một ý
thức
luân lý để giới hạn nó lại trong sự thâu tóm ghi nhận cảnh ngộ, bởi cái
ý thức
trên có thể là khởi điểm cho một ý thức luân lý mới, nhưng nghệ thuật
đen không
muốn tiến tới đó. Sự sử dụng luân lý trên những đòi hỏi mới của con
người là
công việc của nhà luân lý học. Riêng đối với người tiếp thu nghệ thuật,
nghệ
thuật đen mở rộng tầm chân trời để tùy cá nhân nhận định lấy trong phần
cá biệt
của mình cái luân lý của một cảnh ngộ nhất định – sự thực vấn đề này
chỉ là một
phần trong vấn đề nhận thức mà không tiến đến kết luận của nghệ thuật
đen đã
nói đến ở trên. Vậy nghệ thuật đen là biểu thị một tự do trước cảnh
ngộ, kêu gọi
những tự do khác trong cuộc gặp gỡ xúc tiếp. Có thể bảo nghệ thuật đen
là phi
luân lý thì đúng.
Nói kết lại
nghệ thuật đen đóng vai trò khích động sự thức tỉnh của xã hội trước
những câu
hỏi cụ thể thúc bách thế tục, ném sự dò hỏi trâng tráo vào giữa mắt mọi
người vẫn
ngủ mê trong sự tin tưởng vu vơ trừu tượng ở cõi tuyệt vời càng ngày
càng mất
hút, kêu gọi mọi người trông thẳng vào cảnh ngộ đang sống, vận động
trước hết
cho một ý thức dũng cảm táo bạo nhận thức cho đầy đủ thực tế.
Và sau đó
chiều hướng của lịch sử, ý nghĩa của một kiếp sống tìm thấy vươn tới,
là thuộc
về mọi người định đoạt thực hiện.
Gọi nghệ thuật
đen không phải vì những ý nghĩa suy đồi lầm lạc người ta gán cho nó.
Gọi nghệ
thuật đen bởi liên tưởng tới một màu da của nhân loại, màu da đen. Đen
có thể là
một màu đẹp như đêm tối trong suốt vô cùng, như tròng mắt của người
thiếu nữ Á
Đông. Nhưng hiện thời đen tiêu biểu hết nghĩa cho một cảnh ngộ trong ấy
con người
chịu đựng sức nặng đè ép của sự vật, của một trật tự mấy nghìn đời.
“Cớ sao tôi
xanh, tôi sầu và tôi đen thế này?”. Hãy nghe tiếng kêu ấy của chàng
nhạc sĩ da
đen, hãy nghe những âm thanh đổ vỡ lổng chổng hay mệt mỏi thê thiết của
chàng
như hình ảnh của một thế giới dục tình bi đát.
Danh từ nghệ
thuật đen được tạo thành từ hình ảnh một màu da lại luôn luôn là thân
phận của
người, một thân phận mọi. Bởi thế nghệ thuật đen chính là nghệ thuật
hôm nay vậy.
--------------------------------
1 Xem
Malraux par lui-même của Picon hay La
Tenlation de l’Occident của
Malraux.
2 Chữ dục
tình hiểu theo nghĩa rộng như chữ Désir của tiếng Pháp.
3 …Du désir
qui (…) replonge l'homme au sein bouillonnant la Nature et l’élève en
même temps
au-dessus de la Nature par l’afirmation de son Droit à l’insatisfaction
(Situations I, trang 255).
nguồn:
talawas.org