Tribute
|
Thơ dịch
THANH
TÂM TUYỀN
MALLARMÉ
Le
vierge, le vivace et le bel aujourd’hui
Va-t-il
nous déchirer avec un coup d’aile ivre
Ce
lac dur oublié que haute sous le givre
Le
transparent glacier des vols qui n’ont pas fui
Un
cygne d’autrefois se souvient que c’est lui
Magnifique
mais qui sans espoir se délivre
Pour
n’avoir pas chanté la region où vivre
Quand
du stérile hiver a resplendit l’ennui
Tout
son col secouera cette blanche agonie
Par
l’espace infligée à l’oiseau qui le nie
Mais
non l’horreur du sol où le plumage est pris
Fantôme
qu’à ce lieu son pur éclat assigne
Il
s’immolise au songe froid de mépris
Que
vêt parmi l’exil inutile le Cygne.
Ngày
trinh nguyên, phơi phới thắm tươi
Chừng đập cánh say sảng lộng rách
Hồ đặc quên dưới giá ẩn hiện
Gương băng cánh chim xưa không bay
Con
thiên nga thuở cũ nhớ mình
Kỳ vĩ nhưng tự do vô vọng
Bởi chốn dung thân không hót tụng
Khi mùa đông trơ ánh chán chường
Vùng
thoát giấc trắng xóa tiêu hồn
Không gian chim rẻ rúng hãm cầm
Nào rớt bùn nhơ thân vấy tởm
Ma
quỷ tinh anh tự đọa trầm
Ngây sững chiêm bao lạnh khinh mạn
Lốt Thiên Nga ngày hão phiêu vong .
*
Aux
arbres
YVES
BONNEFOY
Vous
qui vous êtes effacés sur son passage,
Vous
qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles
garants que Douve même morte
Sera
lumière encore n’étant rien.
Vous
fileuse matière et densité,
Arbres,
proches de moi quand elle s’est jetée
Dans
la barque des morts et la bouche serrée
Sur
l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends
à travers vous quell dialogue elle tente
Avec
les chiens, avec l’informe nautonier,
Et
je vous appartiens par son cheminement
A
travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le
tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les
fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient
qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans
la mediation de votre austérité.
Với
cây rừng.
Rừng
cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không
Rừng
tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù
Sấm
âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.
Saturday,
April 3, 2010 7:40
PM
From:
To:
Chào
Ông !
Biết Ông yêu mến anh TÂM, tôi
gởi hai bài thơ dịch của anh TÂM sau năm 1975. Có thể ông chưa được xem.
Tôi chỉ quen biết anh TÂM sau
khi ở tù CS qua anh TÔ THÙY YÊN (vì có ở tù chung).
Hai bài thơ dịch này chỉ truyền tay trong
vòng
thân hữu, nay ông đọc xem như là tưởng nhớ anh TÂM sau 5 năm anh mất.
Cám ơn ông.
Phúc
đáp:
Cám ơn
bạn rất nhiều
Đúng là món quà hiếm quí
Tôi mạn phép bạn, post lên,
vì biết có rất
nhiều người quí mến nhà thơ TTT.
Phượng Hoàng và Bồ
Câu
Cái đẹp, sự thật, sự
hiếm quí
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đây.
Cõi chết Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ.
Không lưu truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.
Vẻ thật không sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai một.
Trước quanh quách đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ.
Thanh Tâm Tuyền dịch
The Phoenix and the
Turtle
Beauty, truth, and rarity,
Grace in all simplicity,
Here enclosed'd in cinders lie
Death is now the phoenix' nest,
And the turtle's royal breast
To eternity cloth rest,
Leaving no posterity -
"Twas not their infirmity,
It was married chastity.
Truth may seem but cannot be;
Beauty brag, but 'tis not she;
truth and beauty buried be.
To this urn let those repair
That are either true or fair;
For those dead birds sigh a prayer.
William Shakespeare
Nabokov: Fiodor Dostoievski
[1821-1881]
Biélinski,
trong thư gửi
Gogol, 1846, viết: … Sự cứu chuộc nước Nga hệ tại không phải nhờ chủ
nghĩa thần
bí, khổ hạnh, thuyết kiên tính, nhưng mà là trong những thành công của
văn
minh, học vấn, nhân ái. Điều cần cho nước Nga, thì không phải là những
buổi thuyết
giáo [thuyết giáo nhiều quá rồi!], những lời cầu nguyện [cũng nhiều quá
rồi],
mà là làm trỗi dậy ở trong dân chúng tình cảm về nhân phẩm, le
sentiment de la
dignité humaine, đã bị chôn vùi quá sâu, quá lâu, hàng bao thế kỷ, ở
trong vũng
lầy, đống phân, và trong sự áp dụng, càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu,
được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, những luật lệ và những quyền lợi phù hợp
không phải
với Nhà Thờ, Luật Chúa, mà là với lương tri và công lý.
Thay vì như thế, thì là quang cảnh ghê rợn của một xứ sở, nơi con người
lao vào những
thương vụ béo bổ: buôn bán
con người, cũng đâu thua gì đám chủ đồn điền Mẽo, khi họ tuyên bố,
người da đen
không phải là người; khi con người được biết tới không phải bằng cái
tên mà bằng những biệt danh ti tiện: Vanka, Vaska, Stechka, Palachka;
một quang
cảnh, và sau cùng, một đất nước, nơi không còn một chút đảm bảo về sự
toàn vẹn
của cá nhân con người và những của cải của họ, một đất nước ở đó, trật
tự
công chúng thì không được đảm bảo bởi cảnh sát; thay vì vậy, người ta
chỉ thấy
những tập đoàn khổng lồ những tên ăn trộm, ăn cướp, tham nhũng đóng vai
công
nhân viên chức. Những vấn đề quốc gia nóng bỏng của nước Nga lúc này
là: bãi
bỏ quyền sở hữu nông nô, huỷ bỏ những hình phạt về thể xác, và trong
chừng mực
có thể của nó, cố gắng áp dụng triệt để luật pháp. Nhà cầm quyền không
phải không
biết như vậy, và vì thế, họ đưa ra những luật lệ nửa vời, chẳng đi đến
đâu, chỉ
để vỗ về đám nhân dân ‘đen một nửa’, demi-nègres, của họ.
Vị thế của tôi đối với Dos
thì vừa kỳ cục vừa khó chịu, curieuse et incommode. Trong tất cả những
bài
giảng [những bài viết ở trong cuốn Văn
học/ 2 của Nabokov là những bài giảng cho sinh viên Mỹ về văn
chương Nga],
tôi tiếp cận văn chương theo góc độ độc nhất mà tôi thích thú: thiên
tài cá
nhân cưỡng lại thời gian, celui du génie individuel qui résiste au
temps. Nhìn
dưới góc độ đó, Dos không phải là nhà văn lớn, mà đúng ra phải nói…
thực, ông
là một tác giả tồi - với những loé sáng thực uyên nguyên, nhưng than
ôi, thất
lạc ở giữa những thảo nguyên của thứ văn chương tầm phào, nhạt nhẽo
[Dos n’est
pas un grand écrivain, mais un auteur plutôt médiocre – avec des
éclairs
de
réelle originalité, perdus, hélas, parmi les steppes de platitude
littéraire]…
Trong Tội ác và Hình phạt,
Raskolnikov giết mụ già cho vay nặng lãi và cô em gái của bà chỉ vì một
lý do
làm xàm, bá láp, pour une raison quelconque. Công lý, dưới con mắt của
một tay
cảnh sát nhà nghề, tà tà xiết những sợi dây chung quanh anh ta, và sau
cùng,
anh ta ‘đành’ thú tội công khai trước đám đông, và được ‘cứu vớt’, nhờ
tình yêu
của một bướm được trời phú cho những tình cảm cao thượng. Nhờ bướm cao
thượng
này mà anh ta từ từ tái sinh, đây đúng là một phép lạ, nếu chúng ta
nhìn lại
thời điểm cuốn tiểu thuyết được viết ra,1866: vào thời điểm đó, bướm
với những
tình cảm cao thượng như vậy gây sốc nặng nề ở nơi một độc giả sành sỏi,
un
lecteur averti.
Vấn đề của tôi [Nabokov] là,
những độc giả mà tôi đề cập tới trong những bài giảng này, hay những
độc giả
khác, thì không phải tất cả đều sành sỏi. Tôi có thể nói, một phần ba
trong số
họ thì đều không rành rọt, để mà phân biệt giữa văn chương thiệt, và
giả-văn
chương, pseudo-littérature, và đối với họ, những tác phẩm của Dos, đâu
phải thứ
thường: đó là những tác phẩm có vẻ quan trọng hơn, và thuộc thứ nghệ
thuật bảnh
hơn, so với ba thứ tiểu thuyết lịch sử ba xu của Mẽo, kiểu Khi còn
đàn ông
trên trái đất này, Tant qu’il y aura des
hommes, [hay Gió Lửa, Sông Côn Mùa Lũ…
của đám Mít! (1)]
Tuy nhiên, tôi sẽ lèm bèm khá
dài dòng về một vài nghệ sĩ lớn lao – và chỉ với thế giá của những bậc
như thế, chúng ta mới có thể đem Dos ra để mà so đo với họ. Tôi là một
ông thầy không
quá bảo thủ để mà đếch thèm lèm bèm về những tác giả mà tôi không ưa
[Trên TV
chẳng đã 'bookmark' toàn những thứ Gấu chán ngấy, như talawas, thí dụ,
là cũng vì
vậy!]
Tôi rất thèm làm cái việc
giải hoặc, démystifier, những thứ như Dos, [hay như Sến cô nương, và
những trò hề, "nhìn lại cuộc
chiến…" của chúng, trong khi ai cũng thấy rõ như ban ngày, đó là
tội ác Bắc
Kít!]
Hà, hà!
(1)
Note:
Trên, có đoạn của
Nabokov, có đoạn do Gấu… phịa.
Sorry abt that.
Tuy nhiên, nhắc tới SCML, vì
Dos được NMG coi là sư phụ.
Tant qu’il y aura des
hommes: Tên tiếng Tây của cuốn From here to eternity
Thiêng
thật. Vừa nhắc tới, là
có ta liền!
Bạn đọc
TV, đọc những dòng
Nabokov trích dẫn nhà phê bình "Gấu Liên Xô", Biélinski, trong thư
gửi Gogol, và tham vọng giải hoặc, [giải bùa mê của Dos], của ông, rồi
đối chiếu
cái nước Nga khốn khổ khốn nạn đòi cho được một vì Thiên Sứ, với nước
Bắc Kít, với giấc
mơ ăn cướp Đàng Trong ẩn bên dưới chân lý nước Mít là một, rồi đọc tâm
sự
của Sến Cô Nương, vừa mới bước vô cõi văn là đã mê ông già râu rậm, và
vì Thiên
Sứ của Sến…., thế là bạn nhìn ra được toàn cảnh Mít thời hiện đại và
hậu hiện đại.
Đâu phải tự nhiên mà Bác Hồ đọc Lênin mà khóc ròng, vì đã tìm ra được
con đường
cứu nước?
Tất cả những dây mơ rễ má đó, đưa đến đỉnh cao 30 Tháng Tư, và sau đó,
đưa xuống hố thẳm Anus Mundi!
*
I
am in sympathy with Dostoevsky, who was so infuriated by Russian
intellectuals who knew Europe better than they did Russia.
Orhan Pamuk: The Collector
Tôi chịu Dos: Ông cáu lắm khi đám trí thức Nga rành Âu châu hơn nước
Nga của họ.
5 năm TTT ra đi
Francis
Scott Fitzgerald sinh
năm 1896, tại Saint Paul,
Minnesota,
phía Bắc lạnh giá. Gia đình nghèo
[ruinée, tàn tạ, chữ của Philippe Labro & Olivier Barrot, trong Les
Lettres
d’Amérique. Hai tác giả này viết chung hai cuốn; một, Những lá thư từ
Mẽo, và một,
Những lá thư Anh, Lettres Anglaises].
Saint Paul là thành phố TTT vĩnh viễn nằm xuống.
Gấu,
lần đầu tiên nói chuyện điện
thoại, khi mới qua bên này được ít lâu, ông có nói về cái vụ dời Tiểu
Sài Gòn lên
phía Bắc.
Đó là nhờ số tiền nhuận bút
cuốn Thơ ở đâu xa, do Trầm Phục Khắc đưa.
Ông nói, hồi đó tôi [ông hay
xưng ‘tôi’, gọi Gấu bằng ‘cậu’] đâu có biết, thơ làm sao mà bán được,
nếu biết,
chắc là không cầm số tiền đó.
Ông không chịu nổi không khí
Tiểu Sài Gòn.
Rồi ông kể khu ông ở, lối xóm da đen, dễ chịu lắm.
*
Tôi luôn luôn coi Những Con
Quỉ là một cuốn sách công khai hoá những bí mật nhục nhã mà đám trí
thức tiến
bộ (những kẻ sống xa trung tâm, ở mép bờ của Âu Châu, hục hặc với những
giấc mơ
Tây Phương của họ, và bị hành hạ bởi những hồ nghi của họ về Thượng
Đế), mong
giấu kín, chúng ta.
Pamuk Những Con Quỉ Đáng Sợ
Của Dostoevsky.
Ui
chao, bạn đọc những dòng
trên, song song với những đoạn trong Bếp Lửa, thí dụ đoạn Tâm và Đại cà
khịa
với nhau về Dostoevsky, hay Tâm trả lời tay Nhiên, khi qua Bắc Ninh dậy
học tại
một trường đạo...
*
Chúng tôi bước ra sân. Người
thanh niên vẫn chăm chú làm việc không để ý đến sự có mặt của tôi. Đại
cầm ở
tay cuốn Crime et Châtiment. Tôi hỏi:
“Cậu đến trường luôn không?”
“Không.”
“Làm gì ở nhà?”
“Đọc sách và suy nghĩ.”
“Suy nghĩ về phép giết người
chăng?” Tôi nói đùa.
Đại không đáp. Chúng tôi đứng
nhìn xuống khu xóm lao động phía dưới. Đại bỗng nói:
“Nó đến trường tìm mình dữ
lắm.”
“Cậu quyết định thế nào?”
Đại trầm ngâm một phút:
“Chưa.”
Đại là sinh viên khoa học, đã
qua được chứng chỉ căn bản. Hắn bị gọi động viên và đang trốn.
“Nghĩ gì về Dostoievski?”
“Bệnh.”
Tôi không ưa lối nói cụt lủn
của Đại. Hắn rất say đắm chủ nghĩa cộng sản
*
“Anh cho là có Thượng Đế hay
không?”
Tôi suy nghĩ rồi trả lời:
“Câu hỏi ấy chưa bao giờ làm
tôi thắc mắc cả.”
"Tôi không nghĩ đến nó."
Nhiên lại hỏi:
“Anh có nhận rằng ở đời có một
cái gọi là Thiện, một cái gọi là Ác, có công bằng, có tự do, bác ái…"
Tôi trông thẳng vào mặt Nhiên
đáp:
“Có chứ tại sao không?”
“Vậy mà anh lại không tin
Thượng Đế thì lạ thật.”
“Tôi tưởng những ý niệm ấy
họp nhau thành một ý niệm hoàn hảo hơn tất cả là Thượng Đế. Thường
thường người
ta nghĩ một vài ý niệm khó thỏa hiệp với nhau như bình đẳng và tự do,
nhưng đạt
đến sự hòa hiệp chính là tìm về Thượng Đế rồi còn gì.”
Tôi bước vài bước đắn đo:
“Tôi nhắc lại với anh tôi
không suy nghĩ về vấn đề ấy. Theo tôi có những lúc người ta cần giải
quyết giữa
người với người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy. Có mặt khi
không cần
thiết, Thượng Đế sẽ bị nhơ nhuốc lây và có thể bị mất ngôi. Mà ngôi
Thượng Đế
có lẽ cần thiết lúc khác.”
“Thượng Đế sẽ giải quyết được
những vấn đề của loài người nếu loài người biết tìm về Người.”
“Không, tôi không tin như
thế, Thượng Đế không sống cái sống xác thịt của nhân loại. Khi Thượng
Đế nhập
thể thành người như Chúa Jésus hay Phật Tổ thì chính ở những người ấy
Thượng Đế
đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người, và chỉ có thể
thoát ra
với sự thất bại…”
*
Ui chao, vô ý đụng
vô Dos, thế là khốn khổ khốn nạn với ổng
Post thêm một
bài ngắn của Borges, trong đó, ông
chỉnh nhẹ Nabokov.
PROLOGUES
TO A PERSONAL
LIBRARY
Fyodor
Dostoevsky, Demons
Like the discovery of love,
like the discovery of the sea, the discovery of Dostoevsky marks an
important
date in one's life. This usually occurs in adolescence; maturity seeks
out more
serene writers. In 1915, in Geneva,
I avidly read Crime and Punishment in
the very readable English version by Constance Garnett. That novel,
whose
heroes are a murderer and a prostitute, seemed to me no less terrible
than the
war that surrounded us. I looked for a biography of the author. The son
of a
military doctor who was murdered, Dostoevsky (1821-1881) knew poverty,
sickness, prison, exile; the assiduous exercise of writing, traveling,
and
gambling; and, at the end of his days, fame. He professed the cult of
Balzac.
Involved in an indeterminate conspiracy, he was sentenced to death.
Practically
at the foot of the gallows where his comrades had been executed,
Dostoevsky's
sentence was commmuted, but he spent four years in forced labor in Siberia, which he would never forget.
He studied and expounded the
utopias of Fourier, Owen, and Saint-Simon. He was a socialist and a
pan-Slavicist. I imagined at the time that Dostoevsky was a kind of
great
unfathomable God, capable of understanding and justifying all beings. I
was
astonished that he had occasionally descended to mere politics, that he
discriminated and condemned.
To read a book by Dostoevsky
is to penetrate a great city unknown to us, or the shadow of a battle. Crime and Punishment revealed to me,
among other things, a world different from my own. When I read Demons, something very strange occurred.
I felt that I had returned home. The steppes were a magnification of
the
pampas. Varvara Petrovna and Stepan Trofimovich Verkhovensky were,
despite their
unwieldy names, old irresponsible Argentines. The book began with joy,
as if
the narrator did not know its tragic end.
In the preface to
an
anthology of Russian literature, Vladimir Nabokov stated that he had
not found
a single page of Dostoevsky worthy of inclusion. This ought to mean
that
Dostoevsky should not be judged by each page but rather by the total of
all the
pages that comprise the book.
1985
Jorge Luis Borges: Selected non-fictions.
Edited
by Eliot Weinberger
Fyodor
Dostoevsky, Những Con
Quỉ
Như ngộ ra tình yêu, khám phá
ra biển, sự khám phá Dos đánh một cái dấu ngày tháng quan trọng lên đời
một người,
và cú này thường xẩy ra khi vừa mới lớn; đám lớn tuổi mò tới những tác
giả thanh thản
hơn. Vào năm 1915, tại Geneva,
tôi ngốn ngấu Tội ác và Hình phạt,
qua bản dịch tiếng Anh rất dễ đọc của Constance Garnett. Cuốn tiểu
thuyết này,
mà những nhân vật của nó là một tên sát nhân và một em điếm, đối với
tôi, có vẻ
khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến đang bủa vây quanh…
Borges
Nếu
chúng ta coi cuốn Buồn Nôn của
Sartre được viết trên cái nền là khúc nhạc Jazz, Ôm em
trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới,
Some of these days, I will miss U, honey, thì
cái bóng của cuốn Tội Ác và Hình Phạt,
mà tay Đại khư khư cầm trên tay phủ lên toàn thể những ngày tháng ở Hà
Nội, của
Tâm, của Đại, "khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến vây quanh" những
ngày 1954, và sau cùng là,“đi
và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết.”
“Cô không phải là
đàn ông. Hôm nay người ta có thể thân nhau lắm mà ngày mai đã hững hờ
rồi, vì
nhiều nguyên cớ mà cũng có thể chẳng có nguyên cớ nào hết. Rồi người ta
lại có
những người thân khác, thân khác nữa, mỗi năm, mỗi giai đoạn của cuộc
sống.”
Bếp Lửa
Ngày 22 tháng 3
năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận
xét về
thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến
tranh' của
một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh
hay khung
cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Năm năm đã qua,
liệu đã đến lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của ông, như
cách nhìn
của Steiner về nhà văn và thời của người đó, rằng, tất cả văn chương
lớn thì giầu
có hơn, và vượt ra ngoài vòng ôm của một thời, that all literature is
richer
than any single subsequent time could possibly appreciate in full. (1)
Đây cũng là ý của
Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai của môn nghiên cứu
văn học
Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn, công nhận, và đánh
giá, chủ
yếu về điều gần gụi với những ngày của chính họ. Tác giả bị cầm tù bởi
thời của
anh ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời tiếp thời và những thời
kế tiếp
nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và giới học giả
được vời tới
để tham sự vào sự giải phóng này” (1)
(1) Reading
George Steiner, [Đọc Steine], Nathan A. Scott,
Jr.
and Ronald A. Sharp
biên tập, The Johns Hopkins University Press.
Sở dĩ Gấu này phải
đợi 5 năm nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào cái công cuộc
giải phóng
nhà thơ ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó đóng chặt nhà thơ vào thời
của ông,
và sự hiện diện của chính ông!
*
Tờ
Le Magazine Littéraire, số về
Dos, 3.2010, có bài của Trần Minh Huy giới thiệu Nam Lê, và Con tầu của anh.
Linda Lê,
trong mục Sổ Tay nhà văn, viết về Melville.
Cái tít truyện ngắn bảnh nhất
của Nam Lê, “Tình yêu, Danh dự, Thương hại, Kiêu ngạo, Thông cảm, Hy
sinh” là
từ Faulkner. Nhận xét của Hawthorne,
về Melville làm nhớ đến Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác.
Nam Lê, phát hiện về một cắc
kè hoa
Đâu
phải tình cờ mà truyện ngắn
thần sầu mở ra Con tầu, tập truyện ngắn
lọt mắt xanh giới phê bình và được giới thưởng ngoạn vồ vập ngay khi
vừa ra lò,
lại trình ra một anh chàng Nam lớ ngớ, thèm làm nhà văn và đang trong
cơn
khủng hoảng sáng tạo, bị chiếu bí bởi chính ông bố, từ tận đẩu tận đâu
chợt tới
thăm con.
Phải viết về cội nguồn của mi
ư, Nam,
như đám cò mồi văn học đề nghị? Chúng vẫn mê thứ văn học có mùi chủng
tộc…. Người
ta không thể giản lược một tác giả về gốc gác, cũng không thể, về những
nét riêng,
cũng không thể, về giai cấp xã hội của người đó. Theo tôi, nhà văn chỉ
được xét
đoán qua những chữ của anh ta.
Đừng tự nhốt mình, cũng đừng quên
gốc gác, gia tài một ngàn năm nô lệ thằng Tầu…
Nathaniel
Hawthorne nhìn thấy
ở ông ta [Melville], một con người cũng đành cam chịu chìm vào hư vô,
không thể
nào tin, và cũng không thể cảm thấy thoải mái, về cái sự vô tri của
mình.
Nathaniel Hawthorne voyait en
lui un homme résigné à être anéanti, incapable ni de croire ni d’êre à
l’aise
dans son incroyance.
Kiệt mà
chẳng 'cũng đành bò về
để chìm vào hư vô...'. trong cuộc chiến khốn kiếp, bởi một viên
đạn của một tên đại
uý khùng, ư?
Bạn
phải đọc cái đoạn kết
thúc cuộc tình Kiệt & Oanh & Hiền, dưới đây, thì mới thê lương
là chừng
nào: Cái tên khùng giết người tỉnh bơ chạy tập thể dục dưới bầu trời Đà
Lạt!
Trời
trắng nhễ nhại. Dưới các
lũng, sương đang tan dần còn những vệt nhỏ phơ phất. Cỏ lá xanh tươi.
Ngày hy
vọng có nắng. Gã Trung Sĩ chui ra khỏi gian hầm bước lững thững trên
quảng
trường trống trải lặng lẽ. Các lớp học đã hoạt động.
Trong
khi ấy, dưới Vũ Đình
Trường nhìn thấy bao quát từ trên bãi đậu xe sau nhà Bộ Chỉ Huy, Đại Úy
On mặc
nguyên đồ trận, áo ngự hàn dã chiến, quấn khăn đỏ quanh cổ, đang chạy
bộ lẽo
đẽo một mình. Gương mặt y ngước vác như mải ngắm vòm trời đã sáng bạch.
1972-1973
Một
Chủ Nhật Khác
Tại sao
đám Bắc Kít, thí dụ, Sến
cô nương, [và TTT, tất nhiên], mê Dos; hay nói rộng ra, mê văn học Nga?
Câu trả lời đúng nhất, chắc là
của Steiner, qua Joseph Macé-Scaron, tay viết bài éditorial cho số về
Dos, trên
Le Magazine Littéraire:
Tại Nga, nhà văn, chỉ nhà văn,
là một nhà nước đổi chiều, un “État altenatif”. Trong một trò chơi phức
tạp và
tàn nhẫn chẳng thay đổi chi kể từ thế kỷ 18, những nhà văn lớn lao Nga,
trước
khi trở thành tài sản quốc gia, luôn luôn bị Điện Cẩm Linh truy đuổi,
tàn sát.
Steiner, trong tuyển tập những bài viết cho tờ Người Nữu Ước, cho rằng,
tất cả
văn chương Nga, [ngoại trừ những bản văn lễ bái, tất nhiên!] thì, phải
có tính
chính trị như là nền tảng của nó, bởi vì, chỉ có nó, là cái thứ hành
động chống
lại sự vô trật tự được an bài. (1)
Chỉ có
nó dám nói không với
nhà nước, thứ nhà nước băng hoại.
Đây cũng là quan điểm của Brodsky,
khi ông cho rằng chính trị mới là đỉnh cao của văn học.
Mỹ là mẹ của đạo hạnh.
Viết văn càng bảnh bao nhiêu
thì cái tâm càng sáng theo bấy nhiêu!
Rất
nhân hậu, và cảm động, là
vậy.
Hà, hà!
[Tks U. NQT]
*
(1)
It is a
routine
observation-the Russians are the first to offer it-that all of Russian
literature (with the obvious exception of liturgical texts) is
essentially
political. It is produced and published, so far as it can be, in the
teeth of
ubiquitous censorship. One can scarcely count a year in which Russian
poets,
novelists, or dramatists have worked in anything approaching normal,
let alone
positive, conditions of intellectual freedom. A Russian masterpiece
exists in
spite of the regime. It enacts a subversion, an ironic circumlocution,
a direct
challenge to or ambiguous compromise with the prevailing apparatus of
oppression, be it czarist and Orthodox ecclesiastical or
Leninist-Stalinist. As
the Russian phrase has it, the great writer is "the alternative
state." His books are the principal, at many points the only, act of
political opposition. In an intricate cat-and-mouse game that has
remained
virtually unchanged since the eighteenth century, the Kremlin allows
the
creation, and even the diffusion, of literary works whose fundamentally
rebellious character it clearly realizes. With the passage of
generations, such
works-Pushkin's, Turgenev's, Chekhov's-become national classics: they
are
safety valves releasing into the domain of the imaginary some of those
enormous
pressures for reform, for responsible political change, which reality
will not
allow. The hounding of individual writers, their incarceration, their
banishment, is part of the bargain.
Steiner: Under Eastern Eyes
*
Trong bài viết Thời giết người, Killing Time, về cuốn 1984
của Orwell, cho tờ Người Nữu Ước, Steiner cho biết,
cuốn sách
còn một cái tít nữa, là The Last Man in
Europe, Người cuối cùng ở Âu Châu, nhưng sau cùng, tác giả và nhà
xb, còn là
bạn thân của Orwell, đã chọn cái tít 1984. Bản thảo cuốn sách được hoàn
tất tháng
11 năm 1948, và Orwell đã giản dị đảo ngược 48 thành 84.
“Nó là một cuốn sách mà tôi
không tính đánh bạc với nó trên phạm vi lớn” [It isn’t a book that I
would
gamble on for a big scale], ông viết thư cho nhà xb vào Tháng Chạp 1948.
Thành công của cuốn sách vượt
quá sự tưởng tượng của mọi người, như chúng ta đều biết. Nhưng nhận
định của
Steiner về nó, mới thật là tuyệt cú mèo: Bằng cách gọi như thế, Orwell
đã xén thời gian, lấy một mẩu cho riêng ông (1). Và như thế, theo
Steiner, 1984 bảnh
không thua gì K mẫu tự của Kafka: Kafka nhận xét, vào năm
1914:
"Tôi nhận thấy mẫu tự (letter) K tởm lợm, hầu như phát mửa; tuy nhiên
tôi
viết nó ra, nó phải có một đặc trưng của tôi." Trong bảng mẫu tự cảm
tính
và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người.
Ui
chao, nếu nhìn như vậy, thì
cuốn Bếp Lửa có lẽ còn một cái tít thật
bảnh cho nó là: 1954!
Và như thế câu phán của Quỳnh
Dao lại quá quá thần sầu!
(1)
By opting for Nineteen Eighty-Four, George Orwell
achieved an uncanny coup. He put his signature and claim on a piece of
time. No
other writer has ever done this. And there is, I think, only one
genuine
parallel in the records of consciousness. Kafka knew (we have his
witness to
this realization) that he had made his own a letter in the Roman
alphabet. He
knew that "K" would for a long time to come stand for the doomed mask
that he assumed in his fictions that it would point ineluctably to
himself. The
litany of the letter is spelled out by the English poet Rodney Pybus in
his
"In Memoriam Milena":
K and
again K and again K
K for Kafka
K from The Castle
K from The Trial
K the mnemonic of fear:
O Franz
I cannot
escape that letter K after K-
But
although it is now active
in scores of languages (I understand that "Kafkaesque" has adjectival
status even in Japanese), the identification of “K" with Kafka probably
does not extend beyond a literate minority. On a scale vastly beyond
the enormous
readership of the novel itself, Nineteen
Eighty- Four has been, will be drummed into man's time sense.
Shakespeare
does not own "S"; no twelve months are his monopoly. The Nineteen
Eighty-Four preemption is one
that neither literary theory nor semantics is really equipped to deal
with.
G. Steiner: Killing Time [trong
George Steiner at The New
Yorker]
“Cô không phải là
đàn ông. Hôm nay người ta có thể thân nhau lắm mà ngày mai đã hững hờ
rồi, vì
nhiều nguyên cớ mà cũng có thể chẳng có nguyên cớ nào hết. Rồi người ta
lại có
những người thân khác, thân khác nữa, mỗi năm, mỗi giai đoạn của cuộc
sống.”
Ngày 22 tháng 3
năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận
xét về
thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến
tranh' của
một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh
hay khung
cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Năm năm đã qua,
liệu đã đến lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của ông, như
cách nhìn
của Steiner về nhà văn và thời của người đó, rằng, tất cả văn chương
lớn thì giầu
có hơn, và vượt ra ngoài vòng ôm của một thời, that all literature is
richer
than any single subsequent time could possibly appreciate in full. (1)
Đây cũng là ý của
Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai của môn nghiên cứu
văn học
Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn, công nhận, và đánh
giá, chủ
yếu về điều gần gụi với những ngày của chính họ. Tác giả bị cầm tù bởi
thời của
anh ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời tiếp thời và những thời
kế tiếp
nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và giới học giả
được vời tới
để tham dự vào cuộc giải phóng này” (1)
(1) Reading
George Steiner, [Đọc Steine], Nathan A. Scott,
Jr.
and Ronald A. Sharp
biên tập, The Johns Hopkins University Press.
Sở dĩ Gấu này phải
đợi 5 năm nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào công cuộc
giải phóng
nhà thơ ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó đóng chặt nhà thơ vào thời
của ông,
và sự hiện diện của chính ông!
*
Tại sao
đám Bắc Kít, thí dụ, Sến
cô nương, [và TTT, tất nhiên, và, Gấu nữa, cứ lải nhải về ba cái chuyện
Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!], mê Dos; hay nói rộng ra, mê văn học Nga?
Câu trả
lời đúng nhất, chắc là
của Steiner, qua Joseph Macé-Scaron, tay viết bài éditorial cho số về
Dos, trên
Le Magazine Littéraire:
Tại Nga, nhà văn, chỉ nhà văn,
là một nhà nước đổi chiều, un “État altenatif”. Trong một trò chơi phức
tạp và
tàn nhẫn chẳng thay đổi chi kể từ thế kỷ 18, những nhà văn lớn lao Nga,
trước
khi trở thành tài sản quốc gia, luôn luôn bị Điện Cẩm Linh truy đuổi,
tàn sát.
Steiner, trong tuyển tập những bài viết cho tờ Người Nữu Ước, cho rằng,
tất cả
văn chương Nga, [ngoại trừ những bản văn lễ bái, tất nhiên!] thì, phải
có tính
chính trị như là nền tảng của nó, bởi vì, chỉ có nó, là cái thứ hành
động chống
lại sự vô trật tự được an bài. (1)
Chỉ có
nó dám nói không với
nhà nước, thứ nhà nước băng hoại.
Đây cũng là quan điểm của Brodsky,
khi ông cho rằng chính trị mới là đỉnh cao của văn học.
Mỹ là mẹ của đạo hạnh.
Viết văn càng bảnh bao nhiêu
thì cái tâm càng sáng theo bấy nhiêu!
Rất
nhân hậu, và cảm động, là
vậy.
Hà, hà!
[Tks U. NQT]
*
(1)
It is a
routine
observation-the Russians are the first to offer it-that all of Russian
literature (with the obvious exception of liturgical texts) is
essentially
political. It is produced and published, so far as it can be, in the
teeth of
ubiquitous censorship. One can scarcely count a year in which Russian
poets,
novelists, or dramatists have worked in anything approaching normal,
let alone
positive, conditions of intellectual freedom. A Russian masterpiece
exists in
spite of the regime. It enacts a subversion, an ironic circumlocution,
a direct
challenge to or ambiguous compromise with the prevailing apparatus of
oppression, be it czarist and Orthodox ecclesiastical or
Leninist-Stalinist. As
the Russian phrase has it, the great writer is "the alternative
state." His books are the principal, at many points the only, act of
political opposition. In an intricate cat-and-mouse game that has
remained
virtually unchanged since the eighteenth century, the Kremlin allows
the
creation, and even the diffusion, of literary works whose fundamentally
rebellious character it clearly realizes. With the passage of
generations, such
works-Pushkin's, Turgenev's, Chekhov's-become national classics: they
are
safety valves releasing into the domain of the imaginary some of those
enormous
pressures for reform, for responsible political change, which reality
will not
allow. The hounding of individual writers, their incarceration, their
banishment, is part of the bargain.
Steiner: Under Eastern Eyes
*
Trong bài viết Thời giết người, Killing Time, về cuốn 1984
của Orwell, cho tờ Người Nữu Ước, Steiner cho biết,
cuốn sách
còn một cái tít nữa, là The Last Man in
Europe, Người cuối cùng ở Âu Châu, nhưng sau cùng, tác giả và nhà
xb, còn là
bạn thân của Orwell, đã chọn cái tít 1984. Bản thảo cuốn sách được hoàn
tất tháng
11 năm 1948, và Orwell đã giản dị đảo ngược 48 thành 84.
“Nó không phải là một cuốn sách mà tôi tính đánh bạc với nó trên phạm
vi lớn” [It isn’t a book that I
would
gamble on for a big scale], ông viết thư cho nhà xb vào Tháng Chạp 1948.
Thành công của cuốn sách vượt
quá sự tưởng tượng của mọi người, như chúng ta đều biết. Nhưng nhận
định của
Steiner về nó, mới thật là tuyệt cú mèo: Bằng cách gọi như thế, Orwell
đã xén thời gian, lấy một mẩu cho riêng ông (1). Và như thế, theo
Steiner, 1984 bảnh
không thua gì K mẫu tự của Kafka [Kafka nhận xét, vào năm
1914:
"Tôi nhận thấy mẫu tự (letter) K tởm lợm, hầu như phát mửa; tuy nhiên
tôi
viết nó ra, nó phải có một đặc trưng của tôi." Trong bảng mẫu tự cảm
tính
và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người.]
Ui
chao, nếu nhìn như vậy, thì
cuốn Bếp Lửa có lẽ còn một cái tít thật
bảnh cho nó là: 1954!
Và như thế câu phán của Quỳnh
Dao lại quá quá thần sầu!
1984, K, 1954 và... BHD!
Why not?
(1)
By opting for Nineteen Eighty-Four, George Orwell
achieved an uncanny coup. He put his signature and claim on a piece of
time. No
other writer has ever done this. And there is, I think, only one
genuine
parallel in the records of consciousness. Kafka knew (we have his
witness to
this realization) that he had made his own a letter in the Roman
alphabet. He
knew that "K" would for a long time to come stand for the doomed mask
that he assumed in his fictions that it would point ineluctably to
himself. The
litany of the letter is spelled out by the English poet Rodney Pybus in
his
"In Memoriam Milena":
K and
again K and again K
K for Kafka
K from The Castle
K from The Trial
K the mnemonic of fear:
O Franz
I cannot
escape that letter K after K-
But
although it is now active
in scores of languages (I understand that "Kafkaesque" has adjectival
status even in Japanese), the identification of “K" with Kafka probably
does not extend beyond a literate minority. On a scale vastly beyond
the enormous
readership of the novel itself, Nineteen
Eighty- Four has been, will be drummed into man's time sense.
Shakespeare
does not own "S"; no twelve months are his monopoly. The Nineteen
Eighty-Four preemption is one
that neither literary theory nor semantics is really equipped to deal
with.
G. Steiner: Killing Time [trong
George Steiner at The New
Yorker]
*
Từ 1967 tới 1997, George
Steiner viết cho tờ The New Yorker,
thế chỗ tiền nhiệm của ông là Edmund
Wilson. Hơn 130 bài viết. Phần lớn là điểm sách, luận-điểm,
review-essays, nhiều
bài dài bằng khổ chuẩn của một tuần báo, weekly magazine. Một số bài viết nay được in thành một tập với cái tên George Steiner ở tờ Người
Nữu Ước. Và trong một số bài đó, có vài bài, thật tuyệt
cú mèo, với riêng “Gấu nhà văn”, thí dụ, hai bài viết về văn học Nga,
một dành
riêng cho Sozhenitsyn, De Produndis,
và một, cho ‘cái gọi là’ văn học Nga, Dưới con mắt Đông phương, Under Eastern Eyes.
Bài viết Dưới cái nhìn Đông phương này giải ra được
một số “kỳ án”: Tại
làm sao mà văn học Nga lại luôn ở cái thế bắt buộc phải đối nghịch với
nhà nước?
Tại sao những nhà văn Tây phương thèm được làm nhà văn đồng nghiệp
phương Đông,
thèm bị bách hại, thèm được đi tù cải tạo?
Với riêng Mít, nhất là Bắc Kít,
tại làm sao chúng mê văn học Nga, và liệu văn học Nga, ở những ông nhà
văn “vệ
quốc”, có phần tội của họ, khi giúp sức cho đám Bắc Kít ăn cướp Miền
Nam?
Không phải tự nhiên mà cuốn Tội ác và Hình phạt lại
nằm chình ình ở
trong Bếp Lửa của TTT, những ngày
1954.
Cũng không phải tự nhiên mà Sến
cô nương vừa mới bước chân vào chiếu văn là đã mê ông già rậm râu Dos!
5 năm TTT ra đi
Mi ở đây bao
lâu rồi?
Phép lạ bí ẩn
Jorge Luis Borges
Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho
sống lại và
nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261
Lời người dịch: Vào một buổi
sáng tháng
Tư, có một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào thành phố, đã vui
mừng thốt
lên, như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một
người, thay
vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với
thế gian
này. [HHT]
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những
ai đã
từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong
truyện...
NQT
*
Nhân vật chính trong Phép lạ
bí ẩn của Borges, là một
nhà văn Ngụy, vào ngày 30 Tháng Tư, khi đám VC vô Sài Gòn, bèn bị bắt,
và vì đang
ôm ấp cưu mang một tác phẩm, anh ta bèn xin Thượng Đế cho anh tí thời
gian để
hoàn tất nó, và Thượng Đế OK.
Nhưng chỉ đến khi bị đem ra xử
bắn, vào đúng cái ngày giờ ghi trên bản án, thì anh ta mới ngộ ra là,
“từ lúc tên
VC hô lệnh bắn, cho đến lúc anh ta té xuống là anh ta có quá dư thời
giờ để hoàn
tất tác phẩm”!
Đó là phép lạ bí ẩn!
Bây giờ
chúng ta tự hỏi, liệu
cái khoảng cách từ lúc tên VC hô, “Bắn”, cho tới bây giờ, vào giờ này,
như Gấu đang
viết đây, và sắp đi đây, là tất cả khoảng lịch sử của đám Miền
Nam: Bị bắt đi Kinh tế
mới, đi tù
cải tạo, liều chết vượt biển, xây dựng quê hương mới ở hải ngoại, bò về
bắt tay
VC….?
*
Anh đâu có tài liệu chi,
ngoài hồi ức của riêng mình. Đám rong chơi tài tử, vốn đã quên những
chương
đoạn mơ hồ, phù phiếm, họ không thể tưởng tượng, anh đã từng có được
một sự
nghiêm thủ hạnh phúc, khi làm chủ từng khổ thơ thêm vô đó. Anh không
làm, cho
hậu thế, ngay cả cho Thượng Đế, cũng không, những thưởng ngoạn văn
chương cũng
chỉ là vô danh đối với anh. Hết sức tỉ mỉ, không cử động, hết sức bí
mật, anh
dệt đúng thời gian, mê cung vô hình, kiêu hãnh của anh. Anh làm đi làm
lại hai
lần, hồi thứ ba. Anh bỏ đi những biểu tượng quá lộ liễu: tiếng đập của
thời
gian, của âm nhạc. Chẳng có gì thúc hối anh. Anh bỏ bớt, anh cô đọng,
anh
khuếch đại. Có chỗ, anh trở lại nguyên bản. Anh thấy mình trở nên trìu
mến cái
sân, doanh trại, một trong những mặt tiền của nó, trước mặt anh, đã sửa
đổi
quan niệm của anh về tính tình của Roemerstadt. Anh khám phá ra rằng,
những tạp
âm nặng nề đã làm Flaubert bực mình rất nhiều, chỉ là những mê tín thị
giác, sự
yếu đuối và giới hạn của chữ viết, không phải chữ có âm thanh, trầm
bổng... Anh
kết thúc bi kịch của anh. Anh chỉ còn bận tâm với mỗi một câu. Anh đã
kiếm thấy
nó. Giọt mưa lăn trên má anh. Anh bắt đầu một tiếng kêu man rợ, xoay
mặt qua
một bên. Ba bề, bốn phía, một luồng hơi đẩy anh té xuống.
Jaromir Hladík chết vào ngày
29 tháng Ba, lúc 9:02 sáng.
*
Ui
chao, lần đầu đọc đoạn trên,
Gấu cứ nghĩ Borges viết riêng cho Gấu!
Bây
giờ, chúng ta thử áp dụng
phép lạ bí ẩn vào trường hợp nhà thơ TTT, qua những nhân vật thế thân
của ông.
Kiệt
Chỉ trong khoảnh khắc ngắn
ngủi của phép lạ bí ẩn, từ lúc tên đại uý khùng bắn, và anh té xuống ở
ven rừng
Đà Lạt, là cuộc tình của anh, như được mô tả trên đây.
Trong không khí của mùa hè
nóng bỏng chiến tranh....
Thư của
Ngọc:
“Tâm ơi,
Thế là tao đi rồi. Không hiểu
sao tao cứ đinh ninh mày sẽ xuống gặp tao. Nghĩ rằng mặt mày sẽ ngơ
ngác như
chú chim chích trong rừng sao tao khoái làm vậy.
Còi tầu đã rúc, khói tầu đã
nhả, sóng biển đã vỗ và hồn đây căng buồm. Còn bao giờ tao trở lại mảnh
đất này không? Không biết, mặc.
Tao đi không mang theo hành
lý chỉ có hình ảnh mẹ, các em và chúng mày. Thế là quá nặng cho một
người. Mày sẽ từ biệt hộ tao với vợ chồng Bảo. Ờ tao đi không phải chia
ly
mà chính chúng mày chia ly hộ tao mới sướng chứ. Tao đã dặn bà chủ nhà
trong
trường hợp mày xuống, bà sẽ trao bức thư này, cho mày tá túc vài hôm
tùy ý mày.
Cứ yên chí ở chơi coi như tao vắng nhà ít bữa.”
Tôi không biết nên bắt đầu
như thế nào buổi chiều này. Ra khỏi nơi Ngọc ở, tôi đứng trước một khúc
phố
rộng nhưng xơ xác chạy tới phía nhà ga hiu quạnh. Bên kia đường vài
gian nhà
đang xây dở. Tôi đi mãi trong phố đông người
và rẽ vào một rạp chiếu bóng. Tôi dẫn một đứa bé lem luốc ở cửa rạp
cùng vào.
Tôi trở ra khi buổi chiều lặng lẽ xuống. Những người đi làm về. Tôi gặp
những
toán lao động trai gái. Tôi có cảm tưởng Ngọc lẫn đâu trong ấy và trêu
cợt tôi. Dần dần tôi đến khu nhà Tây
vắng vẻ. Tôi mong gặp một người quen. Ngồi trên kè đá tôi nhìn mặt
nước rộng, nước cuộn chảy. Những chiếc thuyền và những thân tàu. Một
người ngoại quốc biểu
diễn trượt nước trên dòng sông. Sau lưng tôi, người ta đi hóng gió. Một
vài đôi
tình nhân, một vài cặp vợ chồng, một chiếc xe nôi của con Tây. Chiều
xuống thấp mãi gần mặt
nước. Tiếng còi tàu um um. Tôi đứng lên, đèn đã thắp.
Cây cao tối như trong vườn nhà thương. Tôi về trải chiếu trên căn
gác ọp ẹp Ngọc đã ở. Hắn đi thật rồi, như ông Chính đã chết, Đại đã đi.
Không
muỗi nhưng hơi lạnh về giữa đêm. Tôi mê gặp Hạnh và tỉnh giấc. Tôi
không nhớ
mình đang nằm ở đâu, mình đến đây làm gì. Chưa bao giờ tôi cảm thấy
tuyệt vọng
ghê gớm đến như thế. Tôi có thể tự tử được. Nhưng tôi tự nhủ: Cũng thế
thôi,
phải, cũng thế thôi.
Bếp Lửa
Raskolnikov
Écartelé
entre Satan et Dieu
- raskol signifie « la division » -, le héros
de Crime et châtiment
annonce, par ses errances, le monde kafkaïen.
Par CÉCILE LADJALI
De
Gogol à Pouchkine, Saint-Pétersbourg
est la ville satanique, et Rodion Romanytch Raskolnikov est l'esprit du
lieu.
Étudiant hypocondriaque, criblé de dettes, il survit chez sa logeuse,
Héléne
Ivanovna. L'usurière inspire un dégout insigne au héros qui lui fend le
crâne à
coups de hache. Le crime atroce se complique d'un second meurtre : dans
la
panique, Raskolnikov tue Élisabeth, la sœur d'Hélène. La littérature et
le mal,
tels que le xxe siècle va les inventer dans leurs intrications au
non-sens, se
disent déjà.
La figure du diable peut bien
se présenter à Raskolnikov en cauchemar. Telle double qui apparaît à
Goliadkine
sur son lit, le diable (ici Svidrigaïlov) est assis sur la couche de
l'étudiant
perclus de fièvre. L'ennemi, sorti d'un tableau de Füssli, incarne le
nihilisme. Comme le diable des Frères
Karamazov dévidant sa célèbre formule: Nihil
humanum a me alienum puto, rien de ce qui est humain n'est
indifférent à
Svidrigaïlov. Drapé dans le linge infect d'une fausse empathie,
l'Esprit de
Négation dialogue avec le héros fasciné dont il devient le double
puissant.
Pourtant, Crime et châtiment va être
le récit d'une prise de conscience. Le
meurtre est nommé “la chose”, périphrase qui nous ramène au vocabulaire
inquiétant de la psychanaalyse. Le commissaire aux enquêtes,
Porphyre
Petrovitch, pressent la vérité. Dans le jeu de la maïeutique policière,
les
protagonistes semblent les doubles grotesques du psychanalyste et du
malade.
Porphyre dit au suspect qu'il faut avouer sinon il va devenir fou.
Raskolnikov est terrassé par
les fièvres. Son esprit vacille après le meurtre. Il parle dans son
sommeil. Au
matin, tel Macbeth, il nettoie ses habits souillés de sang et cache les
objets
volés dans un trou. Sa paranoïa atteint des sommets devant le
lieutenant La
Poudre, qui le convoque pour une simple réclamation de dettes.
L'étudiant
interprète tout, il pense trop.
Aïeul de l'arpenteur
kafkaïen, héros absurde, Raskolnikov erre et perd toute notion de
l'endroit où
il se trouve. La ville devient un labyrinthe, la photographie de son
cerveau
malade. Dans la rue, un inconnu lui lance un lapidaire «Assassin! », pierre maudite
qui lui
écrase le cœur et lui fait prononcer ces mots déments: «Une mouche
volait et
elle a vu.» Le roman glisse alors dans l'esthétique du gothique noir,
et le
monde se scinde en deux. Dostoïevski est virrtuose dans l'art de perdre
son
lecteur, car sans doute faut-il accepter provisoirement l'étrange pour
entrer
de plain-pied dans la psyché de Raskolnikov.
Raskol
signifie« la division
». Raskolnikov est l'homme écartelé entre Satan et Dieu. Pour retrouver
l'unité
perdue, le héros doit demander pardon. Le salut ne s'obtenant que par
la
souffrance, il faut être un criminel pour être parrdonné. Porphyre est
un
truchement vers la rédempption. Il se métamorphose en prédicateur: «
Découvrez la
foi en Dieu et vivez. Donnez-vous franchement à la vie sans raisonner.»
C'est
la grande leçon du livre, à laquelle fait écho la célèbre phrase du
folklore
allemand: « Le diable est dans le détail. » D'ailleurs, Dostoïevski
écrit dans Notes d'un souterrain que «trop
penser est une maladie».
Mais c'est la femme qui sauve
le héros. Les figures de prostituées sont légion, et Raskolnikov
s'étonne de
leur humanité. À la tête du cortège, il y a Sonia. Sorte de
Marie-Madeleine,
elle lit à Raskolnikov un passage de la Bible (prêtée par Élisabeth)
décrivant
la résurrection de Lazare. Bouleversé, il se décide à avouer.
Raskolnikov est
condamné à huit ans de bagne. Dans cette autre « maison des morts », il
se souvient de son
crime. À force d'introspection, il a la révélation de son amour
pour Dieu et Sonia. Dans la souffrance, il communie avec l'humanité.
L'impossibilité
de l'amour était son enfer. L'expérience intime du temps de l'exil le
sauve quand
la solitude luciférienne qui l'enfermait dans un crime absurde se meut
en
béatitude.
LE MAGAZINE LITTÉRAIRE MARS
2010 N°495
*
Tôi không biết sau tôi, nhà văn
Mai Thảo có nói với ai khác, về việc ông bị “khép tội” chủ trương phong
trào
văn chương “viễn mơ”? Với tôi thì không. Sau lần nói chuyện với nhau ở
tiệm cơm
Ngọc Hương, đường Gia Long, Mai Thảo dường đã quên, chuyện ấy. Tôi nói,
Mai
Thảo quên hay không đề cập nữa, vì, sau bài “Văn chương trước những mưu
đồ bất
chính của hệ thống chiến tranh lạnh,” Thế Nguyên và các bạn ông, tiếp
tục
“triển khai” trận đánh với cường độ “oanh kích” ngày một gia tăng bom,
đạn...
Du
Tử Lê
Theo như Gấu này còn nhớ được, thì Lữ Phương mới là người sử dụng từ
“viễn mơ”
để chỉ đám ‘tiểu thuyết mới’ ở Việt Nam, trong có Gấu, với hàm ý, trong
khi
đang phát động chiến tranh thần thánh chống Mỹ cứu nước mà bọn này nói
chuyện
bên Tây, chuyện văn chương thuần túy… đại khái như vậy. Đó là thời gian
Gấu
giới thiệu đám nhà văn hiện sinh, thí dụ loạt bài, "Thế nào là văn văn
chương dấn thân” trên tờ Nghệ Thuật, đám tiểu thuyết mới ở Tây…
Thành thử từ ‘dấn thân’ ở đây, không có nghĩa là theo VC, lên rừng,
nhưng theo
nghĩa của đám hiện sinh, qua ý nghĩa của từ ‘engagement’, engager, dấn
thân,
xuống thuyền, nhập vào đời sống, hành động...
Nhưng nhóm Trình Bầy quả có tấn công, không phải Mai Thảo, mà là Thanh
Tâm
Tuyền. Gấu có một kỷ niệm về vụ này. Đó là sau khi tấn công đã đời, một
bữa
tình cờ Thế Nguyên và Gấu gặp nhau, ở một nơi chốn tình cờ nào đó, ở
Sài Gòn,
và trong câu chuyện tầm phào, Thế Nguyên đưa ý kiến, muốn nhờ Gấu nói
lại với
TTT, là TN muốn gặp, để hòa giải!
Gấu nói với TTT. Ông bực quá, tao có chuyện gì với tụi nó đâu mà hoà
giải mới
không hòa giải, mà TN là thằng cha nào?
NKTV
Hạnh nói tiếp:
“Một lần anh Long và một người bạn nữa đã thách anh đến vuốt tóc em và
anh đã
làm thật. Ở con đường ra đồng trước cửa nhà một người Pháp có nuôi một
đàn
ngỗng dữ và em đã về mách nhà anh cái tội trêu trọc em và tội đứng đó
ăn cắp
trứng ngỗng.”
Tôi nắm chặt hơn tay Hạnh, có cảm giác hổ thẹn về những hành động ngây
thơ táo
bạo và tôi đáp:
“Nhưng em cũng biết là bà ngoại anh chẳng bao giờ trị tội anh cả.”
Hạnh gật đầu và cái búi tóc nghiêng xuống vai về phiá tôi. Hạnh hỏi lại
tôi:
“Học hết lớp nhất anh đi Sài Gòn? Anh làm gì?”
Tôi nói điềm nhiên và thành thật, ngoài ý muốn:
“Anh đã bán báo, làm thợ, và học nghề chữa ô tô.”
Bếp
Lửa
Lần gặp bạn C, ở San Jose, khi
ông anh mất, Gấu hỏi, bạn cho
biết:
-Đàn ngỗng có thực. Hồi nhỏ tớ cũng sợ mấy con ngỗng đó lắm. Nhân vật
trong Bếp
Lửa, hầu như tất cả đều có thực ở ngoài đời.
5 năm TTT ra đi
Thơ
Ở Đâu Xa
Note: Gấu đọc,
lần đầu bài thơ trên, của Beckett, là qua Thơ Ở Đâu Xa của
TTT.
Điều làm Gấu ngạc nhiên, là khúc trên được viết ở trong tù, mà lại viết
cho cô
con gái nhà thơ đọc, mà để nói về 'tôi muốn tình tôi chết'.
Chỉ đến khi BHD mất đi, thì Gấu
mới ngộ ra, đây là nói về Hà Nội.
Gấu dùng lại 'điển tích' trên, để viết về BHD, và về Hà Nội của Gấu.
BHD gốc Hà
Nội.
Tôi
muốn tình tôi....
Je
voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản
tiếng Anh của chính tác giả:
I
would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản
của Gấu:
Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu
Trong bài viết
mang giọng tự thuật, "Tôi mầy mò viết ra làm sao", đăng trên Người
Nữu Ước, số Tháng Chạp, 2003, Garcia Marquez kể, ông không thể nào
tưởng tượng
ra nổi, chỉ chín tháng sau khi học xong trung học đệ nhị cấp,
truyện
ngắn đầu
tay của ông được tờ Fin de Semanta,
phụ trang văn học của báo El
Espectador, ở
Bogota, đăng. Đây là tờ báo văn học số một của thời đó.
Bốn mươi hai ngày sau, truyện ngắn thứ nhì của ông cũng xuất hiện trên
mặt báo
này.. Sướng chưa!
Sướng quá là sướng.
Đúng là sướng quá cỡ thợ mộc, sướng đến điên lên được: Truyện không chỉ
được
đăng, mà còn được ông phê bình gia số một của thời đại, đi cho một
đường giới
thiệu ở ngay đầu.
Đó là tay chủ bút tờ báo, còn là phê bình gia sáng suốt nhất của Colombia,
me-xừ
Eduardo Zalamea Borda, bút hiệu Ulises. Sáng suốt, theo nghĩa, ông này
chuyên
ngửi ra.... thiên tài!
Đọc tới đây, Hai Lúa nhớ tới trường hợp truyện ngắn đầu tay của mình,
và mắt
xanh của nhà thơ lớn, nhà văn lớn, nhà phê bình lớn (1), và, nói ngắn
gọn, ông
anh lớn trong gia đình, Thanh Tâm Tuyền, tức anh Tâm. Dzư Văn Tâm.
Cả hai thằng nhà văn "trẻ", vừa mới viết truyện đầu tay, và đều sướng
điên lên, vì gặp mắt xanh, hoặc gặp được đại sư phụ, và được sư phụ gật
gù,
nói, được, được!
(1) TTT ít viết phê bình, đọc sách, tiểu luận. Nhưng phạng cú nào là ra
cú đó.
Thí dụ, bài viết về cuốn tiểu thuyết Siu Cô Nương, của
Mặc Đỗ. Mới đây thôi, trên tờ KH, MĐ, khi trả lời phỏng vấn, vẫn còn
đầy hậm
hực khi nhắc đến cú đánh đúng tử huyệt của chàng ngày xưa, và ông già
bây giờ:
Trí thức làm dáng! [Làm Dáng,
Mặc Đỗ trả lời phỏng vấn: Văn Học Miền Nam và nhóm Quan điểm, Khởi Hành, số Tháng Chạp 2004].
Hay là loạt bài viết về vị thần linh của miền nam, là Hồ Hữu Tường, và
cuốn
sách viết trong khi những giờ phút tưởng là cuối cùng của đời ông, Trầm Tư Của Một Tên
Tội Tử Hình.
Lạ.
Phải nói là khủng khiếp. Trong
loạt bài điểm cuốn sách trên, trên tuần báo Nghệ Thuật tại Sài Gòn ngày
nào,
TTT liên tưởng giấc mơ Phật trở lại với thế gian của HHT, với hình ảnh
hiện thực
xã hội chủ nghĩa của Miền Bắc qua đồng bằng sông Hồng bị xé lẻ, nát
bấy, bờ nhiều
hơn ruộng. Ông như "tiên đoán ra được", giấc mơ, hay hiện tượng
"Chúa Sẩy Thai", tức hiện tượng Hoá Thân: Thay vì Đức Phật trở lại,
thì đúng vào ngày cánh đồng kia liền một mối, đất nước liền một giải,
là con bọ
VC ra đời!
Khủng khiếp chưa!
Con Bọ của
Kafka và chiến tranh Việt Nam
Chúng ta đều biết hình dáng con bọ khủng khiếp, hoá thân của một ông VC
thực
tình tin vào Đảng, ngay sau ngày 30 Tháng Tư. Nhưng ngay cả Kafka cũng
không
thể nào tưởng tượng ra nổi con bọ của ông. Ông không bao giờ muốn hình
dạng của
nó được phô bầy ra trước độc giả.
Flaubert đã từng muốn văng tục, khi nhà xb muốn một cuốn sách của ông
có hình
minh họa. "Minh họa là phản văn chương". "Thà chết còn hơn là
minh họa" [Vous voulez que le premier imbécile venu dessine ce que je
me
suis tué à ne pas montrer ? Marthe Robert: Livre de lectures].
Kafka
đành phải chấp nhận bìa cuốn Hoá Thân có hình, nhưng năn nỉ [Marthe
Robert dùng
chữ supplier] nhà xb, bằng mọi cách, không được trương hình con bọ ở
ngoài bìa.
"Gì cũng được, nhưng chuyện này nhất định không" ["Surtout pas
cela, surtout pas cela!"], ông khiếp hãi trước một chuyện thô bỉ như
thế,
trong thư gửi nhà xb. Cuối cùng, độc giả có một con bọ Gregor vẫn còn
mang dạng
người, đứng trơ cu lơ một mình, trong một căn phòng trần trụi, quay
lưng về
phiá một cái cửa hé mở, trên một cái nền đen, tay ôm đầu.
Gấu tui có đọc báo trong nước ở trên lưới [tờ Người Lao Động thì phải],
câu
chuyện một nữ cán bộ, trong lúc mệt nhọc vì công chuyện, bật cái máy TV
nghỉ xả
hơi, và một giọng nói vùng địa phương của bà khiến bà chăm chú theo
dõi, câu
chuyện một bà, suốt từ 30 Tháng Tư, đi khắp một nửa đất nước, tìm hài
cốt
chồng. Bà đau lòng nghĩ, mình may mắn hơn, mà sao thê lương quá. Bởi vì
chồng
bà có về, nhưng đã biến thành một... con bọ. Đúng lúc đó, con bọ bò về
nhà, sặc
sụa mùi rượu Tây, mùi nước hoa nữ loại thượng hảo hạng...
Ai điếu Samsa
Vài nét
về tác giả bộ truyện
gián điệp Z-28
Trước
năm 1975, dân ghiền đọc
sách có lẽ đều có dịp đọc bộ truyện gián điệp của Người Thứ Tám. Trong đó nhân vật chính là Đại Tá Tống Văn
Bình tức Z.28. Nhiều bạn bè của tôi đã
sưu tầm tất cả bộ truyện gián điệp này và trân quý giữ gìn.
Tôi chịu những sách của ông
là về phần tin tức về các thành phố mà ông dùng làm bối cảnh câu chuyện. Không hiểu ông nghiên cứu và khảo sát từ đâu,
nhưng các chi tiết về các thành phố mà Z.28 đi qua, cùng các nhân vật
khác trong
truyện sinh sống, đều đúng y chang như ngoài đời. Tôi
và bạn bè, trong những chuyến du hành, so
sánh tận nơi về các địa điểm nổi tiếng, các nhà hàng, quán cóc, ngỏ
hẻm, chốn
ăn chơi đều đúng y như vậy. Mà tôi thì
không nghĩ tác giả đã đi qua những nơi ấy, lấy ví dụ như các xứ Cộng
Sản.
Tôi nghĩ tác giả đã lấy những
tin tức này từ các quyển chuyên về du lịch nên mới chính xác, và rút ra
những
nét thú vị mà chia sẻ với độc giả. Phải
chi tác giả là người Âu Mỹ, truyện của ông chắc sẽ được nhiều người xem
lắm và
hổng chừng được làm thành phim dài hay phim ngắn cho TV.
Sau năm 1975, ra đến ngoại
quốc, tôi lấy làm lạ là chẳng thấy tin tức gì của ông.
Tôi có hỏi thăm vài bạn bè quen biết ông,
nhưng chẳng ai biết ông đã lưu lạc phương nào.
May quá có anh H.T.Trực là
dân làng báo khi xưa, anh thương và chiều tôi nên đã cố gắng hỏi thăm
giùm. Thật cảm ơn anh vô cùng!
Mặc dù đây chỉ là thư riêng,
nhưng tôi xin mạn phép được đăng lên đây để chia sẻ niềm vui của tôi
với
"dân ghiền Z.28" ngày trước. Hy vọng BDH
Đặc Trưng chấp thuận.
NDT
*********
(trích thư của anh H.T.Trực)
Anh chị em thân mến:
Là
một nhà văn chuyên viết tiểu-thuyết
gián-điệp lẫy-lừng của miền Nam Việt-Nam trước năm 1975 nhưng tiểu-sử
của Người
Thứ Tám, tác-giả cha đẻ điệp-viên hào-hoa phong-nhã Đại-Tá Tống Văn
Bình, bí
danh Z 28 lại rất hiếm người nhắc đến (không như một số nhà văn viết
truyện
trinh-thám gián-điệp khác như Phú Đức, Phi Long, Phạm Cao Củng ...).
Nhằm
đáp-ứng sự tò mò của một vài anh
chị em Thụ-Nhân, tôi đã cố-gắng liên-lạc lại với Cụ Mạc-Kinh Trần Thế
Xương,
năm nay đã 84 tuổi, đang sinh-sống tại Luân-Đôn, để nhờ Cụ cung-cấp
thêm một số
chi-tiết vì chính Cụ Mạc-Kinh là người đầu tiên đã gới-thiệu các
tác-phẩm của
Người Thứ Tám Bùi Anh Tuấn đến với độc-giả từ giữa thập-niên 50. Bài
sau đây do
cháu nội gái 22 tuổi của Mạc Kinh đánh máy và gởi sang. Tôi chỉ sửa một
vài lỗi
chính tả và thêm một ít ghi chú màu xanh khi nào cảm thấy cần thiết.
Xin
mời anh chị em cùng đọc.
Kính gửi Anh Huỳnh trung
Trực,
Dựa theo nội dung Email anh
gửi cho hai ông bạn TQK và ST, tôi được biết anh có ý định tìm hỏi tôi
về “tiểu
sử” nhà văn Bùi Anh Tuấn. (TQK: Giáo-sư Tạ Quang Khôi, sinh 1929, nhà
văn, nhà
thơ, Hiệu-Trưởng Trung-học Nguyễn Trãi Sài gòn - ST: Sơn Tùng Nguyễn
Minh Ngọc,
sinh 1935, Chủ-Tịch Văn Bút Việt Nam Hải-Ngoại, Luật-sư))
Vậy chuyện ấy cũng dễ thôi.
Chỉ có điều trong lúc chưa biết thật rõ về ý định của anh định dùng vào
trường
hợp nào, thành thử cũng hơi khó cho tôi được thanh thản đề cập đến.
Thôi thì, thế này nhé. Tôi
viết theo lời một lá thư thông thường, bình thường. Vắn tắt, giản dị
như chúng
ta đang nói chuyện qua điện thoại với nhau nhắc về một người quen đã
hơn 35 năm
tôi chưa gặp lại.
Minh định với anh như vậy
rồi, tôi xin nêu mấy nét chính về nhà báo, nhà văn BÙI ANH TUẤN như
sau, trong
phạm vi tôi biết:
· Hai chúng tôi là bạn,
là đồng nghiệp cầm
bút trong 21 năm ở Miền Nam (VNCH). BAT cùng một lứa tuổi với tôi.
· Anh Tuấn sinh trưởng ở
đất Bắc (tỉnh Thanh
Hóa – vùng địa đầu xứ Trung Kỳ). Anh có mặt ở Saigon
sau Hiệp định Genève 1954, chia cắt đất nước.
Thời gian ấy anh đã lập gia
đình. Bà Bùi Anh Tuấn là một phụ nữ đất Thần Kinh, thuộc một vọng tộc
tên tuổi.
Hai ông bà sinh hạ được một bé trai vài bốn tuổi. Và, nếu là một ký
giả, một
nhà văn thì Anh Tuấn sớm có một đời sống khá cao ở đất Saigon giữa lúc
đông đảo
lớp người di cư vào Nam
đang phải bận tâm rất nhiều về mặt lo ổn định cuộc sống, lập nghiệp.
· Tính tình anh điềm
đạm, nhã nhặn, nghiêm
túc trong tiếp xúc với bạn bè, trong công việc. Đã hẹn là “đúng giờ”.
Đã hứa là
“làm”.
· Anh không bao giờ la
cà trong các chốn trà
đình tửu quán. Nếp sống của anh dành hoàn toàn cho mái ấm gia đình, cho
sự chăm
sóc bà vợ vốn tình trạng sức khoẻ không được tốt lắm; sau các việc hàng
ngày.
Anh phục sức, mang dáng dấp của một thông tín viên Au Mỹ thời đó đến Saigon . Anh hầu như chỉ thắt “nơ” cánh bướm
thay cho “cà
vạt”. Và, trên các đường phố nhỏ hẹp của Saigon Chợ Lớn - nếu có người
Việt nào
lái chiếc xe Mỹ Plymouth to cồng kềnh, dài ngoằng, màu cánh gián, thì
người đó
không ai khác hơn là Bùi Anh Tuấn.
(đoạn mô tả ngoại-hình và
lifestyles này phù-hợp với hồi-ức của Đỗ Khiêm trong Tống Văn Bình, trên TV
· Thời ở tuổi vừa ngoài
20, Nhật hạ Pháp qua
cuộc đảo chính 9/3/1945, Phong trào Việt Minh (sau này lộ diện là CS)
nổi lên,
và cướp chính quyền trong tay Thủ Tướng chính phủ Trần Trọng Kim đặt
dưới quyền
lãnh đạo tối cao của nhà Vua Bảo Đại, thì Bùi Anh Tuấn đã là một đảng
viên
VNQDĐ. Anh lao mình tham gia các hoạt động chống lại VM. Kịp đến lúc
tiếng súng
mở đầu cuộc chiến tranh Việt – Pháp ngày 19/12/1946, BAT bị Ban Trinh
Sát (tức
Công An-Mật Vụ CS theo tên gọi bây giờ) nhận diện, bắt, và đưa đi an
trí tại
trại giam Đầm Đùn thuộc tỉnh Thanh Hoá (Liên khu IV), nổi tiếng là đia
ngục
trần gian, đã vào đây khó có ngày về. Chốn ngục tù hãi hùng này là nơi
giam hầu
hết các anh em đảng phái QG chống lại CS Việt Minh. (một phần khác đáng
kể, thì
bị đày lên chốn rừng rú Thái Nguyên, Việt Bắc).
Anh Tuấn bị tra tấn tàn khốc,
có lúc tưởng khớp xương đầu gối lìa ra, không còn cho phép anh đi đứng
bình
thường lại nữa.
Nhưng số mệnh cho anh lay lắt
sống.
Cũng như vài năm sau số mệnh
lại cho anh có cơ hội thoát ngục trong đường tơ kẽ tóc. Anh lần mò về
thành. Về
Hà nội, rồi vào Nam
.
Trong những năm, tháng bị an
trí ở Đầm Đùn, Bùi Anh Tuấn có duyên may gặp một bạn tù đã ở vào tuổi
trung
niên. Thời Pháp thuộc, ông này dạy Anh văn ở Lycée Louis Pasteur Hà
nội. Nay
trong thân phận tù đầy, để cố quên mà tồn tại, mà sống, ông dạy Anh ngữ
cho
Tuấn. Học cho qua ngày. Nhưng sau này, nhờ vậy, BAT có sẵn số vốn cần
thiết về
ngôn ngữ Hoa Kỳ khi người Mỹ thoạt đặt bước vào Miền Nam (Trước kia đại
đa số
người Việt 3 miền Trung Nam Bắc chỉ biết có tiếng Pháp).
· Tôi
nghĩ, điều anh Huỳng Trung Trực muốn
biết trước nhất, có lẽ là những gì liên quan đến nhà văn BAT ở địa hạt
viết
lách. Sao BAT lại viết một loạt truyện gián điệp có đến vài bốn chục
tác phẩm
trong đời cầm bút của Anh? Anh khởi sự viết về ngành Tình báo lúc nào,
và ở
mảnh đất dụng võ đầu tiên, là báo nào? Sao Anh lại mang bút hiệu Z28.
(bút hiệu
chính-thức là Người Thứ Tám). Và có khi ở ngoài đời, thuở Sàigòn còn vô
cùng
hưng thịnh, đầy quyến rũ, thì bạn bè và đồng nghiệp thường ít dùng đến
tên Bùi
Anh Tuấn mà quen gọi đùa vui Z28, hoặc Văn Bình (tên nhân vật gián điệp
hào
hoa, xuất quỷ nhập thần mà tác giả chọn, đặt vào các tác phẩm trinh
thám hữu
hạng của Anh. Cứ như ngày nay, giới độc giả thưởng ngoạn biết đến James
Bond!)
Đúng ra, Bùi Anh Tuấn không
chỉ viết văn “hay”về tiểu thuyết trinh thám mà Anh còn là cây bút bình
luận có
trình độ khá cao. Anh thực sự là một nhà báo chuyên nghiệp! Thực sự là
một nhà
văn, trên ngôn đàn Miền Nam
! Của VNCH!
(Một chút bối-cảnh lịch-sử)
· Lúc
người Mỹ có mặt ở Miền Nam 1954
cũng là lúc muốn hất chân, thay thế chính quyền thực dân Pháp ở VN, ở
toàn cõi
Đông Dương Việt, Miên, Lào. Sớm muộn, quân đội Viễn chinh Pháp cứ rồi
phải cuốn
cờ kéo ra khỏi vùng đất VN trước hết...
Cùng với sự hiện diện của các
phái bộ chính trị, quân sự Mỹ đổ vào Miền Nam ủng hộ nhà lãnh tụ quốc
gia N.Đ.
Diệm thiết lập một tiền đồn chống Cộng ở ĐNÁ, người ta bắt đầu nghe đến
một
tiếng gọi khá lạ tai: XI-AY-Ê (C.I.A)!
Có nghĩa là một đạo quân vô hình trong bóng tối, xuất quỷ nhập thần. Sứ
mạng
của họ là san bằng mọi chướng ngại vật cản trở những bước tiến, những
mục tiêu
cần đạt được của Hoa Kỳ tại các vùng đất người Mỹ muốn đến. Khởi thuỷ,
là Nam
Hàn, Tổng thống Lý Thừa Vãn phải mất chức, lưu vong trốn ra nước ngoài.
Rồi, ở
Phi Luật Tân, Magsaysay được đưa lên làm Tổng Thống. Chẳng bao lâu,
Magsaysay
“giở chứng quốc gia-dân tộc” thì rất mau chóng, nhà lãnh tụ đất Phi bị
gài bom
nổ tan xác trên chiếc máy bay chở ông đi kinh lý! Thế rồi, ở Lào, viên
đại uý
Koong Ly [Khong Le] làm đảo chính toan hạ bệ đương kim thủ tướng –
Hoàng thân
Souvana
Phouma (thân Pháp, chủ-trương Trung-Lập, có vợ là người Pháp)....
Chưa hết. Sát biên giới Miền
Nam, ông Hoàng Sihanouk nước Miên định đóng vai nhà chính trị đi giây,
vốn là
con cưng của người Pháp, xoay chiều theo ngọn gió thời thế, mở đường
rước Nga
sô vào xứ Chùa Tháp, kết thân với Trung Cộng, cùng lúc, hết lời ca tụng
khối
Trung lập Nehru Ấn độ. Và, tận tình giúp đỡ CS Hà nội trong tay ****,
bằng cách
để Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
mở chiến khu trên đất Miên chống lại VNCH. (Sihanouk tuy vốn sợ chế độ
Ngô Đình
Diệm ngoài mặt, nhưng vì lòng căm thù Miền Nam
đến xương tuỷ Sihanouk vẫn âm
thầm thực hiện manh tâm riêng cho bằng được).
Sihanouk biết ngán ngẩm người
Mỹ lắm. Thèm muốn sáp lại với Hoa Kỳ song bị Hoa Kỳ quyết liệt cho đứng
xa...Và, (Hoa-Kỳ) luôn có sẵn giải pháp “hạ thủ” Sihanouk khi thời cơ
đến …
Tại Thái Lan, chỉ cách VNCH
không đầy 1 giờ bay, cảnh đảo chính kế tiếp đảo chính xẩy ra như cơm
bữa. Nhiều
nhóm tướng lãnh quân đội, hết lần này đến lượt khác, thay nhau tạo biến
cố lật
đổ chính phủ. Khiến xã hội chính trị đất Thái luôn sống trong hỗn loạn
bất an.
Giải đất Đông Dương trăm năm
đặt trong tay người Pháp nay đang sống những giờ phút hãi hùng...thay
bậc đổi
ngôi.
Nhìn vào, dư luận bên ngoài
đều liên tưởng đến bàn tay phù thuỷ của cái tổ chức
XIAYẾ (CIA) kia... (xi-ai-ây)
Trên giải đất VNCH, tiếng
vọng “CIA” không ngớt vang dội, người người nghe mãi hóa quen tai, đã
đổi thành
“XIA” cho tiện việc. (cũng phổ-biến với tên gọi Xịa)
May mắn, nhà lãnh tụ Ngô Đình
Diệm đang ở thời dốc toàn lực chống trả đạo quân đặc công miền Bắc xâm
nhập nên
tình huống VNCH buổi đầu chưa đến nỗi nào!
Thời cuộc ấy, chính là lúc
gợi ý cho tác giả Bùi Anh Tuấn chọn con đường sáng tác loại tác phẩm
thích ứng
với tâm lý quần chúng độc giả Miền Nam .
Z. 28 ra đời là vậy!
· Tại
Sàigòn, thuở phôi thai của nền Đệ
Nhất Cộng Hòa, tôi đang chủ trương tờ tạp chí Pháp ngữ Horizon và điều
khiển
tòa soạn nhật báo Dân Chúng (Chủ-Nhiệm của nhật-báo Dân-Chúng là Cụ
Trần Nguyên
Anh, thân-phụ của cụ Mạc-Kinh Trần Thế Xương và là chú của Ngoại-Trưởng
Trần
Chánh Thành) một hôm, Bùi Anh Tuấn ghé thăm tôi và ngỏ lời với tôi thử
xem Anh
có thể đóng góp gì cho một tờ báo chống Cộng không?
Và rất tự tin, thành thực, đi
thẳng vào đề:
- Đã
biết từ lâu và nghe nhiều về anh,
càng biết anh bận lắm nhưng mong anh dành cho tôi 15’. Chỉ cần anh liếc
mắt
nhanh trong khoảnh khắc thời gian ấy, cho hết chapitre đầu vào truyện,
tôi tin
chắc, ở vị trí chủ bút như anh, anh sẽ cho tôi nhận xét “được hay chẳng
được”
(toàn bộ bản thảo cuốn truyện khoảng gần 300 trang). Anh nhận, thì tôi
mừng,
tôi vui lắm. Anh không nhận, vẫn chẳng sao. Vì, xin lỗi anh, tôi có
niềm thú vị
riêng – Anh là người “độc giả” đầu tiên, tôi chọn, tôi trao anh đọc nó.
Hễ được
là được. Hễ chưa được, tức đề tài của truyện chưa đạt. Tôi tự biết sẽ
làm sao
sau đây...
Đấy, tính tình tác giả Z28 là
vậy đó. Tôi mến Anh, cũng vì vậy.
Không phụ lòng anh. Mỉm cười
thân mật, tôi đọc ngay chương sách đầu.
Một thoáng chốc qua mau.
Giữa lúc, có thể, là anh đang
quan sát tôi kỹ lắm, tôi đặt bản thảo xuống, cất tiếng vừa đủ để anh
nghe:
- Anh
cho tôi giữ chương truyện này nhé.
Và xin giữ luôn toàn bộ bản thảo, sẽ đọc vào lúc khác.
Tôi đang cần 1 feuilleton như anh đã có ngay cho báo Dân Chúng. Số báo
mai, tôi đăng lời giới thiệu.
Và, đầu
tuần tới, “Điệp viên Miền Nam
trên đất Bắc” sẽ lọt vào mắt các độc giả Sàigòn và lục tỉnh. Cám ơn anh.
Bùi Anh Tuấn cất tiếng cười
vang.
Và, tôi cũng cười vang, cùng
vui với anh.
Đấy, tác giả Z. 28 xuất hiện
trên mặt báo Dân Chúng, bên này sông Bến Hải, ở vĩ tuyến 17, như thế đó.
Và, trong 3 năm liên tục
(1957-1960), ngày lại ngày, nhiều cốt truyện gián điệp khác của Z. 28
đã
được
đăng trên tờ nhật báo Dân Chúng (sau đó, mới in thành sách) đem lại
biết bao
sôi nổi, hào hứng cho nhiều từng lớp độc giả thân mến của anh em cầm
bút chúng
tôi.
Và, độc giả vẫn mãi mãi là
những bậc vạn thế sư biểu của giới văn nhân đất Việt!
--------
Gần 40 năm qua, từ sau ngày
Sàigòn thất thủ, BAT hoàn toàn “mất tích” trong đời tôi. Tôi thật muốn
gặp lại anh. Để tâm sự việc đời người, việc thời thế của một quá khứ
đầy thê
lương.
Tràn ngập u uất...
Tôi bị kẹt lại vùng CS 9 năm.
Tôi không đi “trình diện”. Cuối năm 1976, tôi mới bị sa vào tay CACS.
Bị giam
giữ riêng tại Sở CA **** (trụ sở cũ của Tổng Nha Giám
Đốc
Cảnh Sát QG, đường Trần Hưng Đạo). Ngày đêm chịu sự thẩm vấn triền miên
của
“Ban Chánh Trị” trực thuộc Uỷ Ban Quân Quản Thành Uỷ ****. Tháng
4/1984, nhờ sự
can thiệp của Chính phủ Anh quốc, tôi và gia đình được “bước lên máy
bay” sang
Luân Đôn cư ngụ cho đến ngày nay.
Tất cả, chẳng qua vẫn chỉ nằm
trong bàn tay của Thần Định Mạng...
Mac Kinh
Nguồn: Đặc Trưng
TTT
cũng mê Z. 28 lắm lắm. Mấy
truyện đầu thật tuyệt cú mèo, thí dụ Núi đá
tiên tri. Tống Văn Bình có cú atémi thần sầu, nhưng làm sao quên
tài phóng
dao của Lê Diệp!
Đó là thời mới lớn, mới quen
bạn C. Gần như ngày nào Gấu cũng ở bên nhà bạn. Bà cụ C. cũng mê Tống
Văn Bình!
Sau này, Gấu mới biết, nhiều
truyện phóng tác, thí dụ, truyện Tống Văn Bình ra Hà Nội, Gấu không còn
nhớ cái
tít, phỏng theo truyện Gián điệp về từ miền
lạnh của John le Carré.
Sau Z.28 là tới chưởng KD
Trước 1975, Gấu cũng đã nghe nói
tới Bùi Anh Tuấn là cha đẻ của Z.28.
|
|